Hữu Nguyên (
huunguyen@saigontimes.org)
LGT: Lịch
sử nhân loại trong thời gian một thế kỷ qua đã chứng kiến, chủ nghĩa
cộng sản mang lại sự khổ đau cho hàng tỷ người trên thế giới, trong đó
có hàng trăm triệu người bị thảm tử. Thê thảm hơn, chủ nghĩa cộng sản
còn thiêu đốt không biết bao nhiêu nhà trí thức, khoa bảng, chính trị
gia nổi tiếng thế giới, khiến họ, từ những người có lương tâm, có hoài
bão phụng sự tha nhân, trở thành những kẻ bất nhân, tội đồ của lịch sử.
Trong số những chính trị gia bất hạnh đó, có Thủ Tướng Úc Whitlam. Xác
nhận thực tế này, ngày 26.3.2015, nhật báo The Australian đăng một bài
viết của ký giả Greg Sheridan, trong đó có câu: "Thái độ của
Whitlam trong cương vị Thủ Tướng Úc vào tháng 4.1975, khi Saigon bị VC
cưỡng chiếm, là một trong những chương nhục nhã nhất của lịch sử Úc thời
hiện đại." (Whitlam’s behaviour as prime minister at the fall
of Saigon in April 1975 was one of the most disgraceful episodes in
modern Australian history <http://www.theaustralian.com.au/opinion/columnists/malcolm-fraser-was-no-saint-for-vietnamese-refugees/story-e6frg76f-1227278655636> ).
Nhận
định của ký giả Greg Sheridan cho thấy sự thực, ngay cả những trí thức
khoa bảng, những chính khách tài ba, dù là người Việt hay ngoại quốc,
một khi ngây thơ tin vào những lời đường mật của cộng sản, đều dễ bị
thân tàn ma dại, chuốc sự nhục nhã cho bản thân, gia đình, thậm chí tổ
quốc. Nhận định này cũng cho thấy, trong Chiến Tranh VN, bên cạnh sự hy
sinh xương máu, đóng góp công sức, tiền của, của các quốc gia Đồng Minh,
cũng có những chính trị gia Đồng Minh, vì lý do này hoặc lý do khác, đã
vô tình hoặc cố ý, tiếp tay CS đâm sau lưng VNCH. Vì vậy, khi kính cẩn
tri ân những hy sinh to lớn của quân dân các quốc gia Đồng Minh, người
Việt yêu nước vẫn nên biết đến những hành động phản bội của một số chính
khách Đồng Minh trong đó có cố thủ tướng Whitlam.
SAI LẦM CỦA THỦ TƯỚNG ÚC WHITLAM
Cựu Thủ tướng Australia, Gough Whitlam. |
Tháng
4 năm 1975, tại Úc, Đảng Lao Động cầm quyền và thủ tướng Úc là ông
Whitlam. Ông này tướng người bệ vệ, mặt mũi phương phi, tài cao học
rộng, nên đã thành công trong việc lèo lái Đảng Lao Động, trở thành đảng
cầm quyền, sau thời gian dài 23 năm thụ động, trong vai trò chính đảng
đối lập. Là lãnh tụ của một chính đảng, có khuynh hướng thiên tả nên
Whitlam cũng có những ảo tưởng sai lầm về cộng sản VN. Đó là lý do, sau
khi trở thành thủ tướng Úc vào ngày 5.12.1972, không đầy 3 tháng sau ông
chính thức bang giao với VC vào ngày 26.2.1973,và cho mở toà Đại Sứ Úc
tại Hà Nội. Khi đó, Úc vẫn bang giao với VNCH, vẫn có tòa Đại Sứ tại
Sàigòn, và quân dân Miền Nam vẫn đang tiếp tục chiến đấu chống lại làn
sóng xâm lăng của VC. Bề ngoài, thủ tướng Whitlam nhìn nhận, mối bang
giao tay ba giữa Úc với Hà Nội và Sàigòn là mối bang giao bình đẳng
không có bên trọng, bên khinh. Nhưng thực tế, Đảng Lao Động cũng như cá
nhân thủ tướng Whitlam đã âm thầm, có những đường lối chính sách, hậu
thuẫn cho nhà cầm quyền CS Hà Nội.
Bằng
chứng, cách đây 40 năm, thủ tướng Whitlam đã âm thầm lừa gạt quốc hội
và dân chúng Úc khi ông thiên vị VC. Trong khi cộng sản ngang nhiên vi
phạm Hiệp Định Ba Lê xua quân chiếm đất giành dân, tấn công VNCH, thủ
tướng Whitlam đã bí mật gửi cho tòa đại sứ Úc tại Hà Nội một bức điện
văn có những lời lẽ hậu thuẫn cộng sản. Công khai, thời điểm đó, thủ
tướng Whitlam gửi 2 bức điện văn: một cho đại sứ David Wilson ở Hà Nội,
và một cho đại sứ Geofrey Price ở Sàigòn. Cả hai bức điện văn cùng đề
ngày 2 tháng 4 năm 1975, trước khi Sàigòn thất thủ đúng 28 ngày. Trong
khi bức điện văn của thủ tướng Whitlam gửi cho đại sứ Úc tại Sàigòn chỉ
có vỏn vẹn không đầy nửa trang thì trái lại, bức điện văn gửi cho đại sứ
Úc tại Hà Nội dài gấp ba lần. Bằng chứng thứ hai, lời lẽ trong bức điện
văn gửi cho đại sứ Úc tại Sàigòn ngắn gọn khô khan, lạnh lùng hình
thức, trong khi bức điện văn gửi cho đại sứ Úc tại Hà Nội lại thân mật,
chi tiết với những nội dung cụ thể, yêu cầu đại sứ Úc phải làm để chinh
phục tình cảm của Hà Nội.
Bằng
chứng thứ ba, trong khi CS Hà Nội vi phạm Hiệp Định Ba Lê là một điều
hiển nhiên, nhưng bức điện văn gửi cho đại sứ Úc tại Sàigòn không có một
điều khoản, hay một dòng chữ nào đề cập đến sự vi phạm của CS Hà Nội.
Trái lại bức điện văn chỉ yêu cầu ông đại sứ Úc tại Sàigòn, trình bày
quan điểm của Úc đối với tổng thống Thiệu, "yêu cầu tất cả các phe phái tại Việt Nam cùng tái thương thảo làm việc, để đi đến một thỏa thuận hòa bình và lâu dài" (all parties in Vietnam will resume working together... towards a peaceful and enduring settlement).
Phi
lý hơn nữa là trong phần B của bức điện văn, thủ tướng Whitlam còn yêu
cầu chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, thực hiện nghiêm chỉnh Chương 4, đặc
biệt là Điều 12, và Chương 5 của Hiệp Định Ba Lê, bằng không sẽ không có
cơ hội chấm dứt hoặc giảm thiểu những xung đột võ trang.
Bằng
chứng thứ 4, trong mục 3 của bức điện văn, thủ tướng Whitlam thúc dục
đại sứ Úc tại Sàigòn cố gắng trong điều kiện có thể, trình bày quan điểm
của chính phủ Úc với "những người Nam Việt không phải là thành viên của
chính phủ Sàigòn nhưng có thể đóng vai trò chính trị quan trọng trong
tương lai". Những người Nam Việt mà thủ tướng Whitlam ngụ ý ở đây, chính
là những thành phần thân cộng, ngụy quốc gia, đội lốt thành phần thứ 3
tại Miền Nam lúc đó. Một vị thủ tướng, trong khi đang có quan hệ ngoại
giao chính thức với VNCH, lại viết một lá thư như vậy thì rõ ràng nguy
hiểm và phản bội những nguyên tắc ngoại giao sơ đẳng.
Bằng
chứng thứ 5, trong phần C của bức điện văn gửi cho Hà Nội, thủ tướng
Whitlam còn hứa với chính phủ Hà Nội, ông sẽ thúc dục tổng thống Thiệu
tôn trọng các điều khoản trong Hiệp Định Ba Lê. Đặc biệt ở phần B của
bức điện văn, thủ tướng Whitlam còn yêu cầu đại sứ Úc, nên cố vấn cho
chính quyền Hà Nội những phương thức tranh thủ dư luận quốc tế, biện
minh cho hành động vi phạm Hiệp Định Paris, tiến chiếm Việt Nam Cộng
Hòa. Bằng chứng thứ 6, trong phần 3 của bức điện văn gửi Hà Nội, thủ
tướng Whitlam còn hứa, sẽ viện trợ một cách dồi dào cho VC tái kiến
thiết VN một khi chiến tranh chấm dứt.
Thủ
tướng Whitlam là một người có tài, và thực sự là bạn của người nghèo,
của những người bị áp bức. Nhưng chỉ vì không hiểu rõ VC, nên ông đã có
thái độ tàn nhẫn, lạnh lùng đầy ác cảm đối với người Việt tỵ nạn CS.
Chính thái độ này đã khiến ông, từ một chính khách tên tuổi và uy tín,
trở thành một kẻ cơ hội chủ nghĩa. Âu đó cũng là bài học cho các chính
khách nói riêng, và cho tất cả mọi người nói chung, khi giao tiếp với
CSVN.
BÀI VIẾT CỦA KÝ GIẢ NORMAN AISBETT
Norman Aisbett |
Năm
2013, tưởng niệm 38 năm Quốc Hận, ký giả Norman Aisbett, người được
trao giải Graham Perkin Award (Australian Journalist of the Year) năm
1981, sau bài tường thuật của ông về việc cứu giúp thuyền nhân VN tỵ nạn
cộng sản, cũng đã viết một bài dài gửi riêng báo Saigon Times Úc Châu,
trong đó tác giả đã vạch rõ những sai lầm của thủ tướng Úc Whitlam. Sau
đây là phần lược dịch những điểm chính yếu trong bài viết.
Lịch
sử chiến tranh Việt Nam ghi nhận, Hoa Kỳ đã giải cứu cả trăm ngàn người
Việt trong cơn tuyệt vọng, khi Sài Gòn rơi vào tay cộng sản Bắc Việt
ngày 30 tháng Tư năm 1975. Trong thời gian ngắn ngủi vài tuần lễ, bằng
phi cơ, trực thăng, tàu bè các loại, Hoa Kỳ đã cứu thoát 130.000 người
Việt Nam khỏi sự trả thù ghê rợn của VC. Cùng thời điểm này, chính phủ
Lao Động cánh tả Úc, dưới quyền của Thủ Tướng Gough Whitlam, đã có những
quyết định, những lời tuyên bố được coi là bạc nhược và đáng hổ thẹn.
Hậu quả, trong số hàng ngàn người dân tị nạn của miền Nam Việt Nam tìm
cách trốn đến Úc trong biến cố “Tháng Tư Quốc Hận năm 1975” (như người
Việt Nam yêu nước vẫn thường nói), chỉ có 78 người thành công. Họ bao
gồm 34 nữ tu, đoàn tụ gia đình, và chỉ có vỏn vẹn đúng 5 người trong số
hàng ngàn người cộng tác với Úc trong chiến tranh VN, và bị coi là nguy
hiểm dưới chế độ VC. Các nhân viên miền Nam Việt Nam của tòa đại sứ Úc
là những người bị chính phủ Úc từ chối, không cho họ được di tản theo
diện tị nạn cộng sản vì các quyết định của Thủ Tướng Úc Gough Whitlam.
Ông Whitlam đã bác bỏ lời kêu gọi đầy nhiệt huyết của Ngoại Trưởng Don
Willesee trong việc cứu giúp 115 nhân viên người Việt làm việc cho tòa
đại sứ Úc, thoát khỏi sự trả thù của cộng sản.
Còn
về những hoạt động nhân đạo khác trong cùng thời điểm này, Úc chỉ nhận
có 283 trẻ mồ côi còn lại, trên hai chuyến bay RAAF ghé qua Malaysia.
Ngoài ra, Whitlam cũng ra lệnh cấm bất cứ hoạt động nhân đạo
tương tự nào khác. Đồng thời, qua việc hạn chế những trợ giúp người di
tản, tị nạn cộng sản trong giờ Sài Gòn hấp hối, Whitlam đã đóng cửa tòa
đại sứ Úc ở Sài Gòn từ ngày 25.4.1975, khiến người dân miền Nam Việt Nam
mong muốn nhận được sự giúp đỡ từ chính phủ Úc để chạy trốn khỏi chế độ
cộng sản, đã gặp phải những trở ngại to lớn.
Dù
là một đồng minh chiến đấu của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa cho đến khi
Hiệp Định Paris 1973 được ký kết, chính phủ Úc đã không tận lực cứu giúp
người dân miền Nam vào Tháng Tư 1975. Trong khi hiệp định Paris từng
được coi là một giải pháp chính trị liên quan đến cuộc tổng tuyển cử tự
do để tái lập hòa bình ở Việt Nam, nhưng điều này đã không bao giờ xảy
ra vì phía cộng sản Bắc Việt đã có âm mưu, chờ sự triệt thoái toàn diện
của các lực lượng quân sự nước ngoài, rồi ngang nhiên vi phạm những thỏa
thuận ngưng bắn để xâm chiếm toàn bộ lãnh thổ miền Nam.
Thái
độ thờ ơ quá rõ ràng của chính phủ Úc trong bối cảnh suy sụp của miền
Nam Việt Nam đã được ghi trong luận án tiến sĩ vào năm 1994 của ông Hal
Colebatch, một nhà văn, nhà thơ, nhà báo kiêm luật sư, cư trú tại Tây Úc
và được công chúng biết đến khi ông được tặng thưởng Huân Chương
Centenary cho tác phẩm của mình trong tất cả các lĩnh vực.
Cùng
xuất thân từ Tây Úc là ký giả Rod Moran, người đã viết rất nhiều về
lịch sử quân sự bao gồm cả chiến tranh Việt Nam. Rod nói rằng bài luận
án của Hal Colebatch là “bài viết khách quan duy nhất trong lĩnh vực gây
tranh cãi bởi những cuộc bút chiến của phe cánh tả”. Luận án của Hal
Colebatch được coi là nền tảng của bài viết này. Tuy nhiên, điều đầu
tiên cần giải thích rằng, trong khi đảng LĐ của ông Whitlam, luôn phản
đối mạnh mẽ sự tham chiến của Úc trong chiến tranh thì trước đó, họ đã
dấy lên phong trào phản chiến, và nhiều chính trị gia của đảng LĐ sau
này, cũng đã tham gia nhiệt tình vào những cuộc tuần hành phản chiến
trên đường phố, hỗ trợ cho VC.
Hal Colebatch |
Hal
Colebatch cho biết, nguyên nhân khiến chính phủ Lao Động Úc thờ ơ, lạnh
nhạt với người tị nạn Việt Nam lúc đó, là do đảng Lao Động tin rằng VC
đã “giải phóng” Miền Nam, mà không biết thực tế, VC đã "xâm lăng" Miền
Nam, dẫn đến làn sóng người tị nạn dâng cao bất ngờ. Do vậy, Úc đã không
có một kế hoạch đáng kể nào để chuẩn bị cho việc cứu giúp họ.
“Có
thể họ [đảng Lao Động Úc] thực sự tin tưởng rằng [giải phóng] sẽ mở ra
một thời đại mới cho bán đảo Đông Dương. Bởi vì họ không chút nghi vấn
nào sẽ xảy ra làn sóng người tị nạn”, Colebatch nói. Và trong bài luận
án, Colebatch cũng nhấn mạnh một số xu hướng của chính giới Úc thiên về
phe cộng sản Khmer Đỏ là những ngườ đã đánh chiếm thủ đô Campuchia,
Phnom Penh vào tháng Tư năm 1975.
Phó
Thủ Tướng của chính phủ Lao Động là J.F. Cairns đã từng điều trần trước
Quốc Hội rằng: "Chính quyền Sài Gòn và chính quyền Phnom Penh nên bị
sụp đổ. Đó là giải pháp tốt nhất và nhanh chóng kết thúc chiến tranh với
chiến thắng dành cho một bên khác [phe CS]. Sự sụp đổ này sẽ có lợi cho
tất cả mọi người nếu nó đã xảy ra một thời gian dài trước đây”.
Cũng
trong thời gian này, một số Bộ Trưởng thân Hà Nội trong chính phủ đảng
Lao Động đã có nhiều nhận xét xúc phạm, mỉa mai quân đội miền Nam Việt
Nam, kể cả những lời buộc họ tội hèn nhát. Colebatch trích dẫn bằng
chứng cho thấy cơ quan tình báo Hoa Kỳ CIA đã thông báo cho chính phủ
Whitlam về việc thủ đô Sài Gòn của Việt Nam Cộng Hòa có thể sẽ bị thất
thủ trong tháng Ba năm 1975. Vào đầu tháng Tư năm 1975, một nguồn tin
được chính phủ gửi đến tòa đại sứ Úc tại miền nam Việt Nam cho biết, CS
Hà Nội “sẽ đạt được một chiến thắng quân sự”.
Malcolm Fraser |
Khi
những người cộng sản tiến chiếm Sài Gòn, lãnh đạo phe đối lập, Malcolm
Fraser (Tổng Trưởng Quốc Phòng của đảng Tự Do trong thời kỳ chiến tranh,
sau trở thành Thủ Tướng Úc và là ân nhân của người Việt tỵ nạn tại Úc,
vừa qua đời ngày 20.3.2015) cáo buộc chính phủ Whitlam đã có “sự im lặng
đáng khinh bỉ” liên quan đến hành động vi phạm hiệp định đình chiến Ba
Lê của phía Bắc Việt. Phát ngôn viên thuộc phe đối lập về ngoại giao là
Andrew Peacock và Phó Chủ Tịnh đảng Tự Do Ian Sinclair đã nói từ Sài Gòn
rằng sự im lặng của chính phủ Lao Động, là “thái độ chung trong đó thủ
tướng Whitlam và các Bộ Trưởng của ông muốn phủi tay khỏi một trạng
huống họ cảm thấy bối rối".
Colebatch
cũng trích từ hồi ký năm 1980 của Tổng Trưởng Bộ Di Trú trong chính phủ
Whitlam là Clyde Cameron, để chứng tỏ “lập trường cực đoan và thái độ
thù địch" của ông Whitlam đối chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và những người
tị nạn Việt Nam vào thời điểm Sài Gòn sụp đổ. Ông Cameron, người đã thú
nhận thái độ thù địch của chính mình đối với VNCH, kể lại, khi đại sứ
Úc ở Sài Gòn gởi điện tín mật cho ông Whitlam vào ngày 20 tháng Tư cho
biết Sài Gòn sắp sụp đổ; và đại sứ Úc yêu cầu các vận tải cơ C-130 phải
được gửi tới Sài Gòn để di tản nhân viên tòa đại sứ và những công dân Úc
khác tại đây, cùng với những người Việt Nam có mang sổ thông hành Úc.
Khi
biết tin này, ông Cameron cảm thấy vui mừng vì “VC phe nhà” đã thắng
trong chiến tranh, và nói rằng một “cuộc tắm máu” sau khi phía Bắc Việt
chiến thắng chỉ là lời tuyên truyền của chính quyền Sài Gòn và phía Hoa
Kỳ, cũng như được đảng Tự Do và đảng Quốc Gia Úc. Trong khi Việt Nam
đang trong cảnh dầu sôi lửa bỏng như vậy, ông Cameron vẫn khẳng định,
người Việt Nam chỉ có thể đến Úc theo trình tự cứu xét như người dân
Châu Âu muốn di cư đến Úc. Điều này có nghĩa, ông Cameron không cho
người VN đến Úc theo tiêu chuẩn của những người tỵ nạn chính trị.
Nhưng
tệ hơn thế, ông Whitlam đã ra lệnh cấm việc giải quyết tất cả các hồ sơ
liên quan đến Việt Nam. Ngày 12 tháng Tư 1975, ông còn ban chỉ thị:
"Thủ Tướng Chính phủ đã quyết định, các Tổng Trưởng không nên và không
lặp lại cũng như không thực hiện, không xác định hoặc thông báo danh mục
những người thuộc diện có thể nhập cư vào Úc, hoặc những tiêu chuẩn
dành cho các diện này”.
Trong
cuộc họp quốc hội liên bang vào ngày 8 tháng Tư năm 1975, ông Sinclair
bày tỏ sự lo ngại về an nguy của những người Việt Nam từng làm việc với
người Úc. Ông Sinclair chất vấn Thủ Tướng Whitlam rằng đã xem chương
trình truyền hình ABC trước đây, trong đó một quân nhân Úc đã đề cập đến
những lời khai về việc phát hiện ra ngôi mộ VC chôn người tập thể tại
thành phố Huế. Người lính này đã nhìn thấy thi thể của hàng trăm người
đàn ông và phụ nữ bị bắn bằng các viên đạn vào đầu từ phía sau lưng, cho
thấy rõ ràng là những nạn nhân này đã bị buộc phải quỳ xuống với hai
tay bị trói.
Khi
ông Sinclair nêu câu hỏi, liệu ông Withlam có đặt vấn đề với chính phủ
VC để đảm bảo không xảy ra những cuộc hành quyết hàng loạt tương tự hay
không, thì ông Whitlam trả lời rằng ông không biết gì về chuyện này. Sau
đó, ông Whitlam đã trả đũa bằng cách tấn công chính phủ miền Nam VN qua
việc đưa ra hình ảnh Tướng Loan bắn chết tên đặc công VC, sau khi tên
đặc công VC gây ra một vụ thảm sát ông bà già và trẻ em. Vì không biết
rõ sự kiện này, ông Whitlam nói sai sự thật: “Đây là hình ảnh một người
dân hiền hòa đã bị một cảnh sát trưởng ở Sài Gòn bắn một viên đạn vào
đầu”.
Theo
quyển hồi ký “Trung Quốc, Cộng sản và Coca Cola” của ông Cameron, Tổng
Trưởng Ngoại Giao của đảng Lao Động, Don Willesee, đã từng hỏi ông
Cameron để đi cùng với ông đến văn phòng của ông Whitlam vào ngày 21
tháng Tư năm 1975. Ông Camreron nói rằng Don Willesee là một Kitô hữu có
lòng từ bi dành cho những người cảm thấy tội lỗi vì chính sách không rõ
ràng và thiếu sự quan tâm đến trường hợp những người Việt Nam đã bị bắt
buộc phải đứng vào một bên thù nghịch của cuộc chiến. Don Willesee muốn
ông Whitlam nên nhìn nhận thực tế của chiến tranh và giảm bớt các hạn
chế mà chính quyền của ông đã đối xử những người tỵ nạn VN như người di
dân.
Ông
Cameron thuật lại: “Nhưng ông Withlam đã từ chối và tôi ủng hộ ông ấy.
Withlam cho rằng không có lý do nào để nước Úc phải tự tạo nguy cơ cho
mình bằng cách mở cửa đón nhận những tội phạm chiến tranh. [?] Nhưng ông
Don Willesee chủ trương đây không phải là vấn đề tự mình đặt ra mà là
vấn đề nhân đạo, và Willesee vẫn kiên quyết không lùi bước trong việc
thuyết phục ông Whitlam. Cuối cùng, ông Whitlam tỏ ra giận dữ, nghiến
răng quay sang Willesee, quát ầm lên: “Tôi không muốn có hàng trăm người
Việt Nam kiểu như bọn người nhập cư từ vùng Baltic vào đất nước này với
các thứ tôn giáo và hận thù chính trị chống lại chúng ta”. (I'm not
having hundreds of fucking Vietnamese Balts coming into this country
with their religious and political hatreds against us). [Balts: Những
người nhập cư từ vùng Baltic vì muốn trốn thoát chế độ Liên Xô cũ, đã
đến Úc ngay sau Đệ Nhị Thế Chiến - Chú thích Saigon Times].
Ông
Peacock cho biết sự từ chối của chính phủ Úc trong việc cấp thị thực
cho người di tản miền Nam Việt Nam được đánh dấu bằng sự vô nhân tính và
“lịch sử sẽ ghi lại vết sẹo này của Úc trong quan hệ châu Á”. Ông cũng
tuyên bố rằng những đề nghị cho phép người Việt Nam nhập cảnh vào Úc đã
được soạn thảo năm tuần trước đó và bị cắt giảm đến mức tối thiểu do
quyết định của ông Whitlam. Sau đó, kế hoạch này đã bị trì hoãn trong
việc thông báo, cho đến khi được thông báo thì đã quá muộn, khiến các
đối tượng nằm trong diện được cho phép nhập cảnh Úc không kịp nộp đơn.
Ngoài ra, việc đóng cửa tòa đại sứ Úc quá sớm [ngày 25.4.1975] cũng gây
cản trở cho thủ tục xét duyệt những người Việt Nam xin nhập cảnh vào Úc.
Bài
luận án nghiên cứu do Colebatch đưa ra cho thấy ông Whitlam đã trực
tiếp nắm quyền kiểm soát để xiết chặt việc nhập cảnh người Việt tị nạn
từ ngày 2 Tháng Tư năm 1975, tức là trước khi Sài Gòn bị quân cộng sản
Bắc Việt cưỡng chiếm gần một tháng. Mặt khác, một phóng viên chuyên về
chiến tranh là Denis Warner, cho biết điều này đã được chứng thực sau
khi ông Whitlam ra lệnh vào ngày 23 Tháng Tư 1975 ép buộc đóng cửa toà
đại sứ quán Úc tại Sàigòn rồi sau đó vào ngày hôm sau ông lại dành
chương trình làm việc cho một hội nghị ở Jamaica khiến giới truyền thông
không thể liên lạc được. Cung cách làm việc của ông Whitlam độc đoán,
cứng nhắc, khiến cho quyết định của ông bất khả thay đổi, bất chấp không
biết bao nhiêu người tị nạn Việt Nam đang trong cơn thống khổ, trong đó
có rất nhiều người phải được Úc cứu giúp trên phương diện luân lý, nhân
đạo, cũng như trách nhiệm của một đồng minh.
Một
Uỷ ban thường trực sau chiến tranh VN của Bộ Ngoại Giao và Quốc Phòng
bao gồm các thành viên chính phủ và phe đối lập được thành lập (lúc này
đảng Lao Động ở vị trí đối lập sau khi thủ tướng Whitlam bị truất phế),
đã phát hiện, vào thời điểm đóng cửa đại sứ quán ngày 25 tháng 4 năm
1975, 3667 người Việt Nam được đề nghị cho nhập cảnh Úc. Trong số đó, có
366 trường hợp đã được chấp thuận cho nhập cảnh vô Úc. Họ bao gồm vợ,
con và hôn phu của sinh viên Việt Nam tại Úc và 24 người đã có một hợp
tác lâu dài và gần gũi với người Úc tại Việt Nam và được coi là nguy
hiểm!
Khoảng
200 lá thư được đánh máy mang hình thức như các văn bản thị thực nhập
cảnh chính thức đến Úc và kể cả giấy chứng nhận thị thực đã được chuyển
giao trực tiếp hoặc gửi đến địa chỉ cuối cùng của những cá nhân được
phép nhập cảnh vào đất Úc. Thế nhưng do quy định đã quá muộn đối với
nhiều người di tản VN khiến họ phải chạy trốn bằng máy bay dân sự hoặc
bất kỳ phương tiện khác.
Các
thành viên của tòa đại sứ Úc đã nỗ lực hết sức mình để giúp người Việt
tỵ nạn bằng cách chuẩn bị một số chứng thư cấp cho người Việt Nam với
các trường hợp cấp bách nhất và xứng đáng nhất để giới thiệu họ đến tòa
đại sứ Hoa Kỳ hầu được hỗ trợ đặc biệt. Nhưng nguyên nhân gây trở ngại
lớn nhất là tòa đại sứ Úc đã đóng cửa vào một thời điểm quan trọng trong
cuộc di tản khỏi Sài Gòn và nó đã được khống chế hoàn toàn từ Canberra.
Ủy
Ban Thượng viện tin rằng, đáng lẽ vào thời điểm đó, với những lo ngại
chính đáng VC sẽ trả thù những người Việt làm việc cho chính phủ Úc,
chính phủ Úc phải chấp nhận nhiều hơn con số 78 người nói trên. Khó hiểu
hơn, từ ngày 3/4/1975, chính phủ Úc lại có lệnh buộc các phi cơ của
không lực hoàng gia Úc chỉ được phép chuyên chở hàng hóa cứu trợ khẩn
cấp, mà không được phép chuyên chở người di tản. Ủy Ban Thượng viện tin
rằng, “quyết định này của chính phủ Whitlam đã gây nên những thiệt hại
không cần thiết về nhân mạng qua việc từ chối chuyên chở người tỵ nạn từ
các khu vực giao tranh".
Toàn
bộ các thành viên của Ủy Ban Thượng Viện cùng kết luận, “trong giờ phút
hấp hối của miền Nam Việt Nam vào tháng Tư năm 1975, chính phủ Úc đã có
ý thức và cố tình bỏ rơi những người miền Nam Việt Nam trong sự nguy
hiểm vì họ đã từng hợp tác với quân đội Úc trước đây".
Cuối
cùng, Ủy Ban Liên Đảng Thượng viện Úc khẳng định: “Ủy Ban tin rằng, vì
chính phủ Úc đã được thông báo đầy đủ về tình hình và mức độ nguy hiểm
tại Miền Nam Việt Nam trong thời gian trên dưới 3 tuần lễ trước khi di
tản tòa Đại Sứ Úc, nên chúng tôi không thể đi đến bất cứ kết luận nào
khác ngoài kết luận, chính phủ của Thủ Tướng Whitlam đã cố tình dùng đủ
mọi cách để giảm thiểu việc thu nhận những người tỵ nạn Việt Nam". Trước
những sai lầm của thủ tướng Whitlam, trong những năm gần đây, dư luận
Úc đã có nhiều người lên tiếng kêu gọi ông lên tiếng xin lỗi. Nhưng cũng
giống như người CS luôn luôn im lặng khi gây tội ác, cho đến khi qua
đời vào ngày 21.10.2014, ông Whitlam đã chọn thái độ im lặng, chấp nhận
để dư luận phê phán, thân nhân của ông xấu hổ và lương tâm của ông bị
cắn rứt - nếu lương tâm của ông còn thức tỉnh.
Hữu Nguyên
0 comments:
Post a Comment