Vừa rồi, đài BBC Tiếng Việt mở cuộc phỏng vấn viên phó giáo sư tiến
sĩ Vũ Quang Hiển về chính sách của Cộng sản Bắc Việt Nam (BVN) sau năm
1975 và về vấn đề tù binh Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) hay Nam Việt Nam
(NVN), được đăng thành hai kỳ báo trên trang web BBC Tiếng Việt.
Trên BBC ngày 18-4-2015 (kỳ báo 1), viên phó giáo sư tiến sĩ, dạy tại Trường Đại học Quốc Gia Hà Nội, dõng dạc tuyên bố: "Tôi
nghĩ rằng sau chiến tranh, Việt Nam không có ngược đãi đối với mọi
người. Bởi vì chính sách lúc ấy của nhà nước Việt Nam là chính sách hòa
hợp dân tộc. Chính sách này đã công bố công khai ngay từ thời chiến
tranh, chứ không phải sau hậu chiến mới có chính sách đó..."
Phát biểu của viên phó giáo không khác gì mấy ông cán bộ phường hay cán
bộ xã, học tập theo cái loa đài phát thanh Hà Nội sau ngày 30-4-1975.
Không biết lúc đó, 40 năm trước, viên phó giáo nầy lên mấy tuổi và sống ở
đâu? Y có sống ở miền Nam không để biết sự ngược đãi, cướp của, cướp
nhà của CSVN. Viên phó giáo có nghe câu danh ngôn bất hủ của một lãnh
đạo CS khi vào được Sài Gòn: "Nhà ngụy ta ở, vợ ngụy ta lấy, con ngụy ta sai".
Viên phó giáo có chứng kiến cái cảnh đánh tư sản, đuổi dân đi kinh tế
mới để cướp nhà, cướp đất của người ta không? Sự ngược đãi tràn lan
trong xã hội, từ thượng tầng xuống tới làng xã. Suýt nữa quên nhắc cho
viên phó giáo rằng chẳng cần đi đâu cho xa, ngay tại Đại học, sau năm
1975, bảng xếp hạng tuyển sinh vào Đại học CS gồm 14 hạng, trong đó con
ngụy quân ngụy quyền ở hai hạng chót thứ 13 và 14. Sơ sơ như thế có
ngược đãi với trẻ con vô tội không thưa ngài phó giáo?
Sự ngược đãi của CSVN không thể nào kể hết cho xiết. Có một chuyện giỡn
thời danh được lưu truyền như thế nầy: Sau khi Lê Duẫn chết, Lê Duẫn
xuống địa ngục. Bị hành hạ khổ sở vì tội ngược đãi tàn bạo sau năm 1975,
Lê Duẫn hỏi viên cai ngục làm sao thoát khỏi nơi chốn lao tù nầy. Viên
cai ngục nói: "Dễ lắm, nhà ngươi phải sám hối tội ngược đãi, bạo hành ở
miền Nam sau năm 1975. Nhà ngươi hãy đi lên cho hết các bậc thềm nầy,
mỗi bậc thềm đọc to một tội, khi hết tội thì sẽ đến cửa thiên đàng. Mỗi
lần lên một bậc, hãy nhớ dùng phấn đánh tréo làm dấu cho biết.” Lê Duẫn
nhìn bậc thềm mà mừng thầm, vì quá dễ. Y từ từ bước lên, đọc một tội của
mình, và đánh phấn làm dấu. Tuy nhiên khi lên mãi các bậc thềm, Lê Duẫn
xài hết cả một hộp phấn, rồi hai hộp phấn, cho đến khi địa ngục hết
phấn, không còn phấn để viết, mà Lê Duẫn vẫn không thấy cửa thiên đàng,
đành buồn bã quay về địa ngục...
Trở lại với viên phó giáo sư tiến sĩ Vũ Quang Hiển. Viên phó giáo Hà Nội còn ba hoa chích chòe trên đài BBC: "Thế
còn việc tập trung học tập hay cải tạo, tôi nghĩ đấy là để học cho nó
rõ chính sách của nhà nước Việt Nam thời bấy giờ. Chứ không có nghĩa là
một chế độ tù đầy... Nếu nói là tù đầy, thì tôi nghĩ đó là một sự xuyên
tạc."
À cái nầy, viên phó giáo nói cũng có phần đúng. Chuyện đi học tập cải
tạo và chuyện tù đày có phần khác nhau, vì tù đày còn có tòa án xét xử,
định tội rõ ràng, xong có kêu án, có thời hạn ở tù và chỉ định nơi giam
tù; thậm chí ác ôn như Cải cách ruộng đất còn có Tòa án nhân dân. Còn đi
học tập cải tạo thì chẳng có tòa án, chẳng ai kết án, chẳng có thời
hạn, chẳng biết giam ở đâu, chẳng biết khi nào về, nhiều khi đi mút mùa
lệ thủy. Khác nhau quá đi chớ. Trại tù có quy chế rõ ràng, còn trại học
tập cải tạo là nơi giam giữ vô thời hạn, bạo hành, ngược đãi, trả thù,
bóc lột tối đa sức lao động tù nhân. Khẩu phần của một người học tập cải
tạo rất thấp so với khẩu phần của một tù nhân CS dưới chính thể VNCH.
(1) Trại cải tạo là một loại trại trừng giới ác độc tàn bạo nhứt trong
lịch sử Việt Nam.
Viên phó giáo tiến sĩ Đại học Quốc gia Hà Nội phải biết rằng chính sách
học tập cải tạo không do đảng CSVN bày ra, mà chính sách nầy đã có lịch
sử lâu dài từ quê cha đất tổ của CS, tức từ Liên Xô mà ra, thời năm xửa
năm xưa. Sau đó Tàu cộng đem về khai triển, rồi bày cho Việt cộng học
tập. Việt cộng chỉ việc vâng lệnh thi hành, tàn ác không kém các bậc
thầy tý nào.
Cần nhắc lại là khi cướp được chính quyền năm 1917 ở Nga, CS Nga thiết
lập chế độ cải tạo vào các năm 1918-1921 và hợp thức hóa bằng luật pháp
năm 1933. Tại Trung Cộng, chính sách “lao cải” (tức lao động cải tạo)
được chính thức hóa ngày 26-8-1954 và hội đồng chính phủ chấp thuận thủ
tục thi hành chính sách lao cải vào tháng 8-1957. (2)
Tại miền Bắc, sau năm 1954, một số ít quân nhân, công chức không di cư
vào Nam mà ở lại đất Bắc, liền bị bắt giam vào tù cải tạo. Chính sách
cải tạo do quốc hội Bắc VN chính thức quy định vào năm 1961 trong nghị
quyết 49-NQTVQH và thông tư số 121-CP của hội đồng chính phủ đặt ra các
biện pháp thi hành nghị quyết nầy. (3)
Mấy món ăn chơi nầy viên phó giáo Vũ Quang Hiển không lẽ chưa học tập?
Chưa học tập mần răng mà mò lên tới phó giáo tiến sĩ lận. Không lẽ tên
nầy thuộc loại “dốt chuyên tu, ngu tại chức”? Ngoài ra, hình như trí nhớ
của viên phó giáo chưa già mà đã cụt. Nên xin thêm ở đây chính sách học
tập của Việt cộng theo tài liệu của nhà văn trong nước viết như sau.
Năm 1975, trước khi tấn công Sài Gòn, Ban Bí thư Trung ương đảng Lao
Động từ Hà Nội đưa ra chỉ thị số 218/CT-TW ngày 18-4-1975, quy định
chính sách đối với công chức và sĩ quan VNCH bị bắt như sau: "Đối với
sĩ quan, tất cả đều phải tập trung giam giữ, quản lý, giáo dục và lao
động; sau này tùy sự tiến bộ của từng tên, sẽ phân loại và sẽ có chính
sách giải quyết cụ thể. Những người có chuyên môn kỹ thuật mà ta cần thì
có thể dùng vào từng việc trong một thời gian nhất định, nhưng phải
cảnh giác và phải quản lý chặt chẽ, sau nầy tùy theo yêu cầu của ta và
tùy theo sự tiến bộ của từng người mà có thể tuyển dụng vào làm ở các
ngành ngoài quân đội. Đối với những phần tử ác ôn, tình báo, an ninh
quân đội, sĩ quan tâm lý, bình định, chiêu hồi, đầu sỏ đảng phái phản
động trong quân đội, thì bất kể là lính, hạ sĩ quan hay sĩ quan, đều
phải tập trung cải tạo dài hạn, giam giữ riêng ở nơi an toàn và quản lý
chặt chẽ." (4)
Viên phó giáo còn giả nai làm như không biết: "Hai
là đã không có nhà tù nào để giam cầm tất cả anh em sỹ quan binh sỹ
quân đội Sài Gòn, cũng như (nhân viên) chính quyền Sài Gòn trước đây,
trong nhà tù để mà đánh đập, để mà tra tấn, thì hoàn toàn không có." (trích nguyên văn từ BBC ngày 18-4-2015.)
Khổ quá, lại phải tìm giùm nhà tù cho cái anh chàng phó giáo Đại học
Quốc gia Hà Nội. Theo Encyclopedia of the Vietnam War (5), sau biến cố
1975, số sĩ quan, công chức và cán bộ Việt Nam Cộng Hòa bị bắt bỏ tù
khoảng hơn 1 triệu người trên tổng dân số VNCH lúc đó khoảng 20 triệu
người, tức 5% dân số. Tất cả bị giam trên 150 trại tù trên toàn quốc.
Trong số 1 triệu người bị tù, khoảng 165,000 người (tức 15%) bỏ mình
trong các trại tù (6). Cộng sản hứa sẽ thả ra khỏi tù những ai học tập
cải tạo tốt, nhưng không có tiêu chuẩn xác định thế nào là học tập cải
tạo tốt để được thả, nghĩa là chẳng có luật lệ quy định thời gian giam
giữ tù nhân. Còn việc thả tù hoàn toàn tùy cảm hứng của CSVN.
Rồi tiếp đó, trả lời phỏng vấn trên BBC ngày 20-4-2015 (kỳ báo 2), viên
phó giáo Đại học Quốc Gia Hà Nội lại lếu láo về hòa giải hòa hợp dân
tộc: "Nếu chúng ta tính mỗi thế hệ
khoảng 20-25 năm, thì hơn một thế hệ, hai thế hệ đã ra đời sau chiến
tranh đến bây giờ rồi. Thì những gia đình đó, con cái của họ, con em của
họ vẫn có công ăn, việc làm bình thường, được học hành một cách bình
thường... Và người ta có thể gả vợ, gả chồng cho nhau... Thì tôi nghĩ sự
hòa hợp ấy về cơ bản đã được giải tỏa."
Đúng là cho đến 2015, đã 40 năm qua, ai cũng phải kiếm công ăn việc làm,
vì không lẽ 40 năm qua, người ta ngồi không, nhịn đói chờ chết. Bị ngăn
sông cấm chợ, bị đổi tiền ba lần, bị đánh tư sản mại bản, tư sản dân
tộc, tiểu tư sản, tiểu chủ, bị cướp trước, cướp sau, dân chúng cũng phải
lo kiếm sống nuôi gia đình. Còn việc một số gia đình kẻ Bắc người Nam
dựng vợ gả chồng cho con cái là chuyện bình thường trong cuộc sống xã
hội, chứ đó không phải là chuyện hòa hợp hòa giải chính trị. Nói thế mà
cũng nói được thưa phó giáo tiến sĩ.
Nói chuyện hòa hợp hòa giải, là nói chuyện hòa hợp hòa giải chính trị và
giữa ai với ai? Dĩ nhiên ở đây kẻ mở miệng kêu gọi hòa giải hòa hợp là
nhà cầm quyền CSVN. Còn đối tượng nhà cầm quyền CSVN muốn hòa giải hòa
hợp là người Việt Nam, chứ ai vào đây. Hiện nay, có hai thành phần người
Việt: người Việt ở trong nước và người Việt ở hải ngoại.
Sau khi CS cưỡng chiếm Sài Gòn năm 1975, những người Việt có điều kiện,
tìm cách ra đi tìm đất sống tự do khắp năm châu, đông nhứt ở Bắc Mỹ.
Ngày nay, người Việt họp thành những cộng đồng đông đúc, có khoảng 3
triệu người, tuy nói tiếng Việt, viết và đọc được tiếng Việt, nhưng họ
đã ổn định cuộc sống, đã là công dân các nước khác, không phải là công
dân Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Giai đoạn khó khăn của họ đã
qua. Bây giờ họ sống ở nước ngoài, làm việc cho nước ngoài, lãnh lương
nước ngoài, đóng thuế cho nước ngoài, hưởng quyền lợi và tiện nghi nước
ngoài... Họ chẳng còn gì liên hệ gì đến nhà nước CSVN, họ chẳng có gì
cần hòa giải hòa hợp với với đảng CSVN. Nếu vì công việc nhà, nếu phải
về thăm gia đình, bà con còn ở trong nước, họ được đối xử theo quy chế
người nước ngoài, luật lệ đối với người nước ngoài, và phải trả chi phí
theo giá người nước ngoài, từ khách sạn, ăn uống, di chuyển, du lịch...
Nói tóm lại là họ chẳng có gì cần để hòa giải hòa hợp với nhà nước CSVN.
Vậy thì chỉ có hòa giải hòa hợp giữa nhà cầm quyền CSVN và dân chúng
trong nước. Muốn hòa giải với người dân trong nước thì chẳng có gì khó,
mà rất đơn giản, chỉ cần CSVN dẹp bỏ độc tài, ngưng đàn áp, để cho người
dân tự do sinh sống thoải mái, tự do làm ăn, tự do chính trị, tự do báo
chí, tự do tôn giáo, ngưng cướp đất, giải quyết khiếu nại kiện tụng một
cách công bằng, và việc đầu tiên là phải cất giùm cái mũ điều 4 Hiến
pháp của CSVN. Cái điều luật lạ lùng nầy đặt CS ngồi trên đầu dân chúng
Việt Nam. Đang ngồi trên đầu dân, đảng CS ngoan cố đời nào chịu bỏ điều 4
Hiến pháp. Thế thì làm sao hòa giải hòa hợp với dân chúng Việt Nam? Anh
chàng phó giáo Đại học Quốc gia Hà Nội nầy đùa dai quá hà!
Đảng CSVN còn nhân danh đất nước Việt Nam, ký kết những mật ước với Tàu
Cộng, nhượng bộ và bán nước cho Tàu Cộng để duy trì quyền lực và quyền
lợi, rồi bắt nhân dân Việt Nam gánh chịu hậu quả các mật ước đó, mà nhân
dân chẳng biết mặt mũi là những mật ước gì? Ngay cả trước khi qua Mỹ
ngoại giao, tên Tàu khựa gọi viên tổng bí thư CSVN sang chầu rìa, thế là
tên tổng CSVN phải lò mò sang xin triều yết, cúi đầu ký kết thêm nhiều
hiệp ước do Tàu khựa soạn sẵn. Tồi đến thế là cùng.
Như thế mà làm sao hòa giải hòa hợp với dân chúng được? Còn ba cái đám
cưới lẻ tẻ là chuyện nhỏ như con thỏ, chẳng nhằm nhò gì, làm sao gọi đó
là đã hòa giải rồi. Sao cái con vẹt hót líu lo như giọng lưỡi các viên
chính ủy phường xã nầy, lại có thể giảng dạy được sinh viên Đại học Quốc
gia Hà Nội, nghe nói là tinh hoa của Việt Nam ngày nay?
Để kết thúc bài viết về chuyện tên phó giáo Đại học, ở đây xin ghi lại
câu chuyện vui trong giới tiếu lâm Hà Nội. Chuyện kể rằng trong một đại
hội áo thuật (trò xiếc) trên thế giới, một phóng viên quốc tế phỏng vấn
viên trưởng đoàn ảo thuật Việt Cộng. Viên trưởng đoàn Việt Cộng ba hoa
kể lể như sau:
“Tớ ấy à, tớ có một khả năng đặc biệt, đó là tớ chẳng những điều khiển
đoàn của tớ, mà tớ còn có thể điều khiển bất cứ đoàn xiếc của bất cứ
nước nào.” Người phóng viên rất kinh ngạc, ghi nhận ý kiến của tên
trưởng đoàn Việt Cộng và báo cho Ban tổ chức biết. Lúc đó, trên sân
khấu, có một đoàn xiếc Đông Âu đang trình diễn. Người huấn luyện viên
điều khiển một con khỉ ra sân khấu. Ông nói nhỏ với con khỉ, nó liền mỉm
cười. Ông nói nhỏ lần thứ hai thì nó mếu máo muốn khóc. Ông nói nhỏ lần
thứ ba thì con khỉ đứng dậy, lịch sự chào khán giả rồi đi vào. Khán giả
vỗ tay ầm ỹ.
Nghe ông phóng viên ca ngợi khả năng điều khiển trò xiếc của viên trưởng
đoàn Việt Cộng, Ban tổ chức liền quyết định thử tài của y và mời y lên
sân khấu.
Khi viên trưởng đoàn Việt Cộng lên sân khấu, người ta đem con khỉ cho y
điều khiển. Cũng lạ thật. Y nói nhỏ gì không biết, con khỉ phá lên cười
ha hả khoái trá. Rồi y nói câu thứ hai, con khỉ khóc nức nở, nước mắt
ràn rụa, nước mũi chảy tùm lum. Khi viên trưởng đoàn Việt Cộng nói câu
thứ ba, con khỉ vụt đứng dậy, chưa kịp chào khán giả, liền chạy trốn mất
biệt vào hậu trường sân khấu. Cả hội trường đứng dậy vỗ tay khâm phục
viên trưởng đoàn Việt cộng.
Tối lại, tại khách sạn, viên trưởng đoàn Tàu Cộng đến khen ngợi viên
trưởng đoàn Việt Cộng. Viên trưởng đoàn Tàu Cộng hỏi: "Đồng chí sao tài
thế, hay nhẩy, đồng chí nói gì mà con khỉ cười hả hê vậy? Có thể cho anh
em biết bí quyết tài tình của đồng chí không?”
Trưởng đoàn Việt Cộng trả lời: "Có gì đâu, chuyện rất đơn giản như đang
giỡn đồng chí ạ. Em tự giới thiệu với nó: Nầy đằng ấy, tớ là phó giáo sư
tiến sĩ Việt Nam đấy. Nghe nói mấy chữ phó giáo sư tiến sĩ Việt Nam,
con khỉ cười quá trời. Đúng là khỉ, dám giỡn mặt với phó giáo sư tiến sĩ
Việt Nam.
Rồi đồng chí nói gì mà nó khóc nức nỡ vậy? Trưởng đoàn Tàu Cộng tò mò tiếp.
Trưởng đoàn Việt Cộng trả lời: “Cũng chẳng có gì. Đàn em nói với nó: Tớ
là phó giáo sư tiến sĩ, dạy Đại học, mà lương hàng tháng của tớ chỉ tạm
đủ sống đạm bạc một mình tớ mà thôi, còn gia đình tớ phải tìm cách cải
thiện đấy.” Nghe thế, nó tủi cho thân phận em, nó khóc nức nở, nó cũng
tốt nhẩy.”
Trưởng đoàn Tàu Cộng nói ngay: "Sao lúc đó đồng chí không nói thêm với
nó, tớ bán bài, bán đề thi, cho sinh viên lên lớp, bán bằng, kiếm khối
tiền đấy. Ngoài ra, thỉnh thoảng có con nhạn là đà cho hưởng tý sex để
đổi chác việc lên lớp nữa. Sướng chán.” Trưởng đoàn Việt Cộng trả lời
ngay: "Ấy chết, ai lại nói thế, bí mật nghề nghiệp mà đồng chí, nói thế
bể mánh ngay, nên đàn em chỉ làm thinh qua cầu.”
“Thế đồng chí nói thế nào mà con khỉ bỏ chạy lẹ vậy?”, viên trưởng đoàn Tàu Cộng hỏi tiếp.
“Dạ em nói với nó thế nầy: "Khỉ ơi, mày ở nước ngoài làm gì, về Việt Nam
hòa giải hòa hợp với tụi tao cho vui.” Nghe nói hòa giải hòa hợp với
mình, nó bỏ chạy trốn mất đất. Thật là đồ khỉ. Về Việt Nam hòa giải hòa
hợp mà không chịu. Đúng là con khỉ dại hơn mấy ông bà trí ngủ, khoa bảng
đầy mình, giáo sư, tiến sĩ, bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ hay kỹ sư gì đó,
mấy ông cũng ở các nước Tây phương đấy, mấy ông bà về Việt Nam hòa giải
hòa hợp, được bằng khen của nhà nước Hà Nội. Thế mà con khỉ lại chê...”
Chuyện viên phó giáo tiến sĩ muốn hòa giải hòa hợp với con khỉ ngang đây
bắt đầu bốc mùi xú uế, đến nỗi con khỉ cũng chê. Thôi xin tạm ngưng.
Bái bai bà con cô bác, chờ hồi sau, khi nào đài BBC tiếng Việt phỏng vấn
thêm vài thằng ngố khác, mới có đề tài cho lời bàn Mao Tôn Cương, tiếp
tục chuyện vui trời ơi đất hỡi như thế nầy.
24/04/2015
(Toronto, Canada)
_____________________________________
Chú thích:
(1) Trần Vỹ, “Đời sống trong trại giam miền Bắc”, đăng trong Vàng, Máu và Nước Mắt, Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do, Canada, 2000: tr. 239-250.)
(2) Phạm Hữu Trác, “Tù cải tạo: Trình bày và phân tích dữ kiện”, đăng trong Vàng, Máu và Nước Mắt, Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do, Canada: 2000, tr. 19.)
(3) Phạm Hữu Trác, bđd.
(4) Huy Đức, Bên thắng cuộc tập I, Sài Gòn: Osin Book, 2012, tr. 39.
(5) Spencer C. Tucker, California, 1998, tr. 602.
(6) Orange County Register, số Chủ Nhật 29-4-2001, ngày 30-4, tt. 2-3.
0 comments:
Post a Comment