Năm
1945, sau khi cướp chánh quyền từ trong tay Hoàng đế Bảo Đại và Nội các
Trần Trọng Kim, đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra chủ trương “bài phong,
đả thực” (chống phong kiến, đánh thực dân) để kích động quần chúng phủ
nhận chánh quyền chánh thống của nhà Nguyễn và căm thù thực dân Pháp.
Dưới tác động của bộ máy tuyên truyền cộng sản, dân chúng từ Bắc chí Nam
đã nóng vội lao vào cuộc đấu tranh võ trang giành độc lập và cúi đầu
chấp nhận sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh mà không cần biết nhân vật nầy là
ai, từ đâu đến và do nước nào điều khiển. Ngay từ đầu, nhân dân Việt Nam
đã bị đảng Cộng Sản lừa gạt đúng như lời nói của Thủ tướng Đức Angela
Merkel và cựu Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Liên Xô Mikhail Gorbachev: Chế độ cộng sản là một chế độ dối trá, lừa bịp.
Sáu
mươi chín (69) năm sau ngày đảng Cộng sản Việt Nam cướp chánh quyền tại
Hà Nội và Sài Gòn, nhân dân Việt Nam mới biết một sự thật đau lòng về
nhân vật Hồ Chí Minh. Năm 2014, Bắc kinh đã chánh thức xác nhận Hồ Chí
Minh là Thiếu tá Hồ Quang của Quân đội Nhân dân Giải phóng Trung Quốc
phục vụ trong Bát lộ quân, địa bàn hoạt động là tỉnh Quảng Tây. Thiếu tá
Hồ Quang là ai?
Chủ tịch Hồ Chí Minh của Việt Nam:Thiếu tá Hồ Quang của Tàu
Hồ
Quang là bí danh của Hồ Tập Chương, người Tàu sắc tộc Hẹ (Hakkard) sanh
tại Đài Loan năm 1901, cán bộ Đệ tam cộng sản quốc tế đồng thời là đảng
viên đảng Cộng sản Trung Quốc. Thành viên ban Trù bị thành lập đảng
Cộng sản Việt Nam, Hồ Tập Chưong đã tham dự buổi họp thành lập đảng nầy
ngày 3-2-1930 tại Hong Kong với tư cách đại biểu của Quốc tế cộng sản.
Theo tập quán của gia tộc Hồ Tập Chương ở Đài Loan, tất cả anh em của
nhân vật nầy đều dùng chử “Tập”
làm chử lót (middle name). Thí dụ: Hồ Tập Chương và em út là Hồ Tập
Dưỡng. Qua đến thế hệ con của Hồ Tập Chương và Hồ Tập Dưỡng, chử lót sẽ
là “Quang” thay
vì “Tập”. Tại miền Nam Việt Nam trước 1975, một vị Thủ Hiến Nam Phần
(Governeur du Sud Vietnam) có tên là Hồ Quang Hoài và một vị Trung tá
Quận trưởng Quận 3 Đô thành Sài Gòn, nơi cư ngụ của tôi, tên Hồ Quang
Vọng.
Một sai lầm tai hại
Trong buổi giao thời năm 1945, nhân dân Việt Nam đã không chú trọng đến tính chánh danh(legitimity) và tính hợp pháp (legality) của nhà cầm quyền. Nhưng tất cả các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy rõ ràng ngụy quyền Hồ Chí Minh thiếu chánh danh và bất hợp pháp.
Vì vậy, ngụy quyền cộng sản của Hồ Chí Minh từ ngày thành lập năm 1945
đến đầu năm 1950 đã không được bất cứ nước nào trên thế giới công nhận,
kể cả Liên Xô. Khi hăng say tham gia cuộc chiến tranh giải phóng dân
tộc (1945-1954) dưới quyền lãnh đạo tối cao của Hồ Quang, một người Tàu,
đa số nhân dân Việt Nam không hiểu rằng sau khi kết thúc Thế Chiến 2,
Hoa Kỳ đã có chủ trương giải thực tất cả các thuộc địa của Anh, Pháp,
Hòa Lan. Nhờ chủ trương nầy, tất cả các cựu thuộc địa của các đế quốc
thực dân ở Á châu và Phi châu đều được nhanh chóng trao trả độc lập mà
không phải tốn một giọt máu của người dân . Cùng một hoàn cảnh với Việt
Nam, các nước Ấn Độ (India), Hồi quốc (Pakistan), Tích Lan (Ceylon hay
Sri Lanka), Mã Lai Á (Malaysia), Singapore, Miến Điện (Burma hay
Myanmar), Nam Dương (Indonesia), Phi Luật Tân (Philippines), Maroc,
Tunisie, Algérie đã không phải chịu đựng 30 năm chiến tranh cốt nhục
tương tàn đầy đau thương, tang tóc như Việt Nam. Ngược lại, các tân quốc
gia độc lập nầy đã có đủ thời gian và điều kiện để phát triển đất nước
của họ và hiện đã vượt xa nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam về mọi
mặt. Ngoài ra, nhờ thoát khỏi ý thức hệ cộng sản, họ hoàn toàn độc lập,
không lệ thuộc ngoại bang và không phải chuyển nhượng lãnh thổ và tài
nguyên quốc gia cho bất cứ siêu cường nào trên thế giới như Việt Nam
ngày nay.
Giấc Mộng Trung Hoa (China Dream)
Ngay
từ thập niên 1940, Chủ tịch Mao Trạch Đông của đảng Cộng sản Tàu đã có ý
đồ bành trướng lãnh thổ Trung Hoa đến bán đảo Đông Dương và Đông Nam Á.
Thực hiện ý đồ nầy, đảng Cộng sản Tàu đã sai phái Thiếu tá Hồ Quang đến
vùng biên giới Hoa-Việt để lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam và chuẩn bị
cướp chánh quyền khi thời cơ thuận lợi. Với viện trợ dồi dào của Trung
Cộng, Hồ Quang có nhiệm vụ liên tục gây ra chiến tranh, hết đánh Pháp
rồi đánh Mỹ đến người Việt cuối cùng. Sau khi đảng Cộng sản Việt Nam
cướp được chánh quyền tại Hà Nội (19-8-1945) và Sài Gòn (23-8-1945), một
phụ tá tín cẩn của Hồ Quang là Võ Nguyên Giáp với tư cách Bộ trưởng bộ
Nội Vụ đã ra mật lịnh cho cán bộ Việt Minh trong toàn quốc tiêu diệt một
số lớn nhân tài, trí thức, đảng viên cộng sản Đệ tứ quốc tế, lãnh tụ
các chánh đảng quốc gia và giáo chủ các tôn giáo. Đến ngày qua đời
(2-9-1969), Hồ Quang đã hoàn toàn thành công trong việc phát động đấu
tranh giai cấp, chia rẽ dân tộc Việt Nam và triệt tiêu sinh lực của nước
Việt để dễ thực hiên công cuộc sát nhập nước An Nam (Giao Chỉ ngày xưa)
vào mẫu quốc Trung Hoa với sự tiếp tay của các Thái thú bản xứ và bọn
Việt gian phù Hán.
Năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ với sự trợ giúp của Đại tướng Tàu Vi Quốc Thanh, Hồ Quang đã hãnh diện tuyên bố:
“Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ do Quốc tế cộng sản giao phó.”
Mặc
dầu biết rõ Hồ Chí Minh là cán bộ của Đệ tam Quốc tế cộng sản, bọn phản
chiến Mỹ như Tom Hayden, chồng của cô đào Jane Fonda, vẫn trân trọng ca
ngợi ông ta là “một người quốc gia” (nationalist) yêu nước.
Sau ngày Cộng sản miền Bắc thôn tính miền Nam (30-4-75)
Để
độc chiếm quyền thống trị cả nước trong 40 năm qua, đảng Cộng Sản Việt
Nam đã thiết lập một chế độ cai trị khắc nghiệt không khác gì chế độ
quân chủ chuyên chế đã bị chính người cộng sản chửi mắng thậm tệ. Hành
động nầy của đảng Cộng Sản Việt Nam đã trắng trợn phản lại chủ trương
“bài phong, đả thực” của họ đã đề ra khi chưa nắm được chánh quyền.
Chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay về thực chất là một tân chế độ quân chủ chuyên chế.
Chế độ
cộng sản Việt Nam là một phiên bản của chế độ Cộng sản Trung Quốc vì
đảng Cộng Sản Việt Nam là một bộ phân của Cộng Sản Quốc Tế hiện chỉ còn
tồn tại ở Việt Nam, Trung Quốc và Bắc Hàn. Nói cách khác,về bản chất,
các chế độ chánh trị hiện nay của Việt Nam, Trung Quốc, Bắc Hàn đều là
các tân chế độ quân chủ chuyên chế trong thế kỷ 21. Trong thời đại Thông
tin ngày nay, chế độ quân chủ chuyên chế còn thích hợp hay không?
Sự suy tàn và biến thể của chế độ quân chủ chuyên chế
Trước
cuộc Cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhứt bùng nổ giữa thế kỷ 19
tại Âu châu, chế độ quân chủ chuyên chế (absolute monarchy) rất phổ biến
tại Âu châu và Á châu. Chế độ khắc nghiệt nầy đã tàn tạ với thời gian,
bắt đầu từ Đại Hiến chương Magna Carta ban hành năm 1215 tại Anh quốc và
nhứt là từ cuộc Cách mạng Dân quyền 1789 của Pháp quốc biểu lộ sức mạnh
vô địch của quần chúng (people power).
Tại
Trung Hoa, triều đình Đại Thanh đã bị lật đổ năm 1911 bởi cuộc Cách
mạng Tân Hợi do Tôn Dật Tiên (Sun Yat Sen) lãnh đạo và thay thế bằng một
nền Cộng Hòa lấy quốc hiệu Trung Hoa Dân Quốc (Republic of China).
Tại Âu châu, sau cuôc Cách mạng Dân quyền Pháp năm 1789, chế độ quân chủ chuyên chế đã suy tàn và biến thể thành chế độ quân chủ lập hiến
theo mô thức của Anh quốc để tồn tại theo trào lưu tiến hóa của nhân
loại. Chế độ quân chủ Pháp hoàn toàn sụp đổ sau khi Vua Louis XVI bị xử
tử năm 1793 dưới thời Robespierre. Ngày nay, hầu hết các quốc gia dân
chủ phú cường ở Tây Âu và Bắc Âu đều áp dụng mô thức quân chủ lập hiến
(Constitutional monarchy): Vương quốc Anh và Ái Nhĩ Lan, Bỉ, Hòa Lan,
Luxembourg, Na Uy, Đan Mạch và Thụy Điển. Tại Tây Ban Nha (Spain), sau
khi chiến thắng trong cuộc nội chiến năm 1939, tướng Francisco Franco đã
xóa bỏ triều đình Madrid và thành lập một nền Cộng Hòa. Nhưng năm 1947,
tướng Franco đã tái lập Vương quốc Tây Ban Nha. Trước khi qua đời năm
1975, tướng Franco đã tìm kiếm được một hậu duệ của vua Tây Ban Nha
(Juan Carlos) và suy tôn làm vua trong một chế độ quân chủ lập hiến. Mới
đây, vua Juan Carlos đã truyền ngôi cho một vị hoàng tử.
Tại Hy
Lạp (Greece), sau ngày một nhóm Đại tá lât đổ nhà Vua (21-4-1967), đất
nước đã có một nền văn hóa sáng chói và nhiều nhà hiền triết bậc thầy
(Socrate, Aristote, Platon, Hippocrate v.v…) ngày nay suy yếu rõ rệt và
suýt khánh tận nếu không được Liên Âu (European Union) viện trợ tài
chánh.
Tại
Á châu, Nhựt Bổn và Thái Lan đã khôn ngoan noi gương nước Anh thành lập
chế độ quân chủ lập hiến để duy trì độc lập và phát triển kinh tế trong
ổn định chánh trị. Ở Việt Nam, sau khi lên ngôi vua và chấp chánh năm
1932, Hoàng đế Bảo Đại đã có ý định thành lập chế độ quân chủ lập hiến
nhưng chánh quyền bảo hộ Pháp ngăn cản.
Chế độ
quân chủ lập hiến có một ưu điểm đáng đề cao: duy trì tính chánh thống
và sự liên tục lãnh đạo của nhà cầm quyền, đồng thời ngăn chận nạn độc
tài chuyên chế. Thể chế nầy là một yếu tố ổn định chánh trị khả dĩ đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển đất nước, tạo lập dân chủ và tự do, hạnh phúc cho dân tộc.
Đặc điểm của chế độ quân chủ chuyên chế
1- Chủ quyền quốc gia thuộc về một người (nhà Vua) hoặc một dòng tộc
(Hoàng tộc và quý tộc). Vua Pháp Louis XIV đã từng tuyên bố: “L’Etat,
c’est moi” (Quốc gia, chính là quả nhân). Tất cả quyền lực đều nằm trong
tay nhà Vua. Vua có toàn quyền quyết định việc nước theo ý mình.
2- Đất đai trong nước là tài sản của nhà Vua.
Vua có quyền ban cấp đất cho các hoàng thân, quý tộc và quan lại theo
chế độ phong điền kiến ấp. Thứ dân chỉ là nông nô hay tá điền của nhà
Vua và các lãnh chúa.
3- Nhà Vua, hoàng tộc và quý tộc có đặc quyền cha truyền con nối về ngôi Vua và tước vị đúng theo câu ca dao phổ biến trong dân gian:
“ Con Vua thì lại làm Vua”
“ Con sải ở chùa thì quét lá đa”
4- Ở Việt Nam, quan lại của triều đình được tuyển dụng thông qua chế độ thi cử để
tuyển chọn nhân tài phục vụ đất nước. Chế độ thi cử đã được nhà Vua đặc
biệt quan tâm. Vua trực tiếp đứng làm Chánh Chủ Khảo trong kỳ thi Đình.
5-Riêng
tại Trung Hoa cổ thời, các quan Giám Sát Ngự Sử có quyền ghi chép lại
các hành vi tốt hoặc xấu của Vua, hoàng tộc, quý tộc và các quan lại
trong triều đình, đàn hặc các quan lại tham nhũng, lợi dụng quyền thế
hoặc có tác phong, đạo đức kém. Các Giám Sát Ngư Sử thường có tinh thần
cương trực và bất khuất (như Tư Mã Thiên, Đổng Hồ v.v…)
Hình thành một tân chế độ quân chủ chuyên chế tại Việt Nam
Tại nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, chế độ quân chủ chuyên chế đã được đảng Cộng Sản
tái lập trong thực tại dưới lớp sơn cách mạng vô sản. Chế độ cộng sản
Việt Nam có các đặc điểm như sau giống như chế độ quân chủ chuyên chế:
1-Chủ quyền quốc gia thuộc về một người (Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản) hoặc một nhóm 14 người trong bộ Chánh trị Đảng. Nhóm Thập Tứ Nhân Bang có
toàn quyền quyết định vận mạng quốc gia Việt Nam nhân danh nhân dân,
bất chấp Hiến pháp và luật pháp quốc gia. Tất cả quyền lực đều tập trung
trong tay của Tổng Bí Thư hoặc bộ Chánh trị. Theo quan niệm “dân chủ
tập trung” của Cộng Sản Việt Nam, không có sự phân quyền và kiểm soát hỗ
tương giữa các cơ quan Hành Pháp, Lập Pháp và Tư Pháp. Tất cả các cơ
quan của Đảng và Nhà nước đều thống thuộc quyền lãnh đạo của bộ Chánh
trị do Tổng Bí Thư đứng đầu. Bộ Chánh trị cai trị nhân dân bằng các Nghị
quyết có giá trị cao hơn Hiến pháp và luật pháp quốc gia.
Cố Tổng Bí Thư Lê Duẫn đã cai tri nước Việt Nam thống nhứt không khác gì một ông Vua. Lê Đức Thọ,
Trưởng Ban Tổ Chức Trung ương Đảng dưới triều đại Lê Duẫn đả có quyền
uy tột đỉnh của một Chúa thượng. Bắt chước Hồ Chí Minh khi chuyển nhượng
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc năm 1958, cựu Tổng Bí
Thư Lê Khả Phiêu đã bán đất và hiến biển cho Tàu năm 1999 và 2000 không
cần phải thông báo cho Quốc Hội bù nhìn. Đi theo gót chân của Hồ Chí
Minh và Lê Khả Phiêu, Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh đã mời Trung Cộng đến
xâm chiếm Cao nguyên Trung Phần dưới danh nghĩa hợp tác khai thác
bauxite và độc chiếm biển Đông dưới hình thức hợp tác đánh cá ngoài biển
không cần có sự chấp thuận của Quốc Hội, cơ quan “quyền uy nhứt nước” ở
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đương kim Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từ
chối công bố Kỷ Yếu Thành Đô ký kết năm 1990 với Trung Quốc mặc dầu có
yếu cầu của nhiều trí thức và lão thành cách mạng. Ông ta cũng không
công bố các mật ước vừa ký kết với Trung Cộng trong tháng 4 năm 2015.
Quốc Hội bù nhìn cũng giữ im lặng, không dám đặt thành vấn đề hiến chế!
2-Theo điều 4 Hiến pháp 1992, đảng Cộng Sản Việt Nam có quyền cai trị vĩnh viễn nước Việt Nam.
Triều đình Bắc Bộ Phủ có thể kéo dài đến cả 100 năm với sự chống lưng
của Trung Quốc, thiên triều của đảng Cộng Sản Việt Nam. Để tận hưởng lâu
dài vinh hoa phú quý đến nhiều đời con cháu, người cộng sản Việt Nam hi
vọng triều đại cộng sản sẽ lâu dài hơn triều đại nhà Nguyễn
(1802-1945). Tổng Bí thơ Nguyễn Phú Trọng đã công khai bày tỏ ước muốn
nầy hai lần.
3-Trong tất cả cơ quan của Đảng và Nhà nước cộng sản, các chức vụ chỉ huy đều phải giao phó cho cán bộ, đảng viên cộng sản
đúng theo lời dạy của Hồ Chí Minh: “Hồng hơn chuyên”. Mặc dầu không tốt
nghiệp trung học hoặc đại học, hầu hết các cấp chỉ huy của Cộng sản
Việt Nam hiện nay đều có bằng “Tiến sĩ” hoặc “Thạc sĩ” giả do Đảng cấp
hoặc mua của các trường đại học hàm thụ không ai biết tên và trường sở.
Cơ quan của họ đài thọ chi phí mua các bằng giả.
4- Đại Hầu hết các biểu Quốc Hội đều phải là cán bộ, đảng viên cộng sản
để dễ dàng sai khiến Quốc Hội. Vì vậy, tất cả các ứng cử viên Đại biểu
Quốc Hội đều phải được Măt Trận Tổ Quốc, một cơ quan ngoại vi của đàng
Công Sản do cán bộ cộng sản lãnh đạo, giới thiệu căn cứ vào mức độ trung
thành với Đảng. Từ năm 1946 đến nay, tổng tuyển cử Quốc Hội đã được
đảng Cộng sản tổ chức theo lối “đảng cử, dân bầu”. Người dân không có
quyền tự do ứng cử và bầu cử.
5- Các lãnh tụ và cán bộ cộng sản có đặc quyền cha truyền con nối về chức vụ
trong Đảng và Nhà nước. Con cháu của Hồ Chí Minh và các lãnh tụ cộng
sản đều đã trở thành “Thái tử đảng” , “Quý tộc” đỏ hoặc “Đại gia” tài
sản cao nặng như núi:
- “Thái tử” Nông Đức Mạnh,
con tư sinh của Hồ Chí Minh và Nông thị Ngát bí danh Nông thị Trưng, đã
giữ một chức vụ Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Việt Nam 10 năm sau 5 năm
làm Chủ tịch Quốc Hội .
Trong dịp Tết Ất Mùi vừa qua, Nông Đức Mạnh đã phô trương quyền uy và giàu sang phú quý của Thái tử bằng cách ngồi trên ghế “đầu rồng” cẩn vàng khi tiếp cán bộ đến chúc Tết.
- “Hoàng tôn” Nông Quốc Tuấn,
con của Nông Đức Mạnh, tuy ít học vẫn được bầu giữ chức vụ Bí thư Tỉnh
ủy Bắc Giang để chuẩn bị vào bộ Chánh trị đảng Cộng Sản..
- “Hoàng tử” Nguyễn Tất Trung,
con tư sinh của Hồ Chí Minh và Nông thị Xuân, đã được Đảng và Nhà Nước
cấp cho nhà ở tại Hà Nội, ban cho cấp bậc Trung tá Quân đội nhân dân để
lảnh lương mặc dầu không có đi lính ngày nào.
- “Thái tử đảng” Nguyễn Chí Vịnh,
con chánh thức của cố Đại tướng cộng sản Nguyễn Chí Thanh (thân Tàu),
con nuôi của Đại tướng An Nam Quốc Vương Lê Đức Anh, hiện là Thứ trưởng
quyền uy đặc trách Quan hệ Đối ngoại của bộ Quốc Phòng sau khi đứng đầu
Tổng Cục 2 (Tình Báo)
- “Quý tộc” Nguyễn Tấn Dũng,
có liên hệ huyết thống với Nghệ An, hiện là Thủ tướng có nhiều quyền
thế từ năm 2005 sau khi giữ nhiều chức vụ quan trọng: Phó Thủ tướng đặc
trách Kinh Tế và Nội An, Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước.
- “Quý tộc” Phạm Bình Minh,
con của cố Bộ trưởng bộ Ngoai Giao Nguyễn Cơ Thach (tên khai sanh là
Phạm văn Cương), hiện là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng bộ Ngoai Giao.
- “Quý tộc” Nguyễn Thiện Nhân,
con của Y sĩ Nguyễn Thiện Thành, một cán bộ cộng sản cao cấp tỉnh Biên
Hòa, hiện là Ủy viên bộ Chánh trị kiêm Chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc sau khi
giữ chức vụ Bộ trưởng bộ Giáo Dục và Đào Tạo.
- “Quý tộc” Trần Anh Tuấn,
con của cựu Chủ tịch nước Trần Đức Lương, đã giữ chức vụ Tổng Lãnh sự
Việt Cộng tại San Francisco, tiểu bang California, Hoa Kỳ.
- “Thái tử đảng” Lê Kiến Thành, con của cố Tổng Bí tho Lê Duẫn, hiện là một đại gia giàu nhứt thành phố Sài Gòn.
-“Thái tử đảng” họ Phan, con tư sinh của cố Thủ tướng Võ văn Kiệt, hiện là một đại gia có máu mặt tại Sài Gòn
Ngoài các “Thái tử đảng”,
“Quý tộc” đỏ và “Đại gia”, có người nông dân hay công nhân nào có con
cháu được ngồi trong triều đình Bắc Bộ Phủ hay không? Hay là họ chỉ được
đảng Cộng Sản cho phơi thây ngoài chiến địa trong thời chiến và làm
nông nô, lao nô trong thời bình hoặc dân oan bị cướp ruộng đất.
6- Tất cả đất đai trong nước đều thuộc về toàn dân tức thuộc quyền sở hữu của Đảng và cán bộ đảng viên cộng sản
vì Đảng là đại diện của toàn dân, Đảng là nước Việt Nam. Nhân dân không
có quyền sở hữu ruộng đất. Đảng chỉ cấp đất cho nông dân để canh tác và
có quyền thâu hồi đất bất cứ lúc nào và bất cứ vì lý do gì. Dân đen bị
thâu hồi đất không có quyền khiếu nại hoặc khiếu tố. Do đó, cán bộ và
đảng viên cộng sản đã trở thành địa chủ, đại địa chủ, triệu phú, tỷ phú
nhờ có quyền lực thâu hồi ruộng đất của dân đen thấp cổ, bé miệng. Về
điểm nầy, chế độ cộng sản Việt Nam thua xa chế độ thực dân Pháp vì luật pháp của thực dân Pháp và nhà cầm quyền Pháp tôn trọng quyền sở hữu ruộng đất của nhân dân Việt Nam.
7- Các cán bộ cộng sản ngày nay tự xưng là “quan chức”
(mandarin) nghĩa là họ là những ông quan lại của triều đình Bắc Bộ Phủ.
Họ đã trở thành ông quan nhờ có tư cách đảng viên cộng sản chớ không
thông qua chế độ thi cử. Họ không cần có văn hóa cao. Nếu cần có bằng
cấp, họ không ngần ngại mua bằng Tiến sĩ, Thạc sĩ giả. Tệ trạng mua và
sử dụng bằng cấp giả của cán bộ cộng sản đang lan tràn khắp nước Việt
Nam.
Về điểm nầy, chế độ cộng sản Việt Nam thua xa chế độ thực dân Pháp và các chế độ quân chủ chuyên chế ở Trung Hoa và Việt Nam.
8- Chế độ cộng sản Việt Nam không chấp nhận bất cứ sự chỉ trích hoặc
phê phán nào về các hành vi tham nhũng, bóc lột, phí phạm công quỹ, dĩ
công vi tư hoặc phản dân, hại nước của người cầm quyền. Các “quan chức”
cộng sản không bao giờ nhận trách nhiệm về các việc làm của họ. Về điểm
nầy, chế độ cộng sản Việt Nam thua xa chế độ quân chủ chuyên chế của Trung Hoa cổ
thời đã dám chấp nhận sự phê phán của các Giám Sát Ngự Sử. Do đó, quốc
nạn tham nhũng do các “quan chức” cộng sản gây ra để làm giàu trên mồ
hôi nước mắt của đồng bào lao động đã và đang lan tràn khắp nước Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Hậu quả của quốc nạn nầy vô cùng khủng
khiếp: đất nước bị bán đứng cho ngoại bang, xã hội bị băng hoại cùng
cực, dân tộc Việt ngày càng suy yếu và dễ bị Hán tộc mua chuộc,đồng hóa.
Nói tóm lại, chế độ độc tài đảng trị của Cộng
Sản Việt Nam không những giống chế độ quân chủ chuyên chế của thời xa
xưa mà còn có nhiều điểm thua kém hai chế độ phong kiến và thực dân đã
tan biến từ lâu trên quả địa cầu.
Cùng một lò sinh ra, tân chế độ quân chủ chuyên chế trong thế kỷ 21ở Việt Nam đặc biệt giống các chế độ cộng sản Trung Hoa và Bắc Hàn ở một điểm chung: quyền lãnh đạo quốc gia ở cấp tối cao đã được cha truyền con nối như dưới thời phong kiến ở Đông phương.
Tại Trung Cộng, sau khi Mao Trạch Đông qua đời năm 1976, Hoa Quốc Phong
đã đưọc truyền ngôi Chủ tịch nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa kiêm Chủ
tịch đảng Cộng Sản Trung Quốc. Hoa Quốc Phong là con tư sinh của Mao
Trạch Đông. Khi Mao Trạch Đông còn sống, Hoa Quốc Phong từ một người vô
danh được tôn lên làm Bí thư tỉnh ủy Hồ Nam để chuẩn bị nhảy lên ngôi
lãnh tụ tối cao của triều đình Bắc kinh.
Tại Bắc Hàn, Kim Nhựt Thành (Kim il-Sung) đã truyền ngôi Chủ tịch nước kiêm Chủ tịch đảng Lao Động cho con là Kim Chánh Nhựt (Kim Jong-il). Mới đây, Kim Chánh Nhựt lại chuẩn bị truyền ngôi lãnh đạo tối cao của Bắc Hàn cho con trai út là Kim Chánh Ân (Kim Jong Un) bằng cách bổ nhiệm “hoàng tử” 26 tuổi nầy làm Đại tướng mặc dầu chưa đi lính ngày nào.
Tại Việt Nam, một người dân tộc thiểu số Choang của Trung Quốc trong tỉnh Quảng Tây tên Nông Đức Mạnh, con tư sinh của Hồ Quang, đã nối ngôi cha trong chức vụ Tổng Bí thư đảng Cộng sản Viêt Nam trong 10 năm sau 5 năm làm Chủ tịch Quốc Hội.
Sự ngự trị khắc nghiệt của các tân chế độ quân chủ chuyên
chế tại Việt Nam, Trung Hoa và Bắc Hàn với đặc quyền cha truyền con nối
ở cấp lãnh đạo tối cao như các vua chúa thời Trung Cổ là một thách đố
ngạo mạn đối với cao trào dân chủ đang lan rộng khắp thế giới để quét
sạch các chế độ thống trị bạo tàn còn sót lại đến ngày nay.
Bổ túc và tu chính
California,ngày 19-4-2015
Thẩm phán Phạm Đình Hưng
0 comments:
Post a Comment