Đức Tâm_RFI
Trong bối cảnh tình hình Biển Đông đang căng thẳng bởi những ý đồ
bành trướng muốn độc chiếm vùng Biển Đông của Trung Quốc đã trở nên rõ
ràng. Sự kiện Bắc Kinh đưa giàn khoan dầu HD -981 một cách trái phép vào
vùng thềm lục địa Việt Nam là một minh chứng mới cho thái độ ngạo mạn
nước lớn của Trung Quốc với các nước láng giềng.
RFI xin giới thiệu bài viết mang tiêu đề “ Sự Ngạo mạn nguy hiểm của
Bắc Kinh ở Biển Đông, của tác giả Philip Bowring, một cây viết đã cắm
chân ở châu Á từ 39 năm nay chuyên viết về các vấn đề tài chính và chính
trị của khu vực, đăng trên nhật báo Hồng Kông South China Morning Post
hôm 18/5/2014.
Philip Bowring nói rằng sự mặc cảm tự tôn và việc diễn giải có chọn
lọc lịch sử Đông Nam Á là những yếu tố nguy hại gây căng thẳng tại Biển
Đông.
Cách hành xử hiện nay của Trung Quốc với các nước láng giềng ở Biển
Đông là hung hăng, ngạo mạn và sặc mùi tư tưởng Đại Hán và tự tôn dân
tộc. Thay vì bày tỏ lòng tự hào dân tộc, cách hành xử này gây tiếng xấu
cho lòng ái quốc. Những người Hồng Kông yêu nước cần phải nhận diện ra :
Đó là một mưu kế nguy hiểm.
Không chỉ nhe răng bành trướng đe dọa Việt Nam và Philippines, mà giờ
đây, Bắc Kinh còn đẩy Indonesia từ chỗ có lập trường hành động như
trung gian hòa giải giữa Trung Quốc và các quốc gia ở Biển Đông chuyển
sang thành kẻ thù. Trong những tháng qua, đã hai lần Indonesia tố cáo
Trung Quốc đưa ra đòi hỏi chủ quyền đối với một phần quần đảo Natuna.
Thật là quá thể đối với cái gọi là « sự trỗi dậy hòa bình » khi người ta
gây khó chịu cho các nước láng giềng có tới hơn 400 triệu dân mà người
ta khẳng định là yếu kém.
Tất cả những đòi hỏi về biển đảo của Trung Quốc nằm bên trong đường 9
đoạn, rộng hơn 1000 hải lý kể từ bờ biển Quảng Đông và Hải Nam cho tới
đảo Borneo của Malaysia, Indonesia và Brunei và bao gồm hầu như toàn bộ
vùng biển giữa Việt Nam và Philippines. Đòi hỏi của Trung Quốc chiếm hơn
90% diện tích Biển Đông, cho dù Trung Quốc (kể cả Đài Loan) chỉ có
khoảng 20% bờ biển trong vùng.
Tất cả các đòi hỏi chỉ dựa trên các yếu tố lịch sử, rất thuận tiện
cho việc không cần biết đến sự tồn tại của các dân tộc khác và lịch sử
hàng hải và buôn bán của họ có từ 2000 năm nay, trước cả khi Trung Quốc
đi xuống vùng biển phía nam và xa hơn nữa. Người Indonesia đã tới Châu
Phi và thuộc địa Madagascar trước Trịnh Hòa (Zheng He) hơn 500 năm.
Ngược lại, các dân tộc ở Đông Nam Á chịu ảnh hưởng của Ấn Độ và thế giới
Hồi giáo hơn là của Trung Quốc.
Trong trường hợp hiện nay với Việt Nam, về việc đưa giàn khoan vào
vùng biển ở phía đông Đà Nẵng, có một vấn đề nhỏ đối với Trung Quốc :
Chính quyền Bắc Kinh hiện làm chủ quần đảo Hoàng Sa, gần với nơi đặt
giàn khoan hơn là Việt Nam. Tuy nhiên, quần đảo này từ lâu là nơi tranh
chấp giữa hai nước, và vụ việc đã được giải quyết với việc Trung Quốc vô
cớ đánh chiếm quần đảo này năm 1974.
Thế nhưng, do quần đảo này chưa bao giờ có được một giảp pháp vĩnh
viễn, nên khi so sánh với Việt Nam, thì khó có thể nói quần đảo này là
trường hợp nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Lịch sử cho
chúng ta thấy là bờ biển này vốn là trung tâm của một nhà nước Cham buôn
bán, mà cách nay 1000 năm, họ đóng vai trò chủ chốt về thương mại trong
khu vực.
Lẽ ra, đây phải là một trường hợp thỏa hiệp giữa Trung Quốc và Việt
Nam. Malaysia và Thái Lan cũng từ dàn xếp với nhau để quản lý một hòn
đảo trong vùng giàu khí đốt nằm giữa hai nước, ở vịnh Thái Lan. Các quốc
gia khác – Indonesia, Singapore, Malasyia – đưa các vấn đề sở hữu đảo
lên Tòa án Công lý Quốc tế và chấp nhận phán quyết của Tòa. Thế nhưng,
Trung Quốc vẫn không sẵn sàng cho một thỏa hiệp hoặc chấp nhận đưa ra
Tòa. Trong khi đó, không thể có việc cùng khai thác, bởi vì Trung Quốc
đưa ra điều kiện là các bên phải chấp nhận chủ quyền của họ ở đó.
Trong trường hợp các bãi đá ngoài khơi Philippines, đòi hỏi của Trung
Quốc dựa trên một sự pha trộn giữa lịch sử được phóng tác và việc Trung
Quốc là nước đầu tiên đưa ra đòi hỏi chủ quyền ; đây là một chứng cứ
nghèo nàn, bởi vì Trung Quốc không liên tục hiện diện ở đó, trong khi
Philippines đã kế thừa hiệp định được ký kết giữa các cường quốc thực
dân phương Tây.
Bãi đá Scarborough nằm cách đảo Luzon khoảng 200 km và cách Trung
Quốc khoảng 650 km. Đòi hỏi của Trung Quốc về chủ quyền đối với bãi đá
Vành Trăng Khuyết (Half Moon Shoal) còn lố bịch hơn. Tại bãi đá này mà
Philippines đã bắt giữ các ngư dân Trung Quốc bị cáo buộc đánh bắt rùa
biển khổng lồ, một loài động vật được bảo vệ. Theo phản xạ, Bắc Kinh
phản đối. Bãi đá này cách Palawan 110 km và cách Trung Quốc gần 1500 km.
Các đòi hỏi phi lý có từ thời Quốc Dân Đảng và vấn đề không phải là ở
chỗ này hay chỗ khác. Không hề có chuyện là các trước đây, các nước đã
thỉnh thoảng phải triều cống Bắc Kinh. Đối với các nước buôn bán này,
triều cống là một thứ thuế, cái giá phải trả để kinh doanh với Trung
Quốc, nhưng không bao hàm vấn đề chủ quyền. Và nếu Trung Quốc thỉnh
thoảng hành động như một đế quốc trong vùng, thì điều này chắc chắn gây
lo ngại, nhưng không phải là một cơ sở để khẳng định quyền làm chủ đối
với một vùng rộng lớn trên biển Mã Lai. Nếu như vậy, thì Thổ Nhĩ Kỳ có
thể nói Ai Cập là của họ và toàn bộ vùng Trung Á là của Nga.
Một nước Trung Hoa phục hưng muốn giương oai sức mạnh của mình và
chứng tỏ là ông trùm của khu vực – chính đây là điều mà họ tìm cách thể
hiện khi đánh Việt Nam năm 1979 – và nhắc nhở Hoa Kỳ về sự yếu kém của
Washington. Thế nhưng, ở đây, cũng có một sự lưỡng lực trong việc đối xử
bình đẳng với các nước láng giềng không thuộc tộc Hán, các dân tộc này
có lịch sử và văn hóa riêng của họ và ngoại trừ Việt Nam, chưa bao giờ
các nước đó chịu ảnh hưởng nặng nề của Trung Quốc.
Lịch sử về sự tự tôn của Trung Quốc, nhất là đối với các tộc có mầu
da sẫm hơn, có từ lâu đời. Niềm tin về ưu thế sinh học và sự cần thiết
phải bảo vệ và thúc đẩy các đặc trưng di truyền của tộc Hán đã thể hiện
mạnh mẽ trong thời kỳ nền Cộng hòa và có được sự cộng hưởng trong công
luận cũng như chính sách xã hội của cựu lãnh đạo Singapore Lý Quang
Diệu.
Đã từ lâu, tư tưởng này bị bác bỏ ở phương Tây và bị lên án dưới thời
Mao Trạch Đông. Như giờ đây, tư tưởng này đang phục hồi ở Trung Hoa lục
địa, một vài nhà nghiên cứu cảm thấy khó mà chấp nhận được rằng người
hiện đại xuất phát từ Châu Phi và do vậy, Trung Quốc không phải là cội
nguồn duy nhất và riêng rẽ của loài người.
0 comments:
Post a Comment