Lịch sử của dân tộc nào cũng có những khúc quanh bi thảm,
thậm chí ánh sáng hy vọng của tự do không có chỗ ngay cả ở đoạn cuối
của đường hầm tối tăm, nhân dân tưởng chừng đã bị đánh gục, không còn
sức đứng lên.
Trong cuộc tranh đấu xoá bỏ chế độ cộng sản (CS), giành tự do,
dân chủ và toàn vẹn lãnh thổ, dân tộc Ba Lan cũng đã có những khúc quanh
như thế.
Một trong những khúc quanh ấy là thời gian cả nước Ba Lan bị
chìm đắm trong khủng bố bạo lực của chế độ CS trong giai đoạn thiết quân
luật từ ngày 13/12/1981 tới ngày 22/7/1983.
Tôi viết bài này nhân dịp kỷ niệm 31 năm ngày 13/12 và muốn có sự tham chiếu với thực tế Việt Nam.
Đừng sợ hãi!
Phong trào Đoàn Kết (Solidarność) chống lại chế độ CS ở Ba lan
có thể tính từ mốc quan trọng nhất: cuộc hành trình về cố hương của Cố
Giáo Hoàng Joan Paolo II vào ngày 1/6/1979.
Mặc dù tìm nhiều lý do trì hoãn và gây khó khăn, nhà cầm quyền
CS Ba Lan lúc bây giờ đã không thể từ chối chuyến thăm quê nhà của Đức
Giáo Hoàng.
Trước hàng triệu người Ba Lan, lời kêu gọi “Đừng sợ hãi” của
Ngài đã thức tỉnh ý chí của người Ba Lan, giúp họ chiến thắng bản thân,
vượt qua sợ hãi, gia nhập phong trào “Đoàn Kết” được thành lập bởi Uỷ
ban Đình Công do người thợ điện Lech Walesa đứng dầu, cùng với sự tham
gia quan trọng của trí thức trong Uỷ Ban Bảo Vệ Công Nhân, Liên Hiệp
Thanh Niên Ba Lan và Hội Đồng Chính Trị Nhà Thờ Ba Lan…
Trước áp lực tranh đấu liên tục của quần chúng bằng hàng loạt
các cuộc biểu tình, đình công, bãi công, ngày 31/8/1980, chính phủ CS Ba
Lan đã phải ký kết với phong trào đối kháng một thỏa thuận được mang
tên lịch sử là “Thoả thuận Tháng Tám“, trong đó Uỷ ban Đình
Công cho rằng, hoạt động của công đoàn quốc doanh không đáp ứng hy vọng
và mong đợi của người lao động, do đó họ được quyền thành lập công đoàn
tự quản, đại diện đích thực cho giai cấp công. Trong bản thoả thuận, đòi
hỏi hạn chế kiểm duyệt cũng được đưa ra. Từ thoả thuận này, công đoàn
độc lập ra đời và lấy tên là “Công đoàn Đoàn Kết” (CĐĐK).
Ngày 24/9/1980 CĐĐK đe doạ sẽ tổng đình công khi bị từ chối
đăng ký hoạt động tại tòa án thành phố Warsaw vì nhà cầm quyên cho rằng
điều lệ của CĐĐK vi hiến. Cuối cùng Tòa án Tối Cao đã phải phán quyết
thừa nhận CĐĐK là tổ chức hợp pháp, CĐĐK chấp nhận điều chỉnh điều lệ,
nhìn nhận hiến pháp hiện hành và vai trò của đảng CS đối với nhà nước Ba
Lan.
Từ thời điểm này, CĐĐK phát triển rất mạnh mẽ, có 9 đến 10 triệu thành viên với 80% là công nhân viên chức đang làm việc cho chế độ.
Quá lo ngại trước sức mạnh to lớn này, nhà cầm quyền CS Ba Lan
đã quyết định dập tắt phong trào”Đoàn Kết” và giải thể CĐĐK bằng bạo
lực.
Quy mô đàn áp khủng khiếp
Thiết quân luật hay còn gọi là tình trạng chiến tranh được đại
tướng Jaruzielski, người đứng đầu đảng và nhà nước CS Ba Lan, chủ tịch
Hội Đồng Quân Sự Cứu Nguy Dân Tộc, công bố vào đêm 13/12/1981 (đêm thứ
Bảy qua Chủ nhật).
70 ngàn binh sĩ quân đội, hàng chục ngàn lính dự bị đặt trong
thế sẵng sàng, 30 ngàn viên chức thuộc Bộ Nội vụ, 1.750 xe tăng và 1.400
xe bọc thép, 500 chiến xa, 9.000 xe ô tô, một số phi đội máy bay trực
thăng và máy bay vận tải, đã được huy động cho đợt đàn áp. Liên lạc điện
thoại bị vô hiệu hóa, giới nghiêm từ 19 giờ đến 6 giờ sáng, cấm công
dân thay đổi nơi cư trú, ngưng phát hành báo chí (trừ báo của đảng và
quân đội), phá sóng radio nước ngoài phát vào Ba Lan, đình chỉ công dân
xuất cảnh, tạm thời đóng cửa các trường học… 25% binh lực được tập trung
trong và xung quanh thủ đô Warsaw.
Một chiến dịch bắt giữ các nhà hoạt động đối lập trên toàn quốc
được tiến hành. 10 ngàn an ninh, mật vụ tham gia chiến dịch “Cây thông”
bắt giữ những người được cho là nguy hiểm đối với an ninh quốc gia, đưa
họ tới các nhà tù và những trung tâm giam giữ đã được chuẩn bị trước.
An ninh Ba Lan còn được hỗ trợ tích cực bởi an ninh của Đông
Đức thông qua nhóm tác chiến của Stasi tại Warsaw và KGB của Liên Xô.
Chỉ riêng trong tuần đầu tiên của thiết quân luật, trong
các nhà tù và trại giam đã có khoảng 5 ngàn người. Trong thời kỳ thiết
quân luật, có khoảng 10 ngàn gười bị bắt giữ trong 49 trại giam trên cả
nước, đa số gồm các nhà lãnh đạo của CĐĐK, trí thức liên kết với họ và
nhà các hoạt động đối lập dân chủ. Bốn ngàn người trong số này đã bị
buộc tội và có án tù, hàng ngàn công nhân bị sa thải, gần 2.900 người tự
tử trong năm 1981, hàng trăm ngàn người dưới 35 tuổi đã bỏ chạy khỏi Ba
Lan sang các nước phương Tây, không khác gì cuộc vượt biên tị nạn CS
của người miền Nam Việt Nam sau 1975.
Trong năm 2006, theo Viện Tưởng nhớ Quốc gia, một cơ quan được
thành lập sau khi chế độ CS bị sụp đổ, chuyên điều tra tội ác chống lại
Ba Lan, số người chết do bị bắn hoặc bị đánh đập trong giai đoạn
1981-1989 khoảng 100 người.
Ngày 16/3/2011 Toà án Hiến pháp của Ba Lan đã phán quyết việc
ban hành tình trạng chiến tranh đã vi phạm các nguyên tắc về tính hợp
pháp của chính hiến pháp của nhà nước CS lúc bây giờ.
Ý chí đẩy lùi bạo lực
Quy mô đàn áp của nhà cầm quyền Ba Lan lớn và tàn bạo như vậy
nhưng không dập tắt được phong trào đấu tranh. Ngay trong thời gian
thiết quân luật, các cuộc biểu tình vẫn nổ ra.
Trong ngày quốc tế Lao động 1/5/1982 hàng chục ngàn người đã
xuống đường phản đối tình trạng thiết quân luật với biểu ngữ “Thiết quân
luật là bất hợp pháp”.
Ngày 31/8/1982, người Ba Lan đồng loạt xuống đường biểu tình
tại 34 tỉnh thành, kỷ niệm 2 năm này ngày ký “Thoả thuận Tháng Tám”. Hơn
5.000 người đã bị bắt giữ, 3.000 người bị tòa án buộc các tội khác
nhau, một số tờ báo bị đóng cửa (“Kultura”, “Czas”) và 800 nhà báo bị sa
thải.
Thế giới lên án mạnh mẽ và cô lập Ba Lan. Mỹ và nhiều nước
phương Tây tuyên bố bao vây kinh tế Ba Lan và viện trợ tiền bạc, vật
chất cho CĐĐK. Ngày 22/07/1983 nhà cầm quyền CS buộc phải chấm dứt tình
trạng chiến tranh và giải thể Hội Đồng Quân Sự Cứu Nguy Dân Tộc.
Tranh đấu tới cùng
Công Đoàn Đoàn Kết trở lại hoạt đông công khai. Các cuộc đình công, biểu tình lại bùng nổ trên toàn quốc.
Tháng 10/1983 Lech Wałęsa được trao Giải Nobel Hòa bình. Tháng
11/1986 CĐĐK trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Lao động Và
Công đoàn Thế giới. Tháng 11/1988 Lech Valesa thắng lớn trước chủ tịch
công đoàn quốc doanh trong cuộc tranh luận về các vấn đề kinh tế, chính
trị và xã hội, được truyền hình trực tiếp. Ngày 14/6/1987 Đức Giáo Hoàng
Joan Paolo II lại về thăm quê hương và bày tỏ sự ủng hộ với CĐĐK.
Bị áp lực dồn ép quá mạnh từ cuộc tranh đấu và khủng hoảng kinh
tế, nhà cầm quyền CS Ba Lan vào tháng 2/1989 đã đồng ý ngồi vào bàn
tròn thương lượng với phe đối lập và chấp nhận cuộc bầu cử tự do, một
cuộc bầu cử tự do đầu tiên trong hệ thống cộng sản, vào ngày 4/6/1989.
Cuộc bầu cử này cũng được xem là bước chuyển hoá dân chủ đầu tiên bằng
phương pháp hoà bình, tương tự như cuộc bầu cử bổ sung 45 nghế của quốc
hội Miến Điện trong ngày 1/4/2012.
Giữ lại 65% số ghế quốc hội, đảng CS Ba Lan đồng ý bầu 35% số
ghế còn lại và 100 ghế của Thượng viện. Sau cuộc bầu cử, tất cả số ghế
được bầu đều rơi hết vào phe đối lập, mở đường cho việc thành lập quốc
hội chuyển tiếp, tiến tới bầu tổng thống dân chủ vào năm 1990 với chiến
thắng của Lech Walesa và bầu quốc hội toàn phần vào năm 1991, cáo chung
hoàn toàn chế độ CS tại Ba Lan.
Cái giá của tự do
Suốt 22 năm nay, từ khi có dân chủ, tự do, năm nào tới ngày 13
tháng 12 người Ba Lan cũng tổ chức kỷ niệm ngày ban hành thiết quân
luật, tưởng nhớ lại giai đoạn lịch sử bi thảm của dân tộc mình. Tại thủ
đô Warsaw vào ngày này người ta tái dựng cảnh đàn áp trên đường phố với
sự tham gia của quân đội, cảnh sát trong trang phục thời CS.
Qua trao đổi trên một số diễn đàn, tôi thấy nhiều người Việt
không nắm được sự hy sinh và tổn thất to lớn của dân tộc Ba Lan trong
cuộc tranh đấu xoá bỏ chế độ CS, thậm chí không ít người nghĩ đơn giản
về một sự chuyển hoá chế độ ở Ba Lan trong hoà bình, mềm mại như nhung.
Chỉ cần so sánh quy mô đàn áp và hàng ngàn người bị đồng loạt
bắt giam trong một thời gian rất ngắn (như đã trình bày ở trên), ta sẽ
thấy ngay rằng, từ hơn hai thập niên này, sự hy sinh cho dân chủ, tự do
của người Việt chưa thấm vào đâu so với người Ba Lan. Sự bắt bớ, giam
cầm và đán áp của nhà cầm quyền CSVN đối với những người bất đồng chính
kiến cũng chưa nhằm nhò gì so với nhà cầm quyền CS Ba Lan trong giai
đoạn thiết quân luật, về quy mô cũng như số lượng.
Nhiều người mơ ước về một lộ trình dân chủ cho Việt Nam như
Miến Điện. Điều này quá lãng mạn và siêu thực. Nếu hàng ngàn nhà sư, trẻ
em, sinh viên đại học không bị dìm trong biển máu trong các cuộc biểu
tình năm 1988 thì đã không có sự xuất hiện của bà Aung San Suu Kyi và
đảng Dân Chủ của bà. Không có sự kiên cường bền bỉ của cá nhân bà Aung
San Suu Kyi và áp lực tranh đấu không ngừng của cả phong trào đối lập,
thì đã không có sự nhượng bộ của chính phủ quân phiệt Miến Điện và sự
thay đổi sáng suốt vì lợi ích dân tộc của tướng Thein Sein, một hình ảnh
tương đồng với tướng CS Ba Lan Wojciech Jaruzielski.
Trong khi bộ máy bạo lực của chế độ còn rất mạnh, lại chưa có
một phong trào quần chúng đông đảo, mọi mong muốn đối thoại với nhà cầm
quyền CSVN với hy vọng sẽ mang đến thay đổi chính sách là hết sức ấu
trĩ.*
Chưa có phong trào xã hội thì chưa thể có thay đổi
Mọi cuộc thương lượng chỉ mang lại kết quả nào đó khi có những
con bài trong tay để trao đổi, nhân nhượng. Điều này chúng ta có thể dễ
dàng kiểm định qua thái độ ngạo mạn, coi thường phản ứng của dư luận từ
những cuộc vận động ký tên vào các bản kiến nghị phản đối khai thác
bauxite Tây Nguyên, trả tự do cho tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ hay Tuyên bố Văn
Giang…
Hàng ngàn chữ ký, bao gồm của nhiều nhà trí thức khoa học và xã
hội hàng đầu, có uy tín trong nước, đã không có chút trọng lượng nào
ngoài thiện chí của một phía yếu hơn. Những nhà cách mạng lãng mạn đã bị
gạt ra lề trong cuộc đối thoại bất xứng.
Ai cũng biết chìa khoá giải quyết mọi nan đề của Việt Nam là
cần phải thay đổi cấu trúc chính trị hiện thời và các cơ chế điều hành
xã hội của nó. Sẽ không ai trong guồng máy cai trị muốn thay đổi khi bản
thân đang gắn chặt với lợi ích quyền-tiền máu thịt, trừ khi có áp lực
đủ mạnh của quần chúng.
Nếu một số vị trí thức có tên tuổi và uy tín về chuyên môn cũng
như đạo đức ở trong nuớc kết hợp với các nhân tố tích cực từ các tầng
lớp xã hội khác như công nhân, nông dân, sinh viên đại học, tiểu thương,
giáo dân, v.v… mạnh dạn tuyên bố phát động một phong trào, đúng nghĩa,
không phải là thành lập tổ chức chính trị-xã hội, với mục tiêu tranh đấu
cho dân chủ, tự do và bảo vệ chủ quyền dân tộc, tựa như mô hình phong
trào “Đoàn Kết” ở Ba Lan, “Hiến chương 77″ tại Tiệp Khắc (cũ) hay
“Otpor” của Nam Tư (cũ)… tôi tin chắc sẽ có đông đảo người Việt trong,
ngoài nước, cũng như cộng đồng quốc tế ủng hộ.
Rất nên tránh yếu tố nước ngoài trong nhóm những người khởi
xướng để ngăn ngừa sự quy chụp từ phía nhà cầm quyền và nghi kị từ phía
dân chúng muốn tham gia. Chỉ khi phong trào đủ lớn, đủ mạnh, thì những
đại diện mới có con bài để ngồi đối diện với nhà cầm quyền đưa ra yêu
sách.
Đáng tiếc, trong nhiều thập niên quá người trong nước, đặc biệt
là giới trí thức, những người gánh trách nhiệm tiên phong trong thay
đổi xã hội, đã không tạo ra được nền tảng chủ chốt. Tất cả chỉ mới bắt
đầu bằng tiếng nói tranh đấu của những người bất đồng chính kiến đơn lẻ,
thiếu vắng nối kết có tổ chức, để rồi từng người kết thúc sự dấn thân
của mình trong nhà tù với những bản án nặng nề. Vì thế, tương lai khởi
động xã hội mãi mù mịt.
Bài học tranh đấu bất bạo động của các nước, đặc biệt của Ba
Lan, một quốc gia có gần nửa thế kỷ nằm trong hệ thống CS với Việt Nam,
tuy khác với hoàn cảnh VN, nhưng có thể mang lại cho chúng ta những kinh
nghiệm hữu ích, áp dụng vào thực tế Việt Nam.
Nhắc lại kỷ niệm 31 năm ngày cả nước Ba Lan ngộp thở vì khủng
bố trong giai đoạn thiết quân luật và ít năm sau sau đó họ đã giành được
tự do dân chủ, chính là để những người Việt trong nước nhìn nhận lại
phương pháp hành động của mình.
Ngày 10-11/12/2012
© 2012 Lê Diễn Đức – RFA Blog
0 comments:
Post a Comment