Trần Minh
Nhắc đến 3 chữ Thích Hộ Giác thì ký ức
của những người Miền Nam đã sống qua giai đoạn 1963-1966 không khỏi nhớ
lại một khoảng thời gian vô cùng đen tối của đất nước, trong đó quan
hệ lãnh đạo quốc gia đã bị đạo binh chính trị mặc áo cà sa của PGVNTN
phá hoại tan nát. Hình ảnh và tài liệu về ông Thích Hộ Giác và rất
nhiều các ông họ Thích khác, lấy danh nghĩa Phật Giáo tập họp hàng chục
ngàn người, hiên ngang thề dẹp sạch chính quyền VNCH cho đến giọt máu
và hơi thở cuối cùng, còn sờ sờ ra đó, thì có thể nào chúng ta có thể
chấp nhận tổ chức PGVNTN như một tổ chức tôn giáo thuần túy không dính
dáng và làm lợi gì cho Bắc Việt. Càng xót xa cho vận nước phải nằm
trong tay bọn cộng sản bao nhiêu, thì Người Việt Quốc Gia lại càng nhớ
và càng phẩn nộ những chính trị gia lưu manh của một thời đã gây biết
bao nhiễu nhương oan trái cho đất nước bấy nhiêu.
Đánh giá lại những nhân vật chính trị
và những phong trào chính trị của xã hội Miền Nam trong hơn hai mươi
năm 1954-1975, phải nói rằng tất cả nhóm tu sĩ lãnh đạo của PGVNTN đều
nổi tiếng khắp thế giới vì đổ xăng đốt người để mưu đồ chính trị, nhằm
thôn tính chính phủ VNCH qua hai phong trào “Phật Giáo tranh đấu” và
“Bàn thờ Phật xuống đường”. Nhắc đến tên Thích Hộ Giác, người ta cũng
nhớ ngay đến những kẻ đồng hành sát máu với Thích Hộ Giác như Thích Trí
Quang, Thích Thiện Minh, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thích
Quảng Liên, Huỳnh Liên, Thích Nhất Hạnh, Thích Thiện Siêu… Ròng rã suốt
hai mươi năm chiến tranh khói lửa để bảo vệ quốc gia chống lại cộng
sản, thì chỉ thấy quân dân cán chính VNCH phải đổ xương đổ máu để cùng
với chính quyền chống lại cộng sản. Trong khi đó thì cũng trên cùng một
mảnh đất Miền Nam, PGVNTN cũng đã ra sức tận diệt bộ phận quan trọng
nhất của quốc gia Việt Nam Cộng Hòa, đó là bộ máy chính quyền quốc gia,
đồng thời kêu gào bắt tay với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, điều đình
với Bắc Việt và Mỹ phải cút về nước.
Tài sản hai mươi năm mà PGVNTN đã tặng cho Miền Nam là những khẩu hiệu “Độc
tài gia đình trị” “Độc tài quân phiệt” “Đàn áp Phật Giáo” “Diệm mà
không Diệm” “Phật Giáo Tranh Đấu” “Bàn Thờ Phật Xuống Đường”. Thay
vì tụng kinh niệm Phật, chấn chỉnh Phật Giáo, làm từ thiện cứu nhân độ
thế, giúp vua trị nước như các danh sư đời Lý đời Trần như sư Vạn Hạnh,
sư Khuông Việt, thì PGVNTN chỉ tụng đêm tụng ngày các khẩu hiệu “độc tài đàn áp Phật Giáo”
và kích động Phật Tử sống chết với chính phủ VNCH, vì Phật Giáo đang
bị lâm nguy! Sau khi chính quyền VNCH bị bức tử rồi, có nghĩa là khi
nước Việt Nam Cộng Hòa cũng đã không còn nữa, thì miệng lưỡi của những
kẻ tu hành này vẫn cứ sặc sụa mùi đấu tố như vậy. Cứ như thế năm này
tháng kia, gần 60 năm rồi PGVNTN vẫn không biết xấu hổ, lưu truyền
những khẩu hiệu sát máu này cho các thế hệ thầy tu và Phật Tử kế tiếp.
Trong hai mươi năm đổ xương máu để bảo vệ Miền Nam khỏi tay cộng sản,
thì chỉ có quân dân VNCH đoàn kết ủng hộ chính phủ VNCH, còn PGVNTN thì
cấu kết với cộng sản làm việc chống lại chính phủ. Thành quả của
PGVNTN là Miền Nam đã có không biết cơ man nào là các cuộc biểu tình
đốt sống người với các khẩu hiệu “độc tài đàn áp Phật Giáo”. Đối với
PGVNTN, chính phủ nào của VNCH cũng là chính phủ độc tài quân phiệt,
gia đình trị đàn áp Phật Giáo, trừ chính phủ cộng sản. Trước 1975, chưa
bao giờ chúng ta thấy PGVNTN có mặt trong các cuộc biểu tình chống
cộng sản, kể cả cuộc biểu tình của toàn quân toàn dân Miền Nam chống
Trung Cộng xâm lăng Hoàng Sa cuối tháng 1 năm 1974 cũng không thấy bóng
dáng PGVNTN ở đâu. Bỗng nhiên sau hơn 38 năm lại nghe ông Thích Quảng
Độ lên tiếng về vấn đề Hoàng Sa? Thế là thế nào? Tại sao lại có sự “yêu
nước đột xuất” như thế? Sự lên tiếng muộn này có nghĩa lý gì, nếu
không ngoài nghĩa lý mưu cầu một cái gì đó? Một tổ chức và một người mà
kể từ năm 1962 đến nay, gần 60 năm rồi mà cửa miệng vẫn còn chửi bới
tất cả các chính phủ VNCH từ TT Ngô Đình Diệm đến Dương Văn Minh,
Nguyễn Khánh, Trần Văn Hương, Phan Khắc Sửu, Phan Huy Quát, Nguyễn Cao
Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu, đều là bọn độc tài gia đình trị, độc tài quân
phiệt đàn áp Phật Giáo, thề rằng “chúng tôi” muốn bắt tay với Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam và điều đình với Bắc Việt và Mỹ phải rút
quân, nếu chúng tôi được bầu cử tự do thì chính phủ này không tồn tại
đến một ngày” [Xem].
Bây giờ thì ông Thích Quảng Độ lại than thở bị Việt Cộng quản thúc bị
Việt Cộng đàn áp, bây giờ thì ông Thích Quảng Độ lại lên tiếng chống
lại Bắc Việt và đòi Hoàng Sa, một người mà năm 1967 đòi Mỹ phải cút về
nước thì năm 2011 lại xin Tổng Thống Mỹ cho job cai quản vùng Châu Á
Thái Bình Dương và beyond, một người tu hành mà dám mở miệng láo khoét
rằng Miền Nam không có bầu cử tự do, nếu ông ta và PGVNTN của ông ta
được bầu cử tự do thì chính quyền VNCH không tồn tại đến một ngày, thì
liệu tất cả những NVQG có thể nào tin được những thành phần như vậy hay
không? Hãy nhìn cái Thanh Minh Thiện Viện lộng lẫy sang trọng và sự tụ
do đi lại của ông Thích Quảng Độ và sự “tự do thăm viếng ngài, tự do
cho tiền ngài và tự do vui vẻ bỏ tiền vào túi liền lập tức của ngài” mà
một số đồng bào Phật Tử của Chùa Điều Ngự về nước thăm viếng “ngài”
cho biết sự tình và cũng từ đó lòng hẹn lòng một đi không trở lại, thì
chúng ta chẳng lẽ lại không có câu trả lời về chuyện tại sao ngài Quảng
Độ chống cộng và chống cộng để làm gì chăng?
TT Ngô Đình Diệm |
Nhắc đến tên các ông họ Thích của PGVNTN, người ta nhớ ngay đến các cảnh biểu tình đấu tố “Cần
Lao Công Giáo” “Mật Vụ Nhu Diệm” “đàn áp Phật Giáo” “Độc tài gia đình
trị” “đàn áp Phật Giáo” “độc tài quân phiệt” “Mỹ phải cút về nước” “yêu
cầu phải có hòa bình tức khắc” “Mỹ-Diệm Mỹ-Thiệu” “Diệm mà không Diệm”.
Đồng tác giả của những mỹ từ này không ai khác chính là PGVNTN và cộng
sản Hà Nội. Và không phải hai tác giả này chỉ dành riêng những mỹ từ
đấu tố này cho TT Ngô Đình Diệm, mà tất cả các vị chính trị gia đã từng
lãnh đạo Miền Nam đều được PGVNTN ưu ái tặng cho những tội trạng như
vậy. Ngoài những từ ngữ sặc mùi đấu tố nói trên, “Phong Trào Phật Giáo Tranh Đấu” và “Bàn Thờ Phật Xuống Đường”
làm cho người Miền Nam không khỏi rùng mình liên tưởng đến những đoàn
quân Hồng Vệ Binh của Mao Chủ Tịch, quan thầy vĩ đại của Hồ Chủ Tịch và
Đảng Cộng Sản Việt Nam. Cũng như người Miền Nam cũng không thể nào
được quên bản nhạc mà Hà Nội sáng tác và phát sóng vào Nam mỗi ngày để
ủng hộ cuộc cách mạng không tiền khoáng hậu của PGVNTN như sau “Xuống đường! xuống đường! đập tan mọi xích xiềng, tiến lên dành chính quyền,… dành lấy chính quyền về tay nhân dân”.
Sau vấn đề sụp đổ một cách thê thảm của nền Đệ Nhất Cộng Hòa bởi việc lén lút ám sát TT Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu của Dương Văn Minh, thì thanh thế và quyền lực của tổ chức PGVNTN lên như vũ bão. Để tiếp tục duy trì lợi thế này, thì Hà Nội đã chỉ thị cho những tên cộng sản chóp bu của PGVNTN tiếp tục tổ chức biểu tình và đốt sống người thêm nữa. Mục đích của việc tiếp tục biểu tình đốt sống người với khẩu hiệu “Diệm mà không Diệm” sau khi TT Ngô Đình Diệm đã chết rồi là gì? Chẳng qua là để làm suy sụp tất cả các chính quyền VNCH tiếp theo, mà TT Ngô Đình Diệm chỉ là một mục tiêu đầu tiên. Trước việc ám sát tàn bạo dã man TT Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu như vậy, thì tất cả các viên chức lãnh đạo quốc gia tiếp theo đều run sợ trước những cảnh biểu tình đốt sống người của PGVNTN. PGVNTN đã áp lực tất cả các chính phủ VNCH phải thỏa mãn tất cả những gì họ muốn, đặc biệt là yêu sách đưa người của họ vào các chức vụ trọng yếu của chính quyền như Bộ Trưởng, Tỉnh Trưởng, Trưởng Ty, và đưa tất cả những ai đã làm việc dưới chính phủ TT Ngô Đình Diệm hoặc phải vào tù, hoặc phải mất chức với tội danh “made in cải cách ruộng đất Cần Lao Công Giáo”, “Mật Vụ Nhu Diệm” "đàn áp Phật Giáo”. Cứ như thế, chính phủ VNCH ngày càng suy yếu vì không còn người có tài để nắm những chức vụ quan trọng trong guồng máy quốc gia, mà thay vào đó là cán bộ cộng sản hoặc những kẻ bất tài tay chân của PGVNTN. Còn những người có khả năng và thức thời thì họ rút vào bóng tối, vì họ biết rằng, ngồi trên ghế trưởng ty, trưởng phòng, bộ trưởng hôm nay nhưng ngày mai có thể đi tù vì tội “Cần Lao Công Giáo” hoặc tội “Mật Vụ Nhu Diệm đàn áp Phật Giáo”. Khi chính phủ thỏa mãn các yêu sách này của họ xong thì Hồng Vệ Binh PGVNTN lại đưa ra các yêu sách khác. Cứnhư vậy, toàn xã hội sống trong nổi lo âu khiếp hãi của những đợt thanh trừng và biểu tình đốt sống người của Hồng Vệ Binh còn chính phủ thì bị tê liệt hoàn toàn. Quả thật Hà Nội đã rất giỏi và rất thành công trong việc sử dụng Hồng Vệ Binh PGVNTN để triệt hạ Miền Nam. Hồng Vệ Binh PGVNTN đã hoàn toàn làm chủ tình thế làm chủ đất nước, các chính quyền hậu TT Ngô Đình Diệm lần lượt tạ thế một cách nhanh chóng, 15 lần thay đổi nội các trong vòng 1 năm ruỡi! Quý vị hãy tra cứu lịch sử thế giới thử xem đã có quốc gia nào trên thế giới lâm vào tình trạng tồi tệ như thế chưa, ngoài Miền Nam Việt Nam giai đoạn 1963-1966? Sự hoành hành Miền Nam của Hồng Vệ Binh PGVNTN phải nói là vô cùng khủng khiếp. Tình trạng Miền Nam lúc đó có thể nói là hỗn loạn và vô chính phủ, quân đội yếu kém chưa từng thấy vì không có lãnh đạo có bản lãnh để trừng trị bọn Hồng Vệ Binh PGVNTN, như bức điện tín của Bộ Trưởng Ngoại Giao Dean Rusk gởi cho Đại Sứ Maxell Taylor đã khẳng định. Không một viên chức trung cấp hay cao cấp nào trong bất cứ lãnh vực quân sự, chính trị, hay quản trị, dám quyết định một điều gì, ngay cả khi được ra lệnh họ cũng không thèm thi hành. Vì lẽ thi hành chỉ thị hôm nay thì ngày mai có thể ngồi tù vì tội đã thực thi chỉ thị đó, vì cái tội “Cần Lao Công Giáo” “Mật vụ Nhu Diệm” có thể được Hồng Vệ Binh PGVNTN ban cho bất cứ lúc nào, còn tòa án lúc đó cũng là Tòa Án Nhân Dân thực hiện theo chỉ thị của PGVNTN đại diện bởi Thích Trí Quang, cháu ngoan của Bác Hồ. Trong khi PGVNTN hoành hành đất nước như vậy, thì hàng hàng lớp lớp thanh niên vẫn lặng lẽ tình nguyện vào quân đội, lao thân vào trận địa hy sinh cuộc đời tuổi trẻ và mạng sống nơi chiến trường quyết bảo vệ chính quyền VNCH và Miền Nam đến cùng. Những thế hệ thanh niên này hoàn toàn không biết TT Hoa Kỳ Lyndon Johnson đã suy nghĩ thế nào về tình trạng Việt Nam đang bị bọn thảo khấu Hồng Vệ Binh PGVNTN dày xéo như vậy, nhưng hành động của họ giống hệt suy nghĩ của TT Johnson, đó là The main objective was to just- win the war. Not much effort placed on the so-call social concerns (The year of Lyndon Johson, page 402).
Sau vấn đề sụp đổ một cách thê thảm của nền Đệ Nhất Cộng Hòa bởi việc lén lút ám sát TT Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu của Dương Văn Minh, thì thanh thế và quyền lực của tổ chức PGVNTN lên như vũ bão. Để tiếp tục duy trì lợi thế này, thì Hà Nội đã chỉ thị cho những tên cộng sản chóp bu của PGVNTN tiếp tục tổ chức biểu tình và đốt sống người thêm nữa. Mục đích của việc tiếp tục biểu tình đốt sống người với khẩu hiệu “Diệm mà không Diệm” sau khi TT Ngô Đình Diệm đã chết rồi là gì? Chẳng qua là để làm suy sụp tất cả các chính quyền VNCH tiếp theo, mà TT Ngô Đình Diệm chỉ là một mục tiêu đầu tiên. Trước việc ám sát tàn bạo dã man TT Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu như vậy, thì tất cả các viên chức lãnh đạo quốc gia tiếp theo đều run sợ trước những cảnh biểu tình đốt sống người của PGVNTN. PGVNTN đã áp lực tất cả các chính phủ VNCH phải thỏa mãn tất cả những gì họ muốn, đặc biệt là yêu sách đưa người của họ vào các chức vụ trọng yếu của chính quyền như Bộ Trưởng, Tỉnh Trưởng, Trưởng Ty, và đưa tất cả những ai đã làm việc dưới chính phủ TT Ngô Đình Diệm hoặc phải vào tù, hoặc phải mất chức với tội danh “made in cải cách ruộng đất Cần Lao Công Giáo”, “Mật Vụ Nhu Diệm” "đàn áp Phật Giáo”. Cứ như thế, chính phủ VNCH ngày càng suy yếu vì không còn người có tài để nắm những chức vụ quan trọng trong guồng máy quốc gia, mà thay vào đó là cán bộ cộng sản hoặc những kẻ bất tài tay chân của PGVNTN. Còn những người có khả năng và thức thời thì họ rút vào bóng tối, vì họ biết rằng, ngồi trên ghế trưởng ty, trưởng phòng, bộ trưởng hôm nay nhưng ngày mai có thể đi tù vì tội “Cần Lao Công Giáo” hoặc tội “Mật Vụ Nhu Diệm đàn áp Phật Giáo”. Khi chính phủ thỏa mãn các yêu sách này của họ xong thì Hồng Vệ Binh PGVNTN lại đưa ra các yêu sách khác. Cứnhư vậy, toàn xã hội sống trong nổi lo âu khiếp hãi của những đợt thanh trừng và biểu tình đốt sống người của Hồng Vệ Binh còn chính phủ thì bị tê liệt hoàn toàn. Quả thật Hà Nội đã rất giỏi và rất thành công trong việc sử dụng Hồng Vệ Binh PGVNTN để triệt hạ Miền Nam. Hồng Vệ Binh PGVNTN đã hoàn toàn làm chủ tình thế làm chủ đất nước, các chính quyền hậu TT Ngô Đình Diệm lần lượt tạ thế một cách nhanh chóng, 15 lần thay đổi nội các trong vòng 1 năm ruỡi! Quý vị hãy tra cứu lịch sử thế giới thử xem đã có quốc gia nào trên thế giới lâm vào tình trạng tồi tệ như thế chưa, ngoài Miền Nam Việt Nam giai đoạn 1963-1966? Sự hoành hành Miền Nam của Hồng Vệ Binh PGVNTN phải nói là vô cùng khủng khiếp. Tình trạng Miền Nam lúc đó có thể nói là hỗn loạn và vô chính phủ, quân đội yếu kém chưa từng thấy vì không có lãnh đạo có bản lãnh để trừng trị bọn Hồng Vệ Binh PGVNTN, như bức điện tín của Bộ Trưởng Ngoại Giao Dean Rusk gởi cho Đại Sứ Maxell Taylor đã khẳng định. Không một viên chức trung cấp hay cao cấp nào trong bất cứ lãnh vực quân sự, chính trị, hay quản trị, dám quyết định một điều gì, ngay cả khi được ra lệnh họ cũng không thèm thi hành. Vì lẽ thi hành chỉ thị hôm nay thì ngày mai có thể ngồi tù vì tội đã thực thi chỉ thị đó, vì cái tội “Cần Lao Công Giáo” “Mật vụ Nhu Diệm” có thể được Hồng Vệ Binh PGVNTN ban cho bất cứ lúc nào, còn tòa án lúc đó cũng là Tòa Án Nhân Dân thực hiện theo chỉ thị của PGVNTN đại diện bởi Thích Trí Quang, cháu ngoan của Bác Hồ. Trong khi PGVNTN hoành hành đất nước như vậy, thì hàng hàng lớp lớp thanh niên vẫn lặng lẽ tình nguyện vào quân đội, lao thân vào trận địa hy sinh cuộc đời tuổi trẻ và mạng sống nơi chiến trường quyết bảo vệ chính quyền VNCH và Miền Nam đến cùng. Những thế hệ thanh niên này hoàn toàn không biết TT Hoa Kỳ Lyndon Johnson đã suy nghĩ thế nào về tình trạng Việt Nam đang bị bọn thảo khấu Hồng Vệ Binh PGVNTN dày xéo như vậy, nhưng hành động của họ giống hệt suy nghĩ của TT Johnson, đó là The main objective was to just- win the war. Not much effort placed on the so-call social concerns (The year of Lyndon Johson, page 402).
Đúng như vậy, những thế hệ thanh niên Miền Nam trưởng thành sau năm 1954 cũng cùng một suy nghĩ như TT Johson. Họ chỉ muốn mỗi một điều “Đó là phải thắng cho được cộng sản cái đã, còn những nhu cầu khác vui lòng gác qua một bên”. Nhưng Hồng Vệ Binh PGVNTN và các chính khách và đảng phái khác như Đại Việt, Quốc Dân Đảng, và “18 Nhân Sĩ Chính Khách Caravelle” không nghĩ như vậy. Họ không vì quyền lợi tối thượng của quốc gia là trên hết, mà muốn được chia quyền chia ghế ngay lập tức. Vì vậy, các chính khách này cần phải có lý do để đối đầu với Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Lý do đó là gì? Hồng Vệ Binh Phật Giáo thì đã có lý do “độc tài Nhu Diệm đàn áp Phật Giáo” còn các chính khách và đảng phái chính trị thì rất may mắn, tự nhiên trời sinh ông cố vấn tài ba Ngô Đình Nhu lại là em ruột TT Ngô Đình Diệm, nên các chính khách còn chần chờ gì mà không vớt ngay phương châm “độc tài gia đình trị Nhu Diệm”. Trong khi cùng một thời điểm ở bên kia nữa vòng trái đất, em ruột của TT John F Kennedy là Robert Kennedy làm bộ trưởng tư pháp thì không có gì là độc tài gia đình trị cả, và gần đây tại Ba Lan, anh làm Tổng Thống em làm thủ tướng thì dân chúng cũng không hề hô hoán là độc tài gia đình trị. Phân tích ra để chúng ta thấy rõ tất cả những thủ phạm trong việc sụp đổ nền chính trị tốt nhất của Miền Nam và vị lãnh đạo tốt nhất mà chúng ta có được. Vì tương lai của tổ quốc Việt Nam, hơn một triệu thanh niên Miền Nam đã lên đường tòng quân nhập ngũ, 260 ngàn người nằm xuống, số còn lại tiếp tục giữ vững tay súng, trãi cuộc đời thanh niên tuổi trẻ nơi rừng sâu núi thẳm. Trong khi đó thì tại hậu phương, những chính khách tham quyền bất đức bất tài chẳng hạn một số thành viên của Đại Việt, Quốc Dân Đảng, Chính Khách Caravelle, cấu kết với nhau trong cái gọi là đối lập chống Độc Tài Gia Đình Trị, còn những tên lưu manh họ Thích thì cấu kết với nhau trong tổ chức chính trị gọi là PGVNTN. Cả hai thế lực chính trị này lại hợp đồng với nhau, nhân danh cái gọi là độc tài gia đình trị, và nhân danh “Phật Giáo bị đàn áp” để phá hoại quan hệ lãnh đạo của TT Ngô Đình Diệm. Thế lực của Hồng Vệ Binh PGVNTN mạnh hơn thế lực kia rất nhiều vì có tín đồ và có cộng sản hổ trợ mạnh, còn thế lực đảng phái chính trị thì yếu hơn, không làm nên cơm cháo gì, nên chỉ giữ vai trò phụ họa kéo màn là chính. Vì vậy, công bằng mà nói, cả hai thế lực chính trị thế quyền đối lập và thế lực thần quyền PGVNTN đều phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về sự sụp đổ của nền đệ nhất cộng hòa, đưa đến thảm họa cộng sản cho Việt Nam và ngay cả cái chết của TT Ngô Đình Diệm. Dĩ nhiên, trong cái chết của TT Ngô Đình Diệm, ông cố vấn Ngô Đình Nhu và những người vô tội khác thì trách nhiệm của bọn Hồng Vệ Binh PGVNTN và đám tướng lãnh phản quốc là chính. [Xem]
Những lãnh đạo hàng đầu là Thích Trí Quang (hình trên), người tạo ra việc lật đổ Tổng Thống Diệm. Thích Tâm Châu (phải) và Thích Thiện Minh (phía xa phải). Trang kia, Thích Hộ Giác đang nói với đám đông rằng những cuộc biểu tình tương lai sẽ được lên kế hoạch một cách chiến lược bởi Phật giáo [phản loạn]. |
Thời gian gần ba năm sau khi TT Ngô
Đình Diệm bị sát hại, là thời kỳ vàng son cực thịnh của Hồng Vệ Binh
PGVNTN. Tiêu biểu cho sự vàng son này là câu nói để đời của PGVNTN bởi
Thích Trí Quang với Đại Sứ Cabot Lodge như sau: “Các ông muốn kéo Kỳ
xuống thì các ông sẽ đưa ai lên?- Chúng tôi kéo Kỳ xuống rồi chúng tôi sẽ đưa Kỳ lên!”
Bằng các cuộc biểu tình hung bạo, có kèm đổ xăng đốt sống để kích
thích tính bạo động, Hồng Vệ Binh PGVNTN đã lèo lái con thuyền quốc gia
làm đã thay đổi 15 nội các chính phủ trong vòng chỉ có 1 năm rưỡi. Tất
cả các chính phủ thời hậu TT Ngô Đình Diệm đều là Phật Tử nhưng không
chính phủ nào có thể làm vừa lòng PGVNTN, và không chính phủ nào có thể
chịu nổi Hồng Vệ Binh PGVNTN, chính phủ nào cũng đều đàn áp Phật Giáo,
Diệm mà không Diệm cả, thế là thế nào? Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh,
Trần Văn Hương, Phan Huy Quát, Nguyễn Cao Kỳ đều là Phật Tử nhưng theo
Hồng Vệ Binh PGVNTN thì bọn chúng cũng theo gương Nhu Diệm mà đàn áp
Phật Giáo cả lũ! Vậy thì chắc chắn là đã có cái gì không ổn trong cái
gọi là “đàn áp Phật Giáo” đó rồi. Như TT Nixon đã viết trong “No more Viet Nam” như sau: “Cái gọi là đàn áp Phật Giáo chỉ là điều bịa đặt” và như báo cáo của Liên Hiệp Quốc bởi ông Abdul Rahman Pazhwak rằng đã không tìm thấy bằng cớ đàn áp Phật Giáo. Tại
sao chính phủ nào cũng đàn áp Phật Giáo vậy? “something’s wrong
somewhere? Người ngu nhất cũng phải biết chẳng qua đó chỉ là vở kịch
được soạn thảo và đạo diễn bởi Hà Nội, đàn em Hồng Vệ Binh PGVNTN trình
diễn. Đó đích thực là đàn áp Phật Giáo kiểu của Goebbels hay kiểu của
Bác Hồ hay nói theo cây nhà lá vườn là kiểu Chí Phèo tự rạch mặt để hô
hoán cho Bá Kiến!
Vấn đề cần phải được minh bạch đó là
Phật Giáo bị đàn áp, hay chính Phật Giáo đàn áp chính phủ VNCH? Với gần
2000 ngôi chùa mới được thành lập dưới sự lãnh đạo của TT Ngô Đình
Diệm, với sự kiện không một ai bị cấm đi chùa, không một ai bị cấm
truyền bá đạo Phật, và không một chùa nào phải bị vào Mặt Trận Tổ Quốc,
với sự kiện hàng năm đến ngày Phật Đản thì đâu đâu cũng dập tài tử
giai nhân, nam thanh nữ tú, ông già bà lão đến trẻ con rộn rịp ngóng
chờ đoàn xe hoa Phật Đản lộng lẫy dài bất tận diễn hành trên khắp các
thành phố trên toàn quốc, và với việc đã có cả thảy 15 nội các chính
phủ theo sau nội các 9 năm của TT Ngô Đình Diệm cũng có cùng chung một
tội với TT Ngô Đình Diệm đó là tội “Diệm mà không Diệm, đàn áp Phật
Giáo” thì rõ ràng rằng, chính Phật Giáo chứ không ai khác, đã đàn áp chính phủ VNCH, chứ không phải chính phủ VNCH đàn áp Phật Giáo.
Sự thật này phải được trả lại cho lịch sử. Hành động vừa ăn cướp vừa
là làng của cháu ngoan Bác Hồ Hồng Vệ Binh Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất phải bị vạch mặt!
Bước sang lãnh vực an ninh tình báo,
thì hànhđộng rước hổ vào nhà của PGVNTN đã xảy ra một cách trắng trợn
như sau: Hô hoán rằng chính phủ đệ nhất VNCH đã bắt nhốt Phật Tử và Quý
Thầy trong nhà lao, PGVNTN đã làm áp lực buộc bộ trưởng nội vụ Hà Thúc
Ký thuộc Đảng Đại Việt, phải thả tổng cộng khoảng 100 cán bộ tình báo
cộng sản, trong đó có những tên cộng sản vô cùng quan trọng và nguy
hiểm như Thiếu Tướng Tình Báo Chiến Lược Mười Hương, Đại Tá Tình Báo
Chiến Lược Lê Câu, Thiếu Tướng CS Trần Văn Quang tư lệnh mặt trận Trị
Thiên. Những tên quỷ dữ cộng sản này sau khi được Hà Thúc Ký thả ra đã
tái hoạt động và đóng góp công sức không nhỏ vào việc cộng sản thôn
tính Miền Nam. Tất nhiên, tội ác này là tội ác của Hồng Vệ Binh PGVNTN,
nhưng chính ông Hà Thúc Ký và Đảng Đại Việt phải chịu trách nhiệm
trước lịch sử. Một tội ác nữa của Hồng Vệ Binh PGVNTN ngoài việc thả
cán bộ điệp viên cộng sản ra, thì Hồng Vệ Binh PGVNTN còn chủ mưu xóa
sổ các cơ quan tình báo vô cùng quan trọng của VNCH bằng cách giết ông
Phan Quang Đông chỉ huy trưởng mạng lưới tình báo phụ trách Bắc Việt,
giết ông Ngô Đình Cẩn chỉ huy thực thụ của mạng lưới tình báo phản gián
Miền Trung, một địa bàn hoạt động mạnh nhất và nguy hiểm nhất của cộng
sản tại Miền Nam Việt Nam, bỏ tù ông Dương Văn Hiếu, trưởng đoàn Đặc
Nhiệm Miền Trung, phụ tá cho ông Ngô Đình Cẩn.
Song song với vấn đề thả cộng sản và
phá hoại mạng lưới tình báo của VNCH bằng cách thay những chuyên viên
tình báo giỏi của VNCH bằng những cán bộ cộng sản hoặc tay sai của
PGVNTN, một vấn đề nghiêm trọng nữa mà Hồng Vệ Binh PGVNTN đã làm, đó là tê liệt hóa chính quyền VNCH.
Cũng bổn củ xài đi xài lại, cũng một khẩu hiệu duy nhất “Cần Lao Công
Giáo, Mật vụ Nhu Diệm”, tất cả các vị Tỉnh Trưởng, Trưởng Ty, và các
chuyên viên cao cấp trong bộ máy hành chánh chính quyền đều bị vào tù
hoặc cách chức, và được thay thế bằng người của Hồng Vệ Binh PGVNTN,
tức là người của Hà Nội, hợp pháp hóa bởi “Thầy Thích Trí Quang”.
TT Ngô Đình Diệm |
Phá hủy mạng lưới tình báo quốc gia,
thả các cán bộ cộng sản lớn nhỏ mà chính quyền TT Ngô Đình Diệm bắt
được, loại trừ tất cả các chuyên viên giỏi trong bộ máy chính quyền Đệ
Nhất Cộng Hòa và thế vào bởi các cán bộ của chùa, tức là cán bộ của
Đảng, rõ ràng tất cả các hành động trên của PGVNTN là những việc
làm có hệ thống, có kế hoạch và có sự tính toán tinh vi mà một mình
PGVNTN, một tổ chức ô hợp gồm những kẻ dốt nát lưu manh ít học, thì
không thể nào làm được, mà bắt buộc phải là sự tổ chức và điều động của
Hà Nội. Kết quả của 3 mũi nhọn chiến lược này là tình hình an
ninh chính trị quân sự của Miền Nam đạt đến mức tận cùng của sự thê
thảm, buộc lòng chính phủ TT Johnson phải khẩn cấp đổ bộ 3500 Thủy Quân
Lục Chiến Mỹ vào bãi biển Đà Nẳng ngày 8 tháng 3 năm 1965 để kịp thời
chống trả lực lượng rất mạnh của cộng sản đang chuẩn bị hành động. Và
như vậy, kế hoạch Hiện Đại Hóa Quân Đội VNCH đểthay thế hoàn toàn cho
Quân Đội Hoa Kỳ vào cuối năm 1965, soạn thảo bởi TT Ngô Đình Diệm, Bộ
Trưởng Quốc Phòng McNamara, Trưởng phòng nhân viên phủ Tổng Thống Đại
Tướng Maxell Taylor, được chính quyền Kennedy phê chuẩn ngày 2 tháng 10
năm 1965 đã bị chết một cách oan khiên theo bước chân của Phong Trào
Phật Giáo Phá Hoại và việc giết chết dã man TT Ngô Đình Diệm và ông Cố
Vấn Ngô Đình Nhu (The years of Johnson, page 402-403).
Cố Vấn Ngô Đình Nhu |
Xin được nói thêm về kế hoạch Diệm-Mcnamara-Taylor. Trước khi bị đảo chánh và thảm sát hơn một tháng, sau một chuyến thanh tra Việt Nam để thẩm định tình hình, một kế hoạch đã được TT Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, Bộ Trưởng Quốc Phòng Mcnamara và Trưởng Khối Nhân Viên văn phòng Tổng Thống Hoa Kỳ Gen. Maxell Taylor bàn soạn, trong đó sẽ bắt tay ngay vào việc hiện đại hóa quân đội VNCH với vũ khí tối tân nhất của Mỹ và dự kiến QLVNCH sẽ hoàn toàn thay thế quân đội Hoa Kỳ vào cuối năm 1965. Đến cuối năm 1963, tức là khoảng 2 tháng nữa, sẽ rút thêm một ngàn binh sĩ và cố vấn Hoa Kỳ, đưa số còn lại xuống khoảng 15,700, trên tổng số 16,732 binh sĩ và cố vấn Mỹ hiện diện tại Việt Nam vào thời điểm đó. Kế hoạch này đã được TT Hoa Kỳ Kennedy phê chuẩn ngày 2 tháng 10 năm 1963 (The years of Lyndon Johson, page 402-403). Đau đớn thay, số phận Miền Nam cũng oan nghiệt như số phận của người lãnh đạo là Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Hai mươi ngày sau cái chết của TT Ngô Đình Diệm, thì ngày 22 tháng 11 năm 1963 là cái chết của TT Kennedy. Chính phủ TT Johnson vẫn cam kết tiếp tục kế hoạch “Mcnamara, Taylor, Diệm”, tuy nhiên kế hoạch này không tài nào thực hiện được vì Miền Nam bị rơi vào tình trạng rối loạn vô chính phủ, bởi tay bọn Hồng Vệ Binh PGVNTN. Sau cái chết của TT Ngô Đình Diệm, Miền Nam trở thành một con rắn không đầu, hay nói đúng hơn, cái đầu của con rắn lúc đó chính là Hồng Vệ Binh PGVNTN, với các tên tuổi như Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Tâm Châu, Thích Hộ Giác, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ và vô số các loại Thích khác nữa. Trong bối cảnh Hồng Vệ Binh PGVNTN đã dọn đường cho Việt Cộng xâm nhập tràn đìa vào bộ máy chính quyền và mạng lưới tình báo của VNCH như vậy, và trước tình hình không có nguyên thủ quốc gia giỏi, thì không thể nào quân đội VNCH có thể một mình đảm đương nhiệm vụ chiến tranh. Miền Nam không có lãnh đạo giỏi thì chính phủ Hoa Kỳ làm sao có thể giao trứng “Diệm-Mcnamara-Taylor” cho ác, một đám ô hợp bất tài “chính phủ hội đồng” như kiểu Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Trần Văn Hương, Phan Khắc Sửu, Phan Huy Quát cho được? Với tình trạng an ninh chính trị bất ổn như vậy, quân đội VNCH càng ngày càng trở nên yếu kém trầm trọng, các tướng lãnh chỉ huy đã bị vòng kim cô PGVNTN kềm tỏa đến độ mê, chẳng hạn Nguyễn Chánh Thi, một tướng lãnh chuyên thực hiện các mệnh lệnh của Hồng Vệ Binh PGVNTN. Chính phủ Hoa Kỳ Johnson không còn tin tưởng vào khả năng của quân đội VNCH được nữa, dẫn đến việc kế hoạch “hiện đại hóa quân lực VNCH để thay thế hoàn toàn quân đội Hoa Kỳ trong vòng hai năm” chết ngay khi vừa mới chào đời được có một tháng! Không những không được hiện đại hóa để một mình đảm đương nhiệm vụ chiến tranh, mà ngược lại, quân đội VNCH còn bị quân đội Mỹ “take over”. Trước tình hình hết sức khẩn cấp được phía Mỹ đánh giá rằng QĐVNCH sẽ khó lòng chống trả đợt tấn công quân sự lớn sắp tới của cộng sản, ngày 8/3/1965, chính phủ Johnson đã đơn phương quyết định đổ khẩn cấp 3500 Thủy Quân Lục Chiến lên bãi biển Đà Nẳng mà không cần đếm xỉa gì đến nguyên thủ quốc gia Việt Nam Cộng Hòa lúc đó là chính trị gia bất tài Phan Huy Quát cả. Ông Phan Huy Quát, nguyên thủ của VNCH bấy giờ, đang còn ngủ, không hay biết gì. Có lẽ người Mỹ thấy việc báo trước cho một ông bù nhìn của Hồng Vệ Binh PGVNTN là một việc làm không cần thiết, có báo trước hay không báo trước thì Phan Huy Quát, một Phật Tử thuần thành của Hồng Vệ Binh PGVNTN, cũng sẽ “yes sir!” mà thôi! Từ đó dẫn đến việc Hoa Kỳ dấn thân mạnh vào cuộc chiến quốc cộng của Việt Nam mà không cần phải có một hiệp ước quân sự song phương nào cả như đối với các nước khác như Nam Hàn, Đài Loan, hay Phi Luật Tân, kéo theo hệ lụy hiệp định Paris, và ngay cả hiệp định Paris bị vi phạm trầm trọng bởi việc chế tài của quốc hội Hoa Kỳ, mà chính phủ VNCH và chính phủ Hoa Kỳ không thể làm gì được. Đứng trên quan điểm thể diện quốc gia mà nói, rõ ràng, sự kiện này chứng tỏ chính phủ Hoa Kỳ đã đánh giá quá thấp khí phách và khả năng lãnh đạo ông Phan Huy Quát, dẫn đến việc thể diện quốc gia của VNCH lúc đó bị xem thường. Trách người trách một trách ta trách mười, lãnh đạo của chúng ta lúc đó đúng là một đám bất tài khiếp nhược, người ngoài mà không xem thường quốc thể của chúng ta thì quả thật đó mới là chuyện lạ!
Có câu “nước rặt mới biết cỏ thúi”,
“nhà nghèo mới biết con thảo”, “nước loạn mới biết tôi trung”, “lửa thử
vàng gian nan thử sức”. Giai đoạn Miền Nam 1963-1966 đã là giai đoạn
chứng minh cho dân chúng và lịch sử thấy rằng các chính khách và các
đảng phái chính trị thời đó chỉ là những kẻ bất tài vô tướng. Tất cả
các Đảng Phái chính trị có máu mặt và các chính trị gia to mồm đã từng
kết án TT Ngô Đình Diệm độc tài gia đình trị, không cho họ tham chính,
thì nay đã có cơ hội để biểu diễn cái tài kinh bang tế thế của họ. Kết
quả của cái test 1963-1966 đó là: Các chính trị gia và các đảng phái
bấy giờ chỉ là một đám vô tài bất tướng, bị Hồng Vệ Binh PGVNTN điều
khiển như những con cừu ngờ nghệch. Lịch sử giai đoạn 1954-1966 đã tỏ
rõ ai là người có tài có đức, thấy xa trông rộng, biết đặt quyền lợi
quốc gia lên trên hết, và ai là kẻ bất tài bất tướng nhưng thám quyền
thám vị. Những thành phần bất tài này khi có được quyền lực trong tay
thì đương nhiên phải trở thành những kẻ phá hoại, đó là chân lý bất di
bất dịch. Các chính trị gia Miền Nam giai đoạn 1963-1966 là những kẻ
“múa vụng lại chê đất lệch” bất tài bất đức nhưng lại tự phụ mình có
tài có đức, không được sử dụng thì nguyền rủa, kết án, và mưu sát TT
Ngô Đình Diệm, chẳng hạn ông Hà Thúc Ký, chẳng hạn ông Nguyễn Chánh
Thi, ông Dương Văn Minh. Còn cái đám “Nhân Sĩ” Caravelle như các ông
Phan Huy Quát, ông Phan Khắc Sửu, ông Trần Văn Hương, cũng không hơn
không kém, tuy không giết TT Ngô Đình Diệm, nhưng cũng không được trọng
dụng nên sanh lòng thù oán, dùng khẩu hiệu “độc tài gia đình trị” như
là một thứ vũ khí để chứng minh mình có tài có đức. Những chính khách
giai đoạn 1963-1966 họ hoàn toàn không biết gì về họ, nhưng lịch sử đã
biết về họ: Giai đoạn 1963-1966 đã chứng minh các đảng phái chính trị
và các chính khách bấy giờ toàn là những kẻ bất tài khiếp nhược, còn
PGVNTN là một đám phản loạn Hồng Vệ Binh, và các tướng lãnh tham gia
đảo chánh giết Tổng Thống là những kẻ vi phạm luật pháp quốc gia với tội
danh phản quốc vì đã giết Tổng Tư Lệnh Quân Đội.
Một vài vấn đề lịch sử cần được phân
tích, chẳng hạn việc TT Ngô Đình Diệm không thể sử dụng những “chính
khách” như nhà văn Nhất Linh, ông Hà Thúc Ký, “Nhân sĩ Caravelle”
v.v... để điều hành quốc gia là một quyết định hết sức đúng đắn dựa
trên nguyên tắc dân chủ và quyền lợi quốc gia là trên hết. Nguyên tắc
“dân chủ trong lãnh đạo” là gì? Đó là khi một cá nhân được dân bầu làm
lãnh đạo cao nhất của quốc gia, thì ông ta có toàn quyền bổ nhiệm nội
các và sử dụng bất cứ ai mà ông thấy cần cho quốc gia, giúp ông điều
hành đất nước theo ý ông muốn, đó mới chính là dân chủ thật sự. Những
“chính khách” giai đoạn 1954-1966 đã từng nguyền rủa TT Ngô Đình Diệm
là độc tài gia đình trị không cho các đảng phái tham gia chính quyền,
thật ra họ không biết gì về nguyên tắc dân chủ cả. Dân chủ đối với họ
đó là mạnh ai nấy làm chủ, và ai có “công” trong việc lật cựu hoàng Bảo
Đại đưa TT Ngô Đình Diệm lên địa vị tối cao thì phải được chia phần
chia ghế. Viết đến đây, người viết bỗng dưng nhớ đến lời than vãn của
TT Ngô Đình Diệm với linh mục Cao Văn Luận tại dinh Độc Lập, khi linh
mục Cao Văn Luận trách cứ Tổng Thống sao ông không sử dụng nhân tài,
Tổng Thống trả lời rằng “Thưa đức cha, có bao nhiêu người tài con đã dùng hết rồi đâu còn mô!”
Đúng vậy, TT Ngô Đình Diệm đã dùng hết tất cả những nhân tài mà đất nước có được.
Điểm lại tài năng một số nhân vật mà đã được Tổng Thống chọn vào những
vị trí quan trọng để giúp ông điều hành quốc gia, chúng ta thấy họ hơn
hẳn các chính trị gia đối lập cùng thời. Các chính trị gia đối lập này
chỉ biết khum lưng cúi đầu trước những “chính trị gia đầu trọc họ
Thích”, chẳng hạn như Dương Văn Minh, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Hà
Thúc Ký, Phan Huy Quát. Các nhân tài dưới thời TT Ngô Đình Diệm sau này
sau đã bị “cuộc cách mạng không tiền khoáng hậu” tức Phong Trào Phật
Giáo Phá Hoại thanh trừng sạch sẽ. Thưa Hồng Vệ Binh PGVNTN, với nỗi hân
hoan tột độ vì đã sát hại được tên “Độc tài gia đình trị đàn áp Phật
Giáo” Ngô Đình Diệm, nay xin hỏi, quý vị triệt được ông ta thì quý vị
chọn ai lên lãnh đạo quốc gia? Dương Văn Minh? Nguyễn Khánh? Trần Văn
Đôn? Trần Văn Hương? Phan Huy Quát? Phan Khắc Sửu? Hay Thích Trí Quang?
Thích Thiện Minh, Thích Nhất Hạnh? Thích Huyền Quang? Thích Hộ Giác?
Thích Quảng Độ? Cũng xin hỏi, ông ta đã đàn áp quý vị thế nào? Ông ta
không cho quý vị treo cờ? Ông ta ném lựu đạn ở Đài Phát Thanh Huế để
giết trẻ em Phật Giáo? Thế là quý vị có đủ lý do chính đáng để sách động
lật đổ, ăn mừng việc ông bị sát hại? Đã vậy, là những kẻ mệnh danh tu
hành, nhưng suốt mấy chục năm nay quý vị vẫn không nguôi nguyền rủa TT
Ngô Đình Diệm độc tài đàn áp Phật Giáo, mà không có một bằng chứng nào
cả, thế thì cái đạo mà quý vị tu là cái đạo gì? Có thật quý vị là thầy
tu Phật Giáo hay không? Hay đây là tập họp của những kẻ hành nghề buôn
thần bán thánh bán Phật bán Chúa? Cho nên gần 60 năm, vẫn muối mặt làm
chuyện vu cáo chính quyền VNCH mà không một chút ngượng nghịu cắn rứt
lương tâm gì cả. Trên đời này, điểm lại tư cách của Phật Giáo thế giới,
thì chỉ có Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là có hành động tồi tệ nhất,
mà đã đi ngược lại pháp lý nhà Phật, làm chuyện vu cáo hãm hại người
kiểu Hồng Vệ Binh mà thôi.
Chỉ có những kẻ u mê hoặc những kẻ coi
thầy là Phật mới có thể tiếp tục tin những điều tố cáo vu vơ vô bằng vô
chứng mà PGVNTN đã và đang tiếp tục tuyên truyền. Sự vu cáo này rõ
ràng được chủ mưu bởi cộng sản Hà Nội và kẻ thi hành là PGVNTN. Bằng
chứng cho điều này là tổ chức PGVNTN đã chứa một ổ cộng sản trong đó,
ví dụ Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, Thích Thiện Siêu, Thích Thiện Hoa, Thích Chánh Trực, Thích Như Ý, Thích Nhất Hạnh, Thích Minh Châu,
Thích Pháp Trí, Thích Pháp Siêu và số còn lại là số ít nhiều cũng dính
dáng với Việt Cộng hoặc thân cộng như Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thích Hộ Giác,
Thích Thiện Minh v.v… Sự vu cáo này được dàn dựng bởi cộng sản Hà Nội,
cho nên đến giờ này Cộng Sản Hà Nội và PGVNTN vẫn còn cùng nhau hợp
xướng bản nhạc “độc tài đàn áp Phật Giáo”, và xây lăng điện to lớn cho
Thích Quảng Đức để tiếp tục duy trì và phát huy những tội ác đàn áp
Phật Giáo của Mỹ Ngụy.
Tiện đây tôi xin hỏi Hồng Vệ Binh
PGVNTN về vấn đề treo cờ Phật Giáo và ông Ngô Đình Cẩn. Thứ nhất, việc
chính phủ cấm treo cờ tôn giáo nơi công cộng, nơi công cộng nên dành
cho cờ quốc gia, điều này đúng hay sai? Thứ hai, việc luật treo cờ tôn
giáo được ban hành rơi vào đúng thời điểm Phật Đản, như vậy có thể
chứng minh rằng chính quyền TT Ngô Đình Diệm đàn áp Phật Giáo hay
không? Thứ ba, ai cũng biết, nhất là Thích Trí Quang, rằng ông Ngô Đình
Cẩn lúc nào cũng đứng đằng sau giúp đỡ cho Phật Giáo, ngay cả vấn đề
treo cờ, chính ông Ngô Đình Cẩn là người ủng hộ và can thiệp cho Thích
Trí Quang trong việc tiếp tục treo cờ Phật Giáo tại Huế, nên Thích Trí
Quang mới mạnh dạn như vậy, thế thì tại sao các ông lại giết ông Ngô
Đình Cẩn? Các ông không nhận tội, nhưng lịch sử đã minh bạch rằng chính
Hồng Vệ Binh PGVNTN đã ban lệnh tử hình ông Ngô Đình Cẩn, theo nhu cầu
của Hà Nội. Do vậy, xin thành thật mà nói, ngày nay cộng sản trừng trị
các ông cũng là điều nhân quả công bình mà Phật đã làm.
Luôn miệng nguyền rủa một vị nguyên thủ
quốc gia độc tài đàn áp Phật Giáo và thỏa thích hãnh diện trước cái
chết của ông, tự hào về một cuộc phản loạn đập phá đem bàn thờ Phật để
ngăn chặn giao thông, chiếm quốc lộ, chiếm chính quyền và giết người, đó là bản chất cao đẹp của quý tu sĩ Phật Giáo VNTN đó sao?
Nhưng có những điều mà Hồng Vệ Binh PGVNTN không thế chối cãi rằng
trước khi TT Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh, Miền Nam chỉ là một đống
gạch vụn của chiến tranh Pháp thuộc để lại. Không có chính phủ, các
thập nhị sứ quân, mỗi giáo phái hùng cứ mỗi nơi, trong đó chính quyền
chính tại Sài Gòn bấy giờ là Bảy Viễn, một tên ma cô chủ các sòng bài
và các động điếm. Về kinh tế thì ngân khố trống rỗng, ruộng vườn điêu
tàn và bỏ hoang vì chiến tranh, đồn điền và các xí nghiệp đều là của
người Pháp, đại đa số dân chúng thì thất học. Miền Nam không có lấy một
trường đại học, hoàn toàn không có quân đội và các trung tâm huấn
luyện quân đội, lác đác chỉ có một số lính không được tinh nhuệ do Pháp
để lại. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo của Miền Nam như vậy, Tổng Thống
Ngô Đình Diệm còn phải chịu trách nhiệm cưu mang hơn một triệu đồng bào
Miền Bắc di cư vào Nam. Trong vòng hai tháng phải lo ổn định chổ ở,
đời sống và y tế cho hơn 1 triệu người trong một cuộc di cư vĩ đại nhất
trong lịch sử nhân loại, là một công việc quá phi thường mà đến bây
giờ chưa có vị nguyên thủ quốc gia nào trên thế giới có thể làm được.
Trong lúc vừa phải đối phó với chiến tranh xâm lược của nguyên một khối
cộng sản trên thế giới đổ vào Việt Nam, ông đã xây dựng đất nước trở
thành một hòn ngọc viễn đông với hàng ngàn bệnh viện và các trường
trung tiểu học mới được xây dựng, nạn mù chữ được xóa bỏ một cách nhanh
chóng. Dưới sự lãnh đạo của TT Ngô Đình Diệm, lần đầu tiên Miền Nam có
các trường đại học Sài Gòn, Đại Học Đà Lạt, Đại Học Huế, Đại Học Y
khoa Sài Gòn được giảng dạy bằng Giáo Sư Việt Nam, trường Quốc Gia Hành
Chánh là những trường Đại Học đạt tiêu chuẩn quốc tế mà vùng Châu Á
khó sánh kịp. Về quân sự, Đại Học Võ Bị Đà Lạt xây dựng phỏng theo tiêu
chuẩn West Point, Võ Khoa Thủ Đức, do chính TT Ngô Đình Diệm cho xây
dựng và canh tân liên tục. Từ một Miền Nam nghèo khó bấp bênh chờ rơi
vào tay cộng sản, trong vòng không quá hai năm, TT Ngô Đình Diệm đã giữ
vững được đất nước và bắt đầu xây dựng nó trở thành một nước xuất cảng
mạnh về nông nghiệp và đang tiến đến giai đoạn kỹ nghệ hóa qua hai kế
hoạch phát triển kinh tế ngũ niên 1957-1961 và 1962-1967, giáo dục được
sắp xếp song song để cung cấp tài nguyên con người cho kế hoạch 10 năm
kỹ nghệ hóa đất nước, mà Thủy Điện Đa Nhim và Trung Tâm Nguyên Tử Đà
Lạt là hai nền tảng năng lượng quan trọng cho việc kỹ nghệ hóa này.
Trong 5 năm đầu tiên một số nhà máy lớn đã ra đời như nhà máy ván ép,
nhà máy giấy, nhà máy dệt, nhà máy xà bông, viện bào chế dược phẩm v.v.
Về ngoại giao thì Việt Nam Cộng Hòa trở thành một quốc gia được trên
150 các quốc gia kính nể đặt quan hệ ngoại giao hơn hẳn so với Miền Bắc
Cộng Sản. Về mặt an ninh tình báo, phải nói là hệ thống an ninh tình
báo của chính phủ TT Ngô Đình Diệm hơn hẳn chính phủ TT Nguyễn Văn
Thiệu nhiều, đến nỗi Văn Tiến Dũng và Thiếu Tướng Mười Hương phải kêu
trời rằng 95% cán bộ tình báo của ta đã bị Diệm xóa sổ, ngược lại với
“chính phủ hội đồng 1964-1967” thì cộng sản đã gần như làm chủ mạng
lưới tình báo của Miền Nam, trong đó chúng đã xóa sổ Đoàn Đặc Nhiệm
Miền Trung qua việc xử tử ông Ngô Đình Cẩn, bỏ tù ông Dương Văn Hiếu,
xóa sổ bộ phận tình báo đặc trách khu vực Miền Bắc bằng việc xử tử ông
Phan Quang Đông, qua bàn tay của Hồng Vệ Binh PGVNTN. Riêng về Phật
Giáo, đây là một tôn giáo đã được sự nâng đỡ hơn hết của chính phủ TT
Ngô Đình Diệm. Theo thống kê, khoảng gần 2000 ngôi chùa mới được xây
thêm dưới thời TT Ngô Đình Diệm. Một số chùa chiền nổi tiếng được
trùng tu bởi ngân sách quốc gia như Xá Lợi, Từ Đàm, toàn bộ khu đất
to lớn mà Chùa Vĩnh Nghiêm sở hữu thì được chính phủ tặng không. Với
những dữ kiện lịch sử như vậy, xin hỏi các ông PGVNTN và ông Thích
Quảng Độ, những thành quả đạt được cho đất nước, công lao diệt cộng của
ông và đời sống cá nhân cần kiệm liêm khiết như vậy của TT Ngô Đình
Diệm, tất cả đều không to lớn bằng cái đạo dụ số 10, không to lớn
bằng việc cắm cho được mấy cái cờ của quý vị nơi công cộng, hay sao?
Còn nữa, với một chính phủ chăm lo đời sống dân chúng, phát triển
giáo dục, đẩy mạnh kỹ nghệ hóa đất nước, ưu đãi Phật Giáo, chống cộng
triệt để và có hiệu quả tối đa mà Văn Tiến Dũng và Mười Hương
đã xác nhận, thì bằng cớ nào mà Hồng Vệ Binh PGVNTN có thể đưa ra để
chứng minh cho công luận rằng, chính phủ Đệ Nhất Cộng Hòa sai ông Đặng
Sĩ ném lựu đạn trước Đài Phát Thanh Huế để bách hại Phật Giáo? Các ông
PGVNTN đã khoác áo cà sa mà lại vu khống chuyện ác cho người ngay, thì
các ông là những người tu hành đứng đắn hay là đám quỷ dữ hiện hình?
hay là cộng sản? Vì hơn ai hết các ông đã chứa cộng sản trong Chùa Xá
Lợi, Chùa Trà Am, và vô số các chùa khác mà ngay chính Thích Đôn Hậu đã
xác nhận rằng Mậu Thân 1968 tại Huế hầu như tất cả các Chùa và các nhà
một số Phật Tử đều chứa cộng sản.
Thưa quý vị PGVNTN, tôi xin mượn tấm
lòng của một người ngoại quốc, Tổng Thống Hoa Kỳ Lyndon Johnson để ông
ta dạy cho quý vị rằng, trong tình trạng quốc gia đang có chiến tranh
với hiểm họa cộng sản như vậy thì: “The main objective was to just- win the war”. He didn’t want as much effort placed on the so-call social concerns (The years of Lyndon Johnson, page 402), cũng như TT Johnson đã từng dạy quý vị qua lá thư của Ngoại Trưởng Dean Rusk rằng “đây
không phải là thời gian để Phật Giáo đập đổ mọi thứ và làm hỏng những
nỗ lực mà đã bắt đầu có hiệu quả. Nếu họ tiếp tục việc phá hoại và vô
trách nhiệm như hiện nay, thì không những họ sẽ mất thiện cảm của công
luận và chính quyền Hoa Kỳ mà trước đây họ đã có, mà họ sẽ làm cho tình
trạng hỗn loạn và vô chính phủ trầm trọng hơn lên, trong đó sự hổ trợ
của chính phủ Hoa Kỳ cho Việt Nam sẽ không có hiệu lực nữa. Tổng Thống
Hoa Kỳ hy vọng rằng Phật Giáo sẽthể hiện điều này, rằng không những chỉ
có những người yêu nước Việt Nam quan tâm đến vận mệnh của quốc gia
mình mà những người lãnh đạo tôn giáo cũng phải biết quan tâm đến vận
mệnh của các tín đồ của họ và thể hiện những giáo lý mà họcho là họ đại
diện (Dean Rusk, 19/3/1966).
Đúng vậy, thưa quý vị họ Thích của
PGVNTN và tất cả các quý vị chính trị gia bao gồm cả quý vị đảng phái nọ
đảng phái kia và “18 nhân sĩ đại tài Caravell” rằng, điều quan
trọng nhất là phải thắng cho được cộng sản, không phải thắng cho được
Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, ông Ngô Đình Cẩn.
Những yếu tố xã hội khác mà chưa làm quý vị hài lòng, nếu quý vị là
những người biết đặt quyền lợi quốc gia lên trên hết, thì quý vị phải
biết để sang một bên, khi nào TT Ngô Đình Diệm trừ khử sạch bọn cộng sản
thì lúc đó quý vị mới đặt lại vấn đề. Đây mới thực sự là cái biết của
bậc ái quốc chính nhân quân tử. Hoặc giả, đây là đất nước dân chủ, tại
sao quý vị không đợi đến phiên mình để trổ tài kinh bang tế thế cho bàn
dân thiên hạ lác mắt, mà lại đi tuyên truyền đối lập phá hoại trong
lúc quốc gia đang có chiến tranh, vẽ chuyện đòi hỏi thực thi dân chủ
thế này thế kia, thì xin thưa, tất cả chỉ là những hành động kiếm cớ để
tranh quyền đoạt lợi của những hạng xôi thịt chỉ biết quyền lợi cá
nhân mà chẳng kể gì quyền lợi quốc gia. Trong lúc ấy thì người dân bình
thường mộc mạc thì cuộc sống của họ tại Miền Nam bấy giờ là quá hạnh
phúc rồi, chỉ mong sao chính phủ giữ vững được quốc gia khỏi kẻ thù
cộng sản để họ khỏi phải sống với cộng sản là đủ, cho dù họ có bỏ tất
cả tài sản ruộng nương họ cũng chẳng cần. Do đó, cái mà quý vị chính
trị gia đối lập đòi hỏi dưới thời TT Ngô Đình Diệm chỉ là chuyện kiếm
cớ phá hoại, mà mục đích chỉ nhắm vào quyền lợi cá nhân. Xin được lập
lại lời TT Lyndon Johnson mà cũng là nguyện vọng dân chúng Miền Nam bấy
giờ và bây giờ, lần nữa: The main objective was to just- win the war”. Not the so-call social concerns.
Thưa quý vị chính trị gia của việc
“giậu đổ thì bìm bịp leo”, quý vị luôn mở miệng kết án Tổng Thống Ngô
Đình Diệm là độc tài đàn áp đối lập, và răn dạy chính quyền đương nhiệm
về việc phải thực thi dân chủ, nhưng thật ra quý vị không biết một tí
gì về dân chủ. Nguyên tắc căn bản của dân chủ là trong giai đoạn chiến
tranh thì quyền tự do chính trị phải bị hạn chế, và mọi mệnh lệnh của
người lãnh đạo tối cao phải được tuân thủ. Vì theo luật pháp thì trách
nhiệm bảo vệ an ninh lãnh thổ và an ninh xã hội là trách nhiệm đầu tiên
của chính phủ, căn cứ vào đó, người lãnh đạo tối cao có quyền ban bố
những sắc lệnh giới hạn một số quyền tự do để phục vụ cho hai mục tiêu
tối quan trọng nói trên, còn thực thi những quyền tự do cá nhân này kia
là chuyện thứ đến. Hãy lấy ví dụ về nguyên tắc dân chủ và quyền lãnh
đạo tối cao tại quốc gia có nền dân chủ lâu đời và vững mạnh nhất thế
giới là Hoa Kỳ để thấy rằng những gì TT Ngô Đình Diệm thi hành trong
thời chiến, so cả với thời bình, là quá sức dễ dãi, là tự do quá trớn
đến độ sai lầm, khiến cho bọn bất lương và bọn cộng sản lợi dụng để
hoành hành, đã vậy ông còn bị mang tiếng oán là độc tài gia đình trị.
Trường hợp TT Roosevelt ký sắc lệnh năm 1942 cho phép bắt tất cả những
người gốc Đức hoặc Ý có tư tưởng thiên về Hitler và Mussolini. Thứ hai,
tập trung người Nhật trong các trại tập trung tại California sau khi
Nhật tấn công hạm đội Hoa Kỳ tại Trân Châu Cảng. Trường hợp thứ ba, Đại
Tướng MacAuthur, một danh tướng
rất được dân chúng Hoa Kỳ ngưỡng mộ đã bị TT Harry Truman cách chức
năm 1951 chỉ vì một phát biểu không phù hợp với chính sách của TT
Truman. Ngoài ra, TT Truman cũng ban hành luật quy định mọi hoạt động
dính líu đến cộng sản đều phải bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Tất cả
những dẫn chứng nói trên là những ví dụ tiêu biểu về tự do dân chủ và
quyền hạn của nguyên thủ quốc gia, trong thời bình cũng như thời chiến.
Xin hỏi, như vậy Tổng Thống Roosevelt và Tổng Thống Truman có phải là
độc tài đàn áp đối lập hay không? Hành động cách chức Đại Tướng
MacAuthur đã làm mất đi cơ hội tái ứng cử cho TT Truman, nhưng ông thà
mất quyền lực nhưng phải giữ đúng kỹ cương pháp trị. Người dân Hoa Kỳ
lúc đó không thích ông, nhưng họ không cho hành động của TT Truman là
độc tài đàn áp đối lập, vì dân chúng Hoa Kỳ hiểu rằng đó là luật pháp
và bổn phận của nguyên thủ quốc gia. Còn các chính trị gia các đảng
phái đối lập với TT Ngô Đình Diệm không hiểu biết về tự do dân chủ và
nguyên tắc lãnh đạo gì cả, nên lúc nào cũng thoải mái phát biểu những
điều sai trái “độc tài gia đình trị đàn áp đối lập” mà tưởng rằng mình
là những nhà bác học hoặc hiền triết về dân chủ tự do. TT Roosevelt và
TT Truman nếu sinh ra tại Miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975, thì
chắc chắn hai ông cũng sẽ bị PGVNTN và các đảng phái chính trị như Đại
Việt, Quốc Dân Đảng và “18 nhân sĩ Caravelle” Nhất Linh, Hà Thúc Ký và
những “nhân sĩ chính trị” khác tặng cho danh hiệu “độc tài gia đình trị
đàn áp đối lập” và mưu sát. Đó là điều chắc chắn, thật là may mắn cho
hai ông!
Một số người khác cho rằng giai đoạn
VNCH 1954-1963 là giai đoạn chính quyền dân chủ còn non trẻ, nên có
nhiều vấn đề chính phủ chưa thực thi dân chủ một cách đúng mức như các
nước phương tây, chúng ta nên thông cảm v.v... Thực ra, những phát biểu
này cũng thuộc loại không hiểu gì sất về dân chủ. Dân chủ không có
nghĩa là muốn làm gì thì làm, muốn treo cờ Phật Giáo nơi công cộng thì
treo, muốn dựa hơi Phật Giáo vu khống chính phủ giết người là vu khống,
muốn biểu tình đổ xăng đốt người là đốt, muốn chứa cộng sản trong chùa
rồi đặt máy phóng thanh chửi rủa chính phủ đàn áp Phật Giáo là làm,
muốn chiếm quốc lộ là chiếm, muốn bắn tướng lãnh là bắn, muốn dùng chùa
và tượng Phật làm công sự phòng thủ để bắn người là dùng, muốn chiếm
chính quyền chiếm đài phát thanh kêu gọi cứu nguy Phật Giáo là chiếm.
Đó không phải là hành xử quyền tự do dân chủ, đó là hành động phản loạn
phản quốc của phường thảo khấu man ri mọi rợ. Trong đó cũng phải nhận
thấy rằng chính phủ VNCH cũng có phần trách nhiệm trong việc làm loạn
này vì đã không thẳng tay thi hành luật pháp quốc gia với các phần tử
của PGVNTN, nên đất nước mới ra nông nổi.
Đó là tất cả những loạn lạc đã xảy ra
trên quê hương tôi bởi một đám người bất lương khoác áo thầy tu PGVNTN,
đã lợi dụng tự do dân chủ để hoạt động phá hoại an ninh chính trị Miền
Nam Việt Nam theo chỉ thị của cộng sản Hà Nội, dẫn đến thảm họa cộng
sản và diệt vong cho cả dân tộc và đất nước Việt Nam.
Cả một cuộc đời TT Ngô Đình Diệm chỉ
biết chăm lo cho dân chúng, cho quốc gia và chống lại thảm họa cộng sản
cho đến cùng. Nếu Hồng Vệ Binh PGVNTN và những Phật Tử đã coi PGVNTN
là thần thánh, hiểu được một điều rất đơn giản rằng, điều quan trọng là
phải thắng cộng sản, The main objective was to just-win the war, không phải là những thứ như “đàn áp Phật Giáo” “độc tài gia đình trị” “độc tài quân phiệt” not the so-call social concerns, thì quốc gia Việt Nam không đến nỗi bị thảm họa cộng sản như ngày hôm nay.
Với những kẻ đến hôm nay vẫn còn lập đi
lập lại rằng phong trào Phật Giáo tranh đấu là “cuộc cách mạng không
tiền khoáng hậu”, thì xin thưa, đã có quá nhiều người khinh bỉ quý vị
vì những phát biểu vô nghĩa, ngu dốt, vu khống bịa đặt này mà quý vị không biết. Quý vị hãy đọc ý kiến của một số nhân vật quan trọng sau đây để rõ:
Tổng thống Nixon: “vấn đề đàn áp tôn giáo là hoàn toàn bịa đặt, đàng sau cuộc khủng hoảng là chính trị chứ không phải tôn giáo” (No more Viet Nam). Cựu hoàng Bảo Đại “Tất
cả đang tiến tới thì chính phủ bị các nhà sư chống đối. Ông Diệm và
Nhu là người công giáo, các nhà sư bị cộng sản giật dây và mật vụ Mỹ
tiếp tay, liền bắt đầu hành động. Chính quyền phải đối phó lại, vô hình
chung đem đến cảm giác kỳ thị tôn giáo. Ai đã xúi giục họ gây loạn,
ai? Họ ở đâu tới? Làm sao biết được họ từ Hà Nội vào hay từ Bắc kinh tới? (Con rồng Việt Nam).
Theo sử gia nổi tiếng về vấn đề chiến
tranh Việt Nam Mark Moyer, một người tốt nghiệp B.A. với mức tối cao ưu
summa cum laude tại Đại Học Harvard và tiến sĩ sử học Đại Học
Cambridge, giáo sư Đại Học Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ (Marine Corps
University), hiện là cố vấn độc lập về an ninh quốc gia, thì Cộng Sản
đã điều khiển phong trào Phật Giáo để đấu tranh chính trị lật đổ chính
phủ VNCH (Triumph Forsaken).
Trở lại vấn đề đưa ma ông Thích Hộ
Giác, một kẻ dưới áp lực của Thích Trí Quang, đã được đưa vào nắm Nha
Tuyên Úy Phật Giáo, phó cho ngài Tâm Giác. Vào quân đội nhưng y lại
không giữ kỹ cương và tư cách quân đội, vẫn quan hệ tình ái bừa bãi và
dùng quân đội để kiếm chác tiền bạc làm mang tiếng cho quân đội, đến
nỗi phải bị quân đội và ngài Thích Tâm Giác trả lại dân sự. Với hạnh
kiểm bất chính như vậy, với tất cả những lời nguyền rủa thề loại trừ
chính phủ VNCH đến giọt máu và hơi thở cuối cùng như vậy, với việc đồng
bọn của ông ta không chấp nhận chính phủ VNCH là chính phủ của “chúng
tôi”, “chúng tôi” muốn bắt tay với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, điều
đình với Bắc Việt và Mỹ phải về nước, muốn Diệm phải chết, muốn Kỳ phải
xuống, muốn Thiệu phải đi, đã ra tận Hàng Xanh đón quân cộng sản vào
xâm lăng Miền Nam, đã viết chứng từ ủng hộ việc cộng sản chiếm quốc
gia, đã ăn mừng sinh nhật Hồ Chí Minh trong chùa như vậy v.v., thiết
tưởng đã quá đủ để biết ai quốc gia ai cộng sản, ai yêu nước, ai bất
lương, ai phá hoại. Thế nhưng qua đám ma ông Thích Hộ Giác, một thành
viên chủ chốt trong đám phản quốc PGVNTN, thì thấy vẫn còn có những
người khoác áo người Việt Quốc Gia ở hải ngoại này đến chào tiễn biệt
một kẻ đã phá hoại trầm trọng quốc gia VNCH, và kỳ lạ thay trong đám
này lại còn có những người khoác bộ binh phục của người lính VNCH!
260 ngàn người lính VNCH đã nằm xuống, 5
vị tướng và những sĩ quan binh sĩ đã tuẩn tiết vì quốc gia ngày 30
tháng 4, có lẽ đối với những người khoác áo quân đội VNCH trước quan
tài Thích Hộ Giác không là cái gì hết. Bởi lẽ, nếu họ biết tôn trọng
màu cờ sắc áo của họ và danh dự của những đồng đội đã nằm xuống thì họ
sẽ chẳng bao giờ có thể đứng trước quan tài của Thích Hộ Giác và đứng
chung hàng ngũ với đám thầy tu bất lương PGVNTN, những kẻ đã phá hoại
quốc gia VNCH đến tận cùng bàn số như vậy. Không biết đến bao giờ thì
người Việt mới biết suy nghĩ và đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi tôn giáo?
Những ai đã từng khoác áo của QLVNCH
phải nhớ rằng, nếu ngày ấy không có việc mưu sát một cách dã man Tổng
Tư Lệnh Quân Đội Ngô Đình Diệm từ Phong Trào Phật Giáo Tranh Đấu của
đám Hồng Vệ Binh PGVNTN mà ra, thì chắc chắn dưới sự lèo lái của Tổng
Tư Lệnh Ngô Đình Diệm, Quân Đội VNCH đã được hiện đại hóa theo tiêu
chuẩn của quân đội Hoa Kỳ và đã hoàn toàn làm chủ cuộc chiến vào cuối
năm 1965. Đó là kế hoạch hàng đầu của TT Ngô Đình Diệm, mà đã được thẩm
định bởi Bộ Trưởng Quốc Phòng Mcnamara và Đại tướng Maxell Taylor và
được phê chuẩn bởi TT John F. Kennedy ngày 2 tháng 10 năm 1963. Dương
Văn Minh, với sự đồng lõa của nhóm Henry Cabot Lodge và đám PGVNTN với
Thích Trí Quang, đã ra lệnh cho tay chân giết hại Tổng Thống và bào đệ
một cách dã man không khác gì bọn cường sơn thảo khấu, trong khi ông đã
điện thoại gọi chúng đến để giao lại đất nước cho chúng và chấp nhận
ra đi. Chúng lừa ông lên xe tăng bít bùng để bắn và đâm Tổng Thống và
ông Cố Vấn cho đến chết, sau đó chúng giết luôn sát thủ Nguyễn Văn
Nhung để bịt miệng. Giết hai anh em Tổng Thống không chưa đủ, còn một
người em út là Ngô Đình Cẩn Hồng Vệ Binh PGVNTN cũng giết nốt. Hồng Vệ
Binh PGVNTN không thể chối rằng chúng đã không giết ông Ngô Đình Cẩn.
Ngày Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị thảm sát cũng là ngày PGVNTN mở tiệc
ăn mừng, tiếp tục giương cao ngọn cờ Phật Giáo, thừa thắng xông tới
quyết triệt hạ luôn các chính quyền “Diệm mà không Diệm” còn lại, đến
giọt máu và hơi thở cuối cùng. Sự hăng say khát máu này biểu hiện qua
nhiều hành động của PGVNTN, trong đó có việc Thích Quảng Độ tuyên
truyền với công luận Mỹ trên tờ New York Times rằng “chúng tôi không
chấp nhận chính phủ VNCH là chính phủ của chúng tôi, chúng tôi muốn bắt
tay với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và điều đình với Bắc Việt, và Mỹ
phải rút quân.”
PGVNTN và Thích Quảng Độ muốn
bắt tay với MTGPMN, điều đình với Việt Cộng và đuổi Mỹ về nước, hành
động này là gì nếu không phải là hành động PGVNTN công khai bán nước cho cộng sản?
Có khác nào hành động của Phạm Văn Đồng viết giấy bán nước cho đồng
chí Tổng Lý Chu Ân Lai không? Nỗi hân hoan bán nước cho cộng sản của
PGVNTN là một việc làm không thể nào chối cãi. Những hành động quyết
tâm triệt hạ chính phủ VNCH bằng lời nói, bằng việc sách động đám đông,
bằng việc biểu tình có kèm đốt sống người, và bằng việc tuyên truyền
trong công luận thế giới và công luận Hoa Kỳ rằng chính phủ VNCH là một
chính phủ phi nhân phi pháp (nếu chúng tôi được đi bầu thì chính phủ này không tồn tại đến một ngày, Thích Quảng Độ, Thích Trí Quang, ni cô Chân Không 1967)
và sau 1975 thì vui mừng việc Bắc Việt vào tiếp thu Miền Nam, đến năm
1977 PGVNTN vẫn còn tâm đầu ý hợp với cộng sản, biểu hiện qua nét mặt
sung sướng của Thích Quảng Độ được Mai Chí Thọ tiếp chuyện (hình chụp
năm 1977, không phải năm 1990 như PGVNTN bẻ cong sự thật) là những hành
động khẳng định rằng, không nghi ngờ gì cả, chính PGVNTN đã là công cụ
đuợc Hà Nội tổ chức và điều khiển trước 1975. Chúng tôi sẽ có một bài
viết riêng về ai là cha đẻ của PGVNTN sau. Hãy xét lý lịch một số “cán
bộ” của PGVNTN mà đồng chí Đinh Văn Nam tức Thích Minh Châu là tiêu biểu
nhất, để chúng ta hình dung được cách mà cộng sản hình thành, tổ chức
và điều khiển PGVNTN ra sao và cách cài cán bộ vào tổ chức này như thế
nào. Về Đinh Văn Nam, Đinh Văn Nam bắt đầu hoạt động cộng sản chung với
BS Lê Đình Thám, được Lê Đình Thám giao nhiệm vụ là Phó Đoàn Thanh
Niên Phật Học. Năm 1943 thì Đinh Văn Nam được kết nạp Đảng chung với Võ
Đình Cường. Năm 1948 Võ Đình Cường được Lê Đình Thám giao phụ trách về
Phật Tử còn Đinh Văn Nam phụ trách tăng sĩ. Do vậy năm 1948 Đinh Văn
Nam phải gia nhập vào đạo quân tăng lữ, y phải đổi lốt bằng cách xin đi
tu tại Chùa Tường Vân, năm 1949 chính thức được quy y làm tăng sĩ, lấy
tên là Thích Minh Châu. Năm 1952, Đinh Văn Nam được cử sang Sri-lanka
rồi sang Ấn Độ. Biết rõ Thích Minh Châu chính là đảng viên cộng sản
Đinh Văn Nam, nhưng dưới áp lực của tổ chức PGVNTN, thì chính phủ khiếp
nhược Nguyễn Khánh phải để cộng sản Đinh Văn Nam vào Miền Nam một cách
hợp pháp. Thích Minh Châu/Đinh Văn Nam sau đó điều khiển PGVNTN, y mở
trường Đại Học Vạn Hạnh để làm một ổ chứa cộng sản và hoạt động cộng
sản, kèm trốn lính. Thích Quảng Độ cũng có một lý lịch khá giống Thích
Minh Châu. Thích Quảng Độ ở Hà Nội, qua Sri-Lanka năm 1951 và qua Ấn Độ
năm 1953 và vào Miền Nam năm 1958.
Trở lại vấn đề PGVNTN, bằng tất cả
những hành động phản quốc nói trên như vậy, nhưng đến nay PGVNTN vẫn
không biết hối cãi, vẫn một mực chửi bới cố TT Ngô Đình Diệm, gọi việc
giết TT Ngô Đình Diệm là anh hùng, gọi việc trực diện đối đầu để tiêu
diệt chính phủ VNCH là cuộc cách mạng không tiền khoáng hậu chống đàn
áp Phật Giáo, sĩ nhục các chính phủ VNCH và QL VNCH là lính đánh thuê
cho Mỹ, không làm gì để bảo vệ Miền Nam. Bằng chứng của những hoạt động
phá hoại và hoạt động cộng sản đã quá rõ, có giỏi chối như Goebells đi
chăng nữa, thì Dương Văn Minh, nhóm Henry Cabot Lodge và Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất bắt buộc phải chịu trách nhiệm trước tòa án lương
tâm và tòa án lịch sử về cái chết của Tổng Tư Lệnh quân đội Ngô Đình
Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, ông Ngô Đình Cẩn và ông Phan Quang Đông
và đặc biệt là phải chịu trách nhiệm về việc đã phá hoại chương trình
Việt Nam Hóa và Hiện Đại Hóa Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1963-1965
mà chính phủ TT Ngô Đình Diệm đã hoạch định để đối phó với cộng sản.
Dựng đứng chuyện TT Ngô Đình Diệm đàn
áp Phật Giáo, Hồng Vệ Binh PGVNTN đã phá hoại một cơ may của đất nước
để chiến thắng cộng sản, phá hoại tương lai và tiềm năng của Quân Đội
VNCH trong việc hiện đại hóa và Việt Nam Hóa chiến tranh. Như vậy,
thiết nghĩ những kẻ nào còn có thể đứng chung hàng ngũ với PGVNTN, quả
thật những kẻ đó chẳng khác nào bọn thương nữ bất tri vong quốc hận.
Đối với những hạng người này thì Quốc Gia hay Dân Tộc, tất cả đều không
bằng gót giày của những tên đầu trọc bỉ ổi bất lương, ngay cả khi biết
chúng làm cộng sản thì cũng vẫn nể sợ chúng.
Người Việt Quốc Gia nào có thể đứng
chung hàng ngũ với PGVNTN, kẻ phá hoại quốc gia, nuôi ong tay áo, đâm
sau lưng chính phủ, đâm sau lưng quân đội và dân chúng Miền Nam?
Người Việt Quốc Gia nào có thể phân ưu
và đưa đám Thích Hộ Giác, một tu sĩ nhưng không nổi danh về nhân đức mà
lại nổi danh về tài sách động phản quốc và về sex, ngay cả với tuổi
đời đã trên 70 y vẫn còn dụ dỗ xâm phạm tình dục những bé gái và các
phụ nữ đến chùa mà hồ sơ dày cộm của tòa án về vấn đề sách nhiễu tình
dục, dụ dỗ nữ tín đồ bất kể có gia đình hay không của y và Thích Giác
Đẳng chúng tôi đang nắm trong tay, tất nhiên chúng tôi sẽ đưa việc này
ra công luận trong một ngày rất gần. Với những phẩm hạnh bỉ ổi như vậy,
mà vẫn có những kẻ dám dùng màu cờ sắc áo của Quân Đội VNCH để đứng
trước quan tài Thích Hộ Giác, một kẻ đã không biết bao nhiêu lần từ
đứng trước đám đông hàng chục ngàn người diễn thuyết về cái gọi là
những “kẻ thù” của Phật Giáo, về cái gọi là “Diệm mà không Diệm” thề
triệt hạ tất cả các “chính phủ VNCH Diệm mà không Diệm” đến giọt máu và
hơi thở cuối cùng, kẻ mà Tổng Thống Mỹ phải lên tiếng yêu cầu chấm dứt
phá hoại đất nước của mình, chấm dứt việc đẩy quốc gia của mình vào
tình trạng hỗn loạn vô chính phủ.
Trên đời này, điều nguy hiểm nhất cho
con người đó là việc không biết đâu là trắng đâu là đen, đâu là bạn đâu
là thù. Đối với quốc gia thì việc nhận diện kẻ thù là quan trọng nhất.
Đối với vấn đề Việt Nam, kẻ thù không phải chỉ có ở bên kia vĩ tuyến
17 mang dép râu đội nón cối, mà kẻ thù còn ở ngay trong hàng ngũ của
chúng ta với muôn hình vạn trạng, và loại kẻ thù này nguy hại hơn kẻ
thù bên kia vĩ tuyến 17 bội phần. Kẻ thù trong hàng ngũ chúng ta bao
gồm những kẻ ruột rất đỏ nhưng vỏ rất vàng, thí dụ như Nguyễn Hữu Hạnh,
Phạm Xuân Ẩn, Phạm Ngọc Thảo, những tên cộng sản hành nghề thầy tu như
Thích Minh Châu, Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, Huỳnh Liên, Thích
Thiện Hoa, Thích Như Ý, Thích Chánh Trực và tay chân “Phật Tử” của
chúng như Võ Đình Cường, Võ Văn Ái, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc
Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Lê Văn Hảo, hay là những tên thầy tu mở
nhiều nạc ít, chuyên nghề phá hoại chính phủ Miền Nam như Thích Nhất
Hạnh, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thích Hộ Giác, Thích Thiện
Minh. Loại thứ ba này nhiều vô số kể và là loại có tác dụng phá hoại
trầm trọng và nguy hiểm nhất. Cộng sản đã cài cán bộ để điều khiển đám
thầy tu loại này, và Miền Nam đã khốn đốn vì đám này hơn bao giờ hết,
bị rơi vào tình trạng hỗn loạn vô chính phủ trong vòng 3 năm, trong đó
đám thầy tu đã chiếm chính quyền Miền Trung, chiếm quốc lội, chiếm Đài
Phát Thanh, huấn luyện võ trang cho Phật Tử để chống lại quân đội và
Cảnh Sát Quốc Gia, bắn cả máy bay của các tướng lãnh, dùng chùa chiền
và tượng Phật làm căn cứ địa để chống chính quyền và giết người vô tội.
Đâu đó chung quanh sân chùa Từ Đàm, Chùa Tường Vân và một số chùa ở Đà
Nẳng đã là những tử địa của hàng loạt người vô tội.
Quả thật khó tin rằng đã có những người
Việt Quốc Gia còn đến đưa ma Thích Hộ Giác, đặc biệt là những người
dám sử dụng màu áo QLVNCH để chào kính tên bẩn thỉu và phá hoại tày
trời này. Màu áo lính trận là màu áo tượng trưng cho 260 ngàn quân dân
cán chính VNCH đã nằm xuống để bảo vệ đất nước khỏi bàn tay cộng sản.
Mầu áo này còn đại diện cho khí phách của 5 vị tướng QLVNCH, Đại Tá Hồ
Ngọc Cẩn và biết bao nhiêu sĩ quan binh sĩ và cảnh sát quốc gia đã tuẩn
tiết ngày 30 tháng 4 năm 1975. Những ai khi khoác lên người màu áo
trận năm xưa phải nhớ rằng, đó chính là quý vị đã khoác lên danh dự của
cá nhân quý vị và danh dự của QLVNCH. Luận anh hùng bất phân thắng
bại, đó là chân lý, Quân Lực VNCH thua trên mặt trận súng đạn vì không
còn vũ khí đạn dược, nhưng Quân Lực VNCH đã thắng trên mặt trận lương
tâm, chính nghĩa, bổn phận công dân và lòng ái quốc. Lịch sử luôn đứng
về phía chính nghĩa, lịch sử không bao giờ đứng về phía bọn cộng sản
tham tàn bán nước, cũng như sẽ không bao giờ đứng về phía những tên lưu
manh khoác áo thầy tu để hoạt động chính trị như đám Phật Giáo Việt
Nam Thống Nhất và chiêu bài Đàn Áp Phật Giáo của nó.
Tu hành gì những kẻ mặc áo cà sa của PGVNTN?
Lời cuối, những người của chính nghĩa
còn sót lại sau cuộc chiến Quốc Cộng đau đớn này, xin vui lòng kính
trọng bộ đồng phục mà lịch sử Việt Nam đã kính trọng, đó là bộ đồng
phục của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Kính dâng bài viết này lên tất cả những
anh hùng tử sĩ đã chết để bảo vệ quê hương khỏi bàn tay cộng sản, ngũ
tướng và các sĩ quan binh sĩ khác đã chết theo thành ngày 30 tháng 4
năm 1975, và đặc biệt là Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Ông Cố Vấn Ngô
Đình Nhu, Ông trùm tình báo Miền Trung Ngô Đình Cẩn, ông trùm tình báo
Miền Bắc Phan Quang Đông và biết bao cuộc đời đã phải chịu oan khiên vì
Phong Trào Phật Giáo Tranh Đấu của Hồng Vệ Binh Phật Giáo Việt Nam
Thống Nhất.
Đa tạ.
Hoa Kỳ những ngày cuối năm.
23/12/2012
Trần Minh
ĐƯA MA THÍCH HỘ GIÁC @ onthenet
0 comments:
Post a Comment