Nhắc đến 3 chữ Thích Hộ Giác thì ký ức của những người Miền Nam đã sống qua giai đoạn 1963-1966 không khỏi nhớ lại một khoảng thời gian vô cùng đen tối của đất nước, trong đó quan hệ lãnh đạo quốc gia đã bị đạo binh chính trị mặc áo cà sa của PGVNTN phá hoại tan nát. Hình ảnh và tài liệu về ông Thích Hộ Giác và rất nhiều các ông họ Thích khác, lấy danh nghĩa Phật Giáo tập họp hàng chục ngàn người, hiên ngang thề dẹp sạch chính quyền VNCH cho đến giọt máu và hơi thở cuối cùng, còn sờ sờ ra đó, thì có thể nào chúng ta có thể chấp nhận tổ chức PGVNTN như một tổ chức tôn giáo thuần túy không dính dáng và làm lợi gì cho Bắc Việt. Càng xót xa cho vận nước phải nằm trong tay bọn cộng sản bao nhiêu, thì Người Việt Quốc Gia lại càng nhớ và càng phẩn nộ những chính trị gia lưu manh của một thời đã gây biết bao nhiểu nhương oan trái cho đất nước bấy nhiêu.
Đánh giá lại những nhân vật chính trị và những phong trào chính trị của xã hội Miền Nam trong hơn hai mươi năm 1954-1975, phải nói rằng tất cả nhóm tu sĩ lãnh đạo của PGVNTN đều nổi tiếng khắp thế giới vì đổ xăng đốt người để mưu đồ chính trị, nhằm thôn tính chính phủ VNCH qua hai phong trào “Phật Giáo tranh đấu” và “Bàn thờ Phật xuống đường”. Nhắc đến tên Thích Hộ Giác, người ta cũng nhớ ngay đến những kẻ đồng hành sát máu với Thích Hộ Giác như Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thích Quảng Liên, Huỳnh Liên, Thích Nhất Hạnh, Thích Thiện Siêu… Ròng rã suốt hai mươi năm chiến tranh khói lửa để bảo vệ quốc gia chống lại cộng sản, thì chỉ thấy quân dân cán chính VNCH phải đổ xương đổ máu để cùng với chính quyền chống lại cộng sản. Trong khi đó thì cũng trên cùng một mảnh đất Miền Nam, PGVNTN cũng đã ra sức tận diệt bộ phận quan trọng nhất của quốc gia Việt Nam Cộng Hòa, đó là bộ máy chính quyền quốc gia, đồng thời kêu gào bắt tay với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, điều đình với Bắc Việt và Mỹ phải cút về nước.
Bức điện tín, ngày 16-3-1966, từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ gởi Đại Sứ Quán Hoa Kỳ tại Việt Nam cho biết Thích Hộ Giác từng thề nguyền cuộc đấu tranh Phật Tử sẽ “cho đến giọt máu cuối cùng” nhằm xóa đi chế độ hiện hành.
Tài sản hai mươi năm mà PGVNTN đã tặng cho Miền Nam là những khẩu hiệu “Độc
tài gia đình trị” “Độc tài quân phiệt” “Đàn áp Phật Giáo”, “Diệm mà
không Diệm” “Phật Giáo Tranh Đấu”, “Bàn Thờ Phật Xuống Đuờng”. Thay
vì tụng kinh niệm Phật, chấn chỉnh Phật Giáo, làm từ thiện cứu nhân độ
thế, giúp vua trị nước như các danh sư đời Lý đời Trần như sư Vạn Hạnh,
sư Khuông Việt, thì PGVNTN chỉ tụng đêm tụng ngày các khẩu hiệu “độc tài đàn áp Phật Giáo”
và kích động Phật Tử sống chết với chính phủ VNCH, vì Phật Giáo đang bị
lâm nguy! Sau khi chính quyền VNCH bị bức tử rồi, có nghĩa là khi nước
Việt Nam Cộng Hòa cũng đã không còn nữa, thì miệng lưỡi của những kẻ tu
hành này vẫn cứ sặc sụa mùi đấu tố như vậy. Cứ như thế năm này tháng
kia, gần 60 năm rồi PGVNTN vẫn không biết xấu hổ, lưu truyền những khẩu
hiệu sát máu này cho các thế hệ thầy tu và Phật Tử kế tiếp. Trong hai
mươi năm đổ xương máu để bảo vệ Miền Nam khỏi tay cộng sản, thì chỉ có
quân dân VNCH đoàn kết ủng hộ chính phủ VNCH, còn PGVNTN thì cấu kết với
cộng sản làm việc chống lại chính phủ. Thành quả của PGVNTN là Miền Nam
đã có không biết cơ man nào là các cuộc biểu tình đốt sống người với
các khẩu hiệu “độc tài đàn áp Phật Giáo”. Đối với PGVNTN, chính phủ nào
của VNCH cũng là chính phủ độc tài quân phiệt, gia đình trị đàn áp Phật
Giáo, trừ chính phủ cộng sản. Trước 1975, chưa bao giờ chúng ta thấy
PGVNTN có mặt trong các cuộc biểu tình chống cộng sản, kể cả cuộc biểu
tình của toàn quân toàn dân Miền Nam chống Trung Cộng xâm lăng Hoàng Sa
cuối tháng 1 năm 1974 cũng không thấy bóng dáng PGVNTN ở đâu. Bỗng nhiên
sau hơn 38 năm lại nghe ông Thích Quảng Độ lên tiếng
về vấn đề Hoàng Sa? Thế là thế nào? Tại sao lại có sự “yêu nước đột
xuất” như thế? Sự lên tiếng muộn này có nghĩa lý gì, nếu không ngoài
nghĩa lý mưu cầu một cái gì đó? Một tổ chức và một người mà kể từ năm
1962 đến nay, gần 60 năm rồi mà cửa miệng vẫn còn chửi bới tất cả các
chính phủ VNCH từ TT Ngô Đình Diệm đến Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh,
Trần Văn Hương, Phan Khắc Sửu, Phan Huy Quát, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn
Thiệu, đều là bọn độc tài gia đình trị, độc tài quân phiệtđàn áp Phật
Giáo, thề rằng “chúng tôi” muốn bắt tay với Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam và điều đình với Bắc Việt và Mỹ phải rút quân, nếu chúng tôi
được bầu cử tự do thì chính phủ này không tồn tại đến một ngày”.
Bây giờ thì ông Thích Quảng Độ lại than thở bị Việt Cộng quản thúc bị
Việt Cộng đàn áp, bây giờ thì ông Thích Quảng Độ lại lên tiếng chống lại
Bắc Việt và đòi Hoàng Sa, một người mà năm 1967 đòi Mỹ phải cút về nước
thì năm 2011 lại xin Tổng Thống Mỹ cho job cai quản vùng Châu Á Thái
Bình Dương và beyond, một người tu hành mà dám mở miệng láo khoét rằng
Miền Nam không có bầu cử tự do, nếu ông ta và PGVNTN của ông ta được bầu
cử tự do thì chính quyền VNCH không tồn tại đến một ngày, thì liệu tất
cả những NVQG có thể nào tin được những thành phần như vậy hay không?
Hãy nhìn cái Thanh Minh Thiện Viện lộng lẫy sang trọng và sự tụ dođi lại
của ông Thích Quảng Độ và sự “tự do thăm viếng ngài, tự do cho tiền
ngài và tự do vui vẻ bỏ tiền vào túi liền lập tức của ngài” mà một số
đồng bào Phật Tử của Chùa Điều Ngự về nước thăm viếng “ngài” cho biết sự
tình và cũng từ đó lòng hẹn lòng một đi không trở lại, thì chúng ta
chẳng lẽ lại không có câu trả lời về chuyện tại sao ngài Quảng Độ chống
cộng và chống cộng để làm gì chăng?Nhắc đến tên các ông họ Thích của PGVNTN, người ta nhớ ngay đến các cảnh biểu tình đấu tố “Cần Lao Công Giáo” “Mật Vụ Nhu Diệm” “đàn áp Phật Giáo” “Độc tài gia đình trị” “đàn áp Phật Giáo” “độc tài quân phiệt” “Mỹ phải cút về nước” “yêu cầu phải có hòa bình tức khắc” “Mỹ-Diệm Mỹ-Thiệu” “Diệm mà không Diệm”. Đồng tác giả của những mỹ từ này không ai khác chính là PGVNTN và cộng sản Hà Nội. Và không phải hai tác giả này chỉdành riêng những mỹ từ đấu tố này cho TT Ngô Đình Diệm, mà tất cả các vị chính trị gia đã từng lãnh đạo Miền Nam đều được PGVNTN ưu ái tặng cho những tội trạng như vậy. Ngoài những từ ngữ sặc mùi đấu tố nói trên, “Phong Trào Phật Giáo Tranh Đấu”và “Bàn Thờ Phật Xuống Đường” làm cho người Miền Nam không khỏi rùng mình liên tưởng đến những đoàn quân Hồng Vệ Binh của Mao Chủ Tịch, quan thầy vĩ đại của Hồ Chủ Tịch và Đảng Cộng Sản Việt Nam. Cũng như người Miền Nam cũng không thể nào được quên bản nhạc mà Hà Nội sáng tác và phát sóng vào Nam mỗi ngày để ủng hộ cuộc cách mạng không tiền khoáng hậu của PGVNTN như sau “Xuốngđường! xuống đường! đập tan mọi xích xiềng, tiến lên dành chính quyền,… dành lấy chính quyền về tay nhân dân”.
Sau vấn đề sụp đổ một cách thê thảm của nền ĐệNhất Cộng Hòa bởi việc lén lút ám sát TT Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu của Dương Văn Minh, thì thanh thế và quyền lực của tổ chức PGVNTN lên nhưvũ bão. Để tiếp tục duy trì lợi thế này, thì Hà Nội đã chỉ thị cho những tên cộng sản chóp bu của PGVNTN tiếp tục tổ chức biểu tình và đốt sống người thêm nữa. Mục đích của việc tiếp tục biểu tình đốt sống người với khẩu hiệu “Diệm mà không Diệm”sau khi TT Ngô Đình Diệm đã chết rồi là gì? Chẳng qua là để làm suy sụp tất cảcác chính quyền VNCH tiếp theo, mà TT Ngô Đình Diệm chỉ là một mục tiêu đầu tiên. Trước việc ám sát tàn bạo dã man TT Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu như vậy, thì tất cả các viên chức lãnh đạo quốc gia tiếp theo đều run sợtrước những cảnh biểu tình đốt sống người của PGVNTN. PGVNTN đã áp lực tất cả các chính phủ VNCH phải thỏa mãn tất cả những gì họ muốn, đặc biệt là yêu sách đưa người của họ vào các chức vụ trọng yếu của chính quyền như Bộ Trưởng, Tỉnh Trưởng, Trưởng Ty, và đưa tất cả những ai đã làm việc dưới chính phủ TT Ngô Đình Diệm hoặc phải vào tù, hoặc phải mất chức với tội danh “made in cải cách ruộng đất Cần Lao Công Giáo”, “Mật Vụ Nhu Diệm” đàn áp Phật Giáo”. Cứnhư thế, chính phủ VNCH ngày càng suy yếu vì không còn người có tài để nắm những chức vụ quan trọng trong guồng máy quốc gia, mà thay vào đó là cán bộ cộng sản hoặc những kẻ bất tài tay chân của PGVNTN. Còn những người có khả năng và thức thời thì họ rút vào bóng tối, vì họ biết rằng, ngồi trên ghế trưởng ty, trưởng phòng, bộ trưởng hôm nay nhưng ngày mai có thể đi tù vì tội “Cần Lao Công Giáo”hoặc tội “Mật Vụ Nhu Diệm đàn áp Phật Giáo”. Khi chính phủ thỏa mãn các yêu sách này của họ xong thì Hồng Vệ Binh PGVNTN lại đưa ra các yêu sách khác. Cứnhư vậy, toàn xã hội sống trong nổi lo âu khiếp hãi của những đợt thanh trừng và biểu tình đốt sống người của Hồng Vệ Binh còn chính phủ thì bị tê liệt hoàn toàn. Quả thật Hà Nội đã rất giỏi và rất thành công trong việc sử dụng Hồng VệBinh PGVNTN để triệt hạ Miền Nam. Hồng Vệ Binh PGVNTN đã hoàn toàn làm chủ tình thế làm chủ đất nước, các chính quyền hậu TT Ngô Đình Diệm lần lượt tạ thế một cách nhanh chóng, 15 lần thay đổi nội các trong vòng 1 năm ruỡi! Quý vị hãy tra cứu lịch sử thế giới thử xem đã có quốc gia nào trên thế giới lâm vào tình trạng tồi tệ như thế chưa, ngoài Miền Nam ViệtNamgiai đoạn 1963-1966? Sự hoành hành Miền Nam của Hồng Vệ Binh PGVNTN phải nói là vô cùng khủng khiếp. Tình trạng Miền Nam lúc đó có thể nói là hỗn loạn và vô chính phủ, quân đội yếu kém chưa từng thấy vì không có lãnh đạo có bản lãnh đểtrừng trị bọn Hồng Vệ Binh PGVNTN, như bức điện tín của Bộ Trưởng Ngoại Giao Dean Rusk gởi cho Đại Sứ Maxell Taylor đã khẳng định. Không một viên chức trung cấp hay cao cấp nào trong bất cứ lãnh vực quân sự, chính trị, hay quản trị, dám quyết định một điều gì, ngay cả khi được ra lệnh họ cũng không thèm thi hành. Vì lẽ thi hành chỉ thị hôm nay thì ngày mai có thể ngồi tù vì tội đã thực thi chỉthị đó, vì cái tội “Cần Lao Công Giáo” “Mật vụ Nhu Diệm” có thể được Hồng VệBinh PGVNTN ban cho bất cứ lúc nào, còn tòa án lúc đó cũng là Tòa Án Nhân Dân thực hiện theo chỉ thị của PGVNTN đại diện bởi Thích Trí Quang, cháu ngoan của Bác Hồ. Trong khi PGVNTN hoành hành đất nước như vậy, thì hàng hàng lớp lớp thanh niên vẫn lặng lẽ tình nguyện vào quân đội, lao thân vào trận địa hy sinh cuộc đời tuổi trẻ và mạng sống nơi chiến trường quyết bảo vệ chính quyền VNCH và Miền Nam đến cùng. Những thế hệ thanh niên này hoàn toàn không biết TT Hoa Kỳ Lyndon Johnson đã suy nghĩ thế nào về tình trạng Việt Nam đang bị bọn thảo khấu Hồng Vệ Binh PGVNTN dày xéo như vậy, nhưng hành động của họ giống hệt suy nghĩ của TT Johnson, đó là The main objective was to just- win the war. Not much effort placed on the so-call social concerns. (The year of Lyndon Johson, page 402)
Đúng như vậy, những thế hệ thanh niên Miền Nam trưởng thành sau năm 1954 cũng cùng một suy nghĩ như TT Johson. Họ chỉ muốn mỗi một điều “Đó là phải thắng cho được cộng sản cái đã, còn những nhu cầu khác vui lòng gác qua một bên”. Nhưng Hồng Vệ Binh PGVNTN và các chính khách và đảng phái khác như Đại Việt, Quốc Dân Đảng, và “18 Nhân Sĩ Chính Khách Caravelle” không nghĩ như vậy. Họ không vì quyền lợi tối thượng của quốc gia là trên hết, mà muốn được chia quyền chia ghế ngay lập tức. Vì vậy, các chính khách này cần phải có lý do để đối đầu với Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Lý đó là gì? Hồng Vệ Binh Phật Giáo thì đã có lý do “độc tài Nhu Diệm đàn áp Phật Giáo” còn các chính khách và đảng phái chính trị thì rất may mắn, tự nhiên trời sinh ông cố vấn tài ba Ngô Đình Nhu lại là em ruột TT Ngô Đình Diệm, nên các chính khách còn chần chờ gì mà không vớt ngay phương châm “độc tài gia đình trị Nhu Diệm”. Trong khi cùng một thời điểm ở bên kia nữa vòng trái đất, em ruột của TT John F Kennedy là Robert Kennedy làm bộ trưởng tưpháp thì không có gì là độc tài gia đình trị cả, và gần đây tại Ba Lan, anh làm Tổng Thống em làm thủ tướng thì dân chúng cũng không hề hô hoán là độc tài gia đình trị. Phân tích ra đểchúng ta thấy rõ tất cả những thủ phạm trong việc sụp đổ nền chính trị tốt nhất của Miền Nam và vị lãnh đạo tốt nhất mà chúng ta có được. Vì tương lai của tổquốc Việt Nam, hơn một triệu thanh niên Miền Nam đã lên đường tòng quân nhập ngũ, 260 ngàn người nằm xuống, số còn lại tiếp tục giữ vững tay súng, trãi cuộcđời thanh niên tuổi trẻ nơi rừng sâu núi thẳm. Trong khi đó thì tại hậu phương, những chính khách tham quyền bất đức bất tài chẳng hạn một số thành viên của Đại Việt, Quốc Dân Đảng, Chính Khách Caravelle, cấu kết với nhau trong cái gọi là đối lập chống Độc Tài Gia Đình Trị, còn những tên lưu manh họ Thích thì cấu kết với nhau trong tổ chức chính trị gọi là PGVNTN. Cả hai thế lực chính trị này lại hợp đồng với nhau, nhân danh cái gọi là độc tài gia đình trị, và nhân danh “Phật Giáo bị đàn áp” để phá hoại quan hệ lãnh đạo của TT Ngô Đình Diệm. Thế lực của Hồng Vệ Binh PGVNTN mạnh hơn thế lực kia rất nhiều vì có tín đồ và có cộng sản hổ trợ mạnh, còn thế lực đảng phái chính trị thì yếu hơn, không làm nên cơm cháo gì, nên chỉ giữ vai trò phụ họa kéo màn là chính. Vì vậy, công bằng mà nói, cả hai thế lực chính trị thế quyền đối lập và thế lực thần quyền PGVNTN đều phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về sự sụp đổ của nền đệ nhất cộng hòa, đưađến thảm họa cộng sản cho Việt Nam và ngay cả cái chết của TT Ngô Đình Diệm. Dĩ nhiên, trong cái chết của TT Ngô Đình Diệm, ông cố vấn Ngô Đình Nhu và những người vô tội khác thì trách nhiệm của bọn Hồng Vệ Binh PGVNTN và đám tướng lãnh phản quốc là chính.
Thời gian gần ba năm sau khi TT Ngô Đình Diệm bị sát hại, là thời kỳ vàng son cực thịnh của Hồng Vệ Binh PGVNTN. Tiêu biểu cho sự vàng son này là câu nói để đời của PGVNTN bởi Thích Trí Quang với Đại Sứ Cabot Lodge như sau: “Các ông muốn kéo Kỳ xuống thì các ông sẽ đưa ai lên?- Chúng tôi kéo Kỳ xuống rồi chúng tôi sẽ đưa Kỳ lên!” Bằng các cuộc biểu tình hung bạo, có kèm đổ xăng đốt sống để kích thích tính bạo động, Hồng Vệ Binh PGVNTN đã lèo lái con thuyền quốc gia làm đã thay đổi 15 nội các chính phủ trong vòng chỉ có 1 năm rưỡi. Tất cả các chính phủthời hậu TT Ngô Đình Diệm đều là Phật Tử nhưng không chính phủ nào có thể làm vừa lòng PGVNTN, và không chính phủ nào có thể chịu nổi Hồng Vệ Binh PGVNTN, chính phủ nào cũng đều đàn áp Phật Giáo, Diệm mà không Diệm cả, thế là thế nào? Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Trần Văn Hương, Phan Huy Quát, Nguyễn CaoKỳ đều là Phật Tử nhưng theo Hồng Vệ Binh PGVNTN thì bọn chúng cũng theo gương Nhu Diệm mà đàn áp Phật Giáo cả lũ! Vậy thì chắc chắn là đã có cái gì không ổn trong cái gọi là “đàn áp Phật Giáo” đó rồi. Như TT Nixon đã viết trong “No more Viet Nam”như sau: “Cái gọi là đàn áp Phật Giáo chỉ là điều bịa đặt” và như báo cáo của Liên Hiệp Quốc bởi ông Abdul Rahman Pazhwak rằng đã không tìm thấy bằng cớ đàn áp Phật Giáo. Tại sao chính phủ nào cũng đàn áp Phật Giáo vậy? “something’s wrong somewhere? Người ngu nhất cũng phải biết chẳng quađó chỉ là vở kịch được soạn thảo và đạo diễn bởi Hà Nội, đàn em Hồng Vệ Binh PGVNTN trình diễn. Đó đích thực là đàn áp Phật Giáo kiểu của Goebbels hay kiểu của Bác Hồ hay nói theo cây nhà lá vườn là kiểu Chí Phèo tự rạch mặt để hô hoán cho Bá Kiến!
Vấn đề cần phải được minh bạch đó là Phật Giáo bị đàn áp, hay chính Phật Giáo đàn áp chính phủ VNCH? Với gần 2000 ngôi chùa mới được thành lập dưới sự lãnh đạo của TT NgôĐình Diệm, với sự kiện không một ai bị cấm đi chùa, không một ai bị cấm truyền bá đạo Phật, và không một chùa nào phải bị vào Mặt Trận Tổ Quốc, với sự kiện hàng năm đến ngày Phật Đản thì đâu đâu cũng dập tài tử giai nhân, nam thanh nữ tú, ông già bà lão đến trẻ con rộn rịp ngóng chờ đoàn xe hoa Phật Đản lộng lẫy dài bất tận diễn hành trên khắp các thành phố trên toàn quốc, và với việc đã có cả thảy 15 nội các chính phủ theo sau nội các 9 năm của TT Ngô Đình Diệm cũng có cùng chung một tội với TT Ngô Đình Diệm đó làtội “Diệm mà không Diệm, đàn áp Phật Giáo” thì rõ ràng rằng, chính Phật Giáo chứ không ai khác, đã đàn áp chính phủ VNCH, chứ không phải chính phủ VNCH đàn áp Phật Giáo. Sự thật này phải được trả lại cho lịch sử. Hành động vừa ăn cướp vừa là làng của cháu ngoan Bác Hồ Hồng Vệ Binh Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất phải bị vạch mặt!
Bước sang lãnh vực an ninh tình báo, thì hành động rước hổ vào nhà của PGVNTN đã xảy ra một cách trắng trợn như sau: Hô hoán rằng chính phủ đệ nhất VNCH đã bắt nhốt Phật Tử và Quý Thầy trong nhà lao, PGVNTN đã làm áp lực buộc bộ trưởng nội vụ Hà Thúc Ký thuộc Đảng Đại Việt, phải thả tổng cộng khoảng 100 cán bộ tình báo cộng sản, trong đó có những tên cộng sản vô cùng quan trọng và nguy hiểm như Thiếu Tướng Tình Báo Chiến Lược Mười Hương,Đại Tá Tình Báo Chiến Lược Lê Câu, Thiếu Tướng CS Trần Văn Quang tư lệnh mặt trận Trị Thiên. Những tên quỷ dữ cộng sản này sau khi được Hà Thúc Ký thả ra đã tái hoạt động và đóng góp công sức không nhỏ vào việc cộng sản thôn tính Miền Nam. Tất nhiên, tội ác này là tội ác của Hồng Vệ Binh PGVNTN, nhưng chính ông Hà Thúc Ký và Đảng Đại Việt phải chịu trách nhiệm trước lịch sử. Một tội ác nữa của Hồng Vệ Binh PGVNTN ngoài việc thả cán bộ điệp viên cộng sản ra, thì Hồng VệBinh PGVNTN còn chủ mưu xóa sổ các cơ quan tình báo vô cùng quan trọng của VNCH bằng cách giết ông Phan Quang Đông chỉ huy trưởng mạng lưới tình báo phụ trách Bắc Việt, giết ông Ngô Đình Cẩn chỉ huy thực thụ của mạng lưới tình báo phản gián Miền Trung, một địa bàn hoạt động mạnh nhất và nguy hiểm nhất của cộng sản tại Miền Nam Việt Nam, bỏ tù ông Dương Văn Hiếu, trưởng đoàn Đặc Nhiệm Miền Trung, phụ tá cho ông Ngô Đình Cẩn
Song song với vấn đề thả cộng sản và phá hoại mạng lưới tình báo của VNCH bằng cách thay những chuyên viên tình báo giỏi của VNCH bằng những cán bộ cộng sản hoặc tay sai của PGVNTN, một vấn đề nghiêm trọng nữa mà Hồng Vệ Binh PGVNTN đã làm, đó là tê liệt hóa chính quyền VNCH. Cũng bổn củ xài đi xài lại, cũng một khẩu hiệu duy nhất “Cần Lao Công Giáo, Mật vụ Nhu Diệm”, tất cả các vị Tỉnh Trưởng, Trưởng Ty, và các chuyên viên cao cấp trong bộ máy hành chánh chính quyền đều bị vào tù hoặc cách chức, và được thay thế bằng người của Hồng Vệ Binh PGVNTN, tức là người của Hà Nội, hợp pháp hóa bởi “Thầy Thích Trí Quang”.
Phá hủy mạng lưới tình báo quốc gia, thả các cán bộ cộng sản lớn nhỏ mà chính quyền TT Ngô Đình Diệm bắt được, loại trừ tất cả các chuyên viên giỏi trong bộ máy chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa và thế vào bởi các cán bộ của chùa, tức là cán bộ của Đảng, rõ ràng tất cả các hành động trên của PGVNTN là những việc làm có hệ thống, có kế hoạch và có sự tính toán tinh vi mà một mình PGVNTN, một tổ chức ô hợp gồm những kẻ dốt nát lưu manh ít học, thì không thể nào làm được, mà bắt buộc phải là sự tổ chức và điều động của Hà Nội. Kết quả của 3 mũi nhọn chiến lược này là tình hình an ninh chính trị quân sự của Miền Nam đạt đến mức tận cùng của sự thê thảm, buộc lòng chính phủ TT Johnson phải khẩn cấp đổ bộ 3500 Thủy Quân Lục Chiến Mỹ vào bãi biển Đà Nẳng ngày 8 tháng 3 năm 1965 để kịp thời chống trả lực lượng rất mạnh của cộng sản đang chuẩn bị hành động. Và như vậy, kế hoạch Hiện Đại Hóa Quân Đội VNCH đểthay thế hoàn toàn cho Quân Đội Hoa Kỳ vào cuối năm 1965, soạn thảo bởi TT Ngô Đình Diệm, Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara, Trưởng phòng nhân viên phủ Tổng ThốngĐại Tướng Maxell Taylor, được chính quyền Kennedy phê chuẩn ngày 2 tháng 10 năm 1965 đã bị chết một cách oan khiên theo bước chân của Phong Trào Phật Giáo Phá Hoại và việc giết chết dã man TT Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu ( The years of Johnson, page 402-403)
Xin được nói thêm về kế hoạch Diệm-Mcnamara-Taylor. Trước khi bị đảo chánh và thảm sát hơn một tháng, sau một chuyến thanh tra Việt Nam để thẩm định tình hình, một kế hoạch đã được TT Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, Bộ Trưởng Quốc Phòng Mcnamara và Trưởng Khối Nhân Viên văn phòng Tổng Thống Hoa Kỳ Gen. Maxell Taylor bàn soạn, trong đó sẽ bắt tay ngay vào việc hiện đại hóa quân đội VNCH với vũ khí tối tân nhất của Mỹ và dự kiến QLVNCH sẽhoàn toàn thay thế quân đội Hoa Kỳ vào cuối năm 1965. Đến cuối năm 1963, tức là khoảng 2 tháng nữa, sẽ rút thêm một ngàn binh sĩ và cố vấn Hoa Kỳ, đưa số còn lại xuống khoảng 15,700, trên tổng số 16,732 binh sĩ và cố vấn Mỹ hiện diện tại Việt Nam vào thời điểm đó. Kế hoạch này đã được TT Hoa Kỳ Kennedy phê chuẩn ngày 2 tháng 10 năm 1963 (The years of Lyndon Johson, page 402-403). Đau đớn thay, số phận Miền Nam cũng oan nghiệt như số phận của người lãnh đạo là Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Hai mươi ngày sau cái chết của TT Ngô Đình Diệm, thì ngày 22 tháng 11 năm 1963 là cái chết của TT Kennedy. Chính phủ TT Johnson vẫn cam kết tiếp tục kế hoạch “Mcnamara, Taylor, Diệm”, tuy nhiên kế hoạch này không tài nào thực hiện được vì Miền Nam bịrơi vào tình trạng rối loạn vô chính phủ, bởi tay bọn Hồng Vệ Binh PGVNTN. Sau cái chết của TT Ngô Đình Diệm, Miền Nam trở thành một con rắn không đầu, hay nóiđúng hơn, cái đầu của con rắn lúc đó chính là Hồng Vệ Binh PGVNTN, với các tên tuổi như Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Tâm Châu, Thích Hộ Giác, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ và vô số các loại Thích khác nữa. Trong bối cảnh Hồng Vệ Binh PGVNTN đã dọn đường cho Việt Cộng xâm nhập tràn đìa vào bộ máy chính quyền và mạng lưới tình báo của VNCH như vậy, và trước tình hình không có nguyên thủ quốc gia giỏi, thì không thể nào quân đội VNCH có thể một mình đảmđương nhiệm vụ chiến tranh. Miền Nam không có lãnh đạo giỏi thì chính phủ Hoa Kỳ làm sao có thể giao trứng “Diệm-Mcnamara-Taylor”cho ác, một đám ô hợp bất tài “chính phủ hội đồng” như kiểu Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Trần Văn Hương, Phan Khắc Sửu, Phan Huy Quát cho được? Với tình trạng an ninh chính trị bất ổn như vậy, quân đội VNCH càng ngày càng trở nên yếu kém trầm trọng, các tướng lãnh chỉ huy đã bị vòng kim cô PGVNTN kềm tỏa đến độu mê, chẳng hạn Nguyễn Chánh Thi, một tướng lãnh chuyên thực hiện các mệnh lệnh của Hồng Vệ Binh PGVNTN. Chính phủ Hoa Kỳ Johnson không còn tin tưởng vào khảnăng của quân đội VNCH được nữa, dẫn đến việc kế hoạch “hiện đại hóa quân lực VNCHđể thay thế hoàn toàn quân đội Hoa Kỳ trong vòng hai năm” chết ngay khi vừa mới chào đời được có một tháng! Không những không được hiện đại hóa để một mình đảmđương nhiệm vụ chiến tranh, mà ngược lại, quân đội VNCH còn bị quân đội Mỹ “take over”. Trước tình hình hết sức khẩn cấp được phía Mỹ đánh giá rằng QĐVNCH sẽ khó lòng chống trả đợt tấn công quân sự lớn sắp tới của cộng sản, ngày 8/3/1965, chính phủ Jonhson đã đơn phương quyết định đổ khẩn cấp 3500 Thủy Quân Lục Chiến lên bãi biển Đà Nẳng mà không cần đếm xỉa gì đến nguyên thủ quốc gia Việt Nam Cộng Hòa lúc đó là chính trị gia bất tài Phan Huy Quát cả. Ông Phan Huy Quát, nguyên thủ của VNCH bấy giờ, đang còn ngủ, không hay biết gì. Có lẽngười Mỹ thấy việc báo trước cho một ông bù nhìn của Hồng Vệ Binh PGVNTN là một việc làm không cần thiết, có báo trước hay không báo trước thì Phan Huy Quát, một Phật Tử thuần thành của Hồng Vệ Binh PGVNTN, cũng sẽ “yes sir!” mà thôi! Từ đó dẫn đến việc Hoa Kỳ dấn thân mạnh vào cuộc chiến quốc cộng của Việt Nam mà không cần phải có một hiệp ước quân sự song phương nào cả như đối với các nước khác như Nam Hàn, Đài Loan, hay Phi Luật Tân, kéo theo hệ lụy hiệp định Paris, và ngay cả hiệp định Paris bị vi phạm trầm trọng bởi việc chế tài của quốc hội Hoa Kỳ, mà chính phủ VNCH và chính phủ Hoa Kỳ không thể làm gì được. Đứng trên quan điểm thể diện quốc gia mà nói, rõ ràng, sự kiện này chứng tỏ chính phủ Hoa Kỳ đã đánh giá quá thấp khí phách và khả năng lãnh đạo ông Phan Huy Quát, dẫn đến việc thể diện quốc gia của VNCH lúc đó bị xem thường. Trách người trách một trách ta trách mười, lãnh đạo của chúng ta lúc đó đúng là một đám bất tài khiếp nhược, người ngoài mà không xem thường quốc thể của chúng ta thì quả thật đó mới là chuyện lạ!
Có câu “nước rặt mới biết cỏ thúi”, “nhà nghèo mới biết con thảo”, “nước loạn mới biết tôi trung”, “lửa thử vàng gian nan thử sức”. Giai đoạn Miền Nam 1963-1966 đã là giai đoạn chứng minh cho dân chúng và lịch sử thấy rằng các chính khách và các đảng phái chính trị thời đó chỉ là những kẻ bất tài vô tướng. Tất cả các Đảng Phái chính trị có máu mặt và các chính trị gia to mồm đã từng kết án TT Ngô Đình Diệm độc tài gia đình trị, không cho họ tham chính, thì nay đã có cơ hội để biểu diễn cái tài kinh bang tế thế của họ. Kết quả của cái test 1963-1966 đó là: Các chính trị gia và các đảng phái bấy giờ chỉ là một đám vô tài bất tướng, bị Hồng Vệ Binh PGVNTN điều khiển như những con cừu ngờ nghệch. Lịch sử giai đoạn 1954-1966 đã tỏ rõ ai là người có tài có đức, thấy xa trông rộng, biết đặt quyền lợi quốc gia lên trên hết, và ai là kẻ bất tài bất tướng nhưng thám quyền thám vị. Những thành phần bất tài này khi có được quyền lực trong tay thì đương nhiên phải trởthành những kẻ phá hoại, đó là chân lý bất di bất dịch. Các chính trị gia Miền Nam giai đoạn 1963-1966 là những kẻ “múa vụng lại chê đất lệch” bất tài bất đức nhưng lại tự phụ mình có tài có đức, không được sử dụng thì nguyền rủa, kết án, và mưu sát TT Ngô Đình Diệm, chẳng hạn ông Hà Thúc Ký, chẳng hạn ông Nguyễn Chánh Thi, ông Dương Văn Minh. Còn cái đám “Nhân Sĩ” Caravelle như các ông Phan Huy Quát, ông Phan Khắc Sửu, ông Trần Văn Hương, cũng không hơn không kém, tuy không giết TT Ngô Đình Diệm, nhưng cũng không được được trọng dụng nên sanh lòng thù oán, dùng khẩu hiệu “độc tài gia đình trị” như là một thứ vũ khí để chứng minh mình có tài có đức. Những chính khách giai đoạn 1963-1966 họ hoàn toàn không biết gì về họ, nhưng lịch sử đã biết về họ: Giai đoạn 1963-1966 đã chứng minh các đảng phái chính trị và các chính khách bấy giờ toàn là những kẻ bất tài khiếp nhược, còn PGVNTN là một đám phản loạn Hồng Vệ Binh, và các tướng lãnh tham gia đảo chánh giết Tổng Thống là những kẻ vi phạm luật pháp quốc gia với tội danh phản quốc vì đã giết Tổng Tư Lệnh Quân Đội.
Một vài vấn đề lịch sử cần được phân tích, chẳng hạn việc TT Ngô Đình Diệm không thể sửdụng những “chính khách” như nhà văn Nhất Linh, ông Hà Thúc Ký, “Nhân sĩ Caravelle” v.v để điều hành quốc gia là một quyết định hết sức đúng đắn dựa trên nguyên tắc dân chủ và quyền lợi quốc gia là trên hết. Nguyên tắc “dân chủ trong lãnh đạo” là gì? Đó là khi một cá nhân được dân bầu làm lãnh đạo cao nhất của quốc gia, thì ông ta có toàn quyền bổ nhiệm nội các và sử dụng bất cứ ai mà ông thấy cần cho quốc gia, giúp ông điều hành đất nước theo ý ông muốn, đó mới chính là dân chủ thật sự. Những “chính khách” giai đoạn 1954-1966 đã từng nguyền rủa TT Ngô Đình Diệm là độc tài gia đình trị không cho các đảng phái tham gia chính quyền, thật ra họ không biết gì về nguyên tắc dân chủ cả. Dân chủ đối với họ đó là mạnh ai nấy làm chủ, và ai có “công” trong việc lật cựu hoàng Bảo Đại đưa TT Ngô Đình Diệm lên địa vị tối cao thì phải được chia phần chia ghế. Viếtđến đây, người viết bỗng dưng nhớ đến lời than vãn của TT Ngô Đình Diệm với linh mục Cao Văn Luận tại dinh Độc Lập, khi linh mục Cao Văn Luận trách cứ Tổng Thống sao ông không sử dụng nhân tài, Tổng Thống trả lời rằng “Thưa đức cha, có bao nhiêu người tài con đã dùng hết rồi đâu còn mô!”
Đúng vậy, TT Ngô Đình Diệm đã dùng hết tất cả những nhân tài mà đất nước có được. Điểm lại tài năng một số nhân vật mà đã được Tổng Thống chọn vào những vị trí quan trọng để giúp ông điều hành quốc gia, chúng ta thấy họ hơn hẳn các chính trị gia đối lập cùng thời. Các chính trị gia đối lập này chỉ biết khum lưng cúi đầu trước những “chính trị gia đầu trọc họ Thích”, chẳng hạn như Dương Văn Minh, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Hà Thúc Ký, Phan Huy Quát. Các nhân tài dưới thời TT NgôĐình Diệm sau này sau đã bị “cuộc cách mạng không tiền khoáng hậu” tức Phong Trào Phật Giáo Phá Hoại thanh trừng sạch sẽ. Thưa Hồng Vệ Binh PGVNTN, với nỗi hân hoan tột độ vì đã sát hại được tên “Độc tài gia đình trị đàn áp Phật Giáo” Ngô Đình Diệm, nay xin hỏi, quý vị triệt được ông ta thì quý vị chọn ai lên lãnh đạo quốc gia? Dương Văn Minh? Nguyễn Khánh? Trần Văn Đôn? Trần Văn Hương? Phan Huy Quát? Phan Khắc Sửu? Hay Thích Trí Quang? Thích Thiện Minh, Thích Nhất Hạnh? Thích Huyền Quang? Thích Hộ Giác? Thích Quảng Độ? Cũng xin hỏi, ông ta đã đàn áp quý vị thế nào? Ông ta không cho quý vị treo cờ? Ông ta ném lựu đạn ở Đài Phát Thanh Huế để giết trẻ em Phật Giáo? Thế là quý vị có đủ lý do chính đáng để sách động lật đổ, ăn mừng việc ông bị sát hại? Đã vậy, là những kẻ mệnh danh tu hành, nhưng suốt mấy chục năm nay quý vị vẫn không nguôi nguyền rủa TT Ngô Đình Diệm độc tài đàn áp Phật Giáo, mà không có một bằng chứng nào cả, thế thì cái đạo mà quý vị tu là cái đạo gì? Có thật quý vị là thầy tu Phật Giáo hay không? Hay đây là tập họp của những kẻ hành nghề buôn thần bán thánh bán Phật bán Chúa? Cho nên gần 60 năm, vẫn muối mặt làm chuyện vu cáo chính quyền VNCH mà không một chút ngượng ngịu cắn rứt lương tâm gì cả. Trên đời này, điểm lại tư cách của Phật Giáo thế giới, thì chỉ có Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là có hành động tồi tệnhất, mà đã đi ngược lại pháp lý nhà Phật, làm chuyện vu cáo hãm hại người kiểu Hồng Vệ Binh mà thôi.
Chỉ có những kẻ u mê hoặc những kẻ coi thầy là Phật mới có thể tiếp tục tin những điều tố cáo vu vơ vô bằng vô chứng mà PGVNTN đã và đang tiếp tục tuyên truyền. Sự vu cáo này rõ ràng được chủ mưu bởi cộng sản Hà Nội và kẻ thi hành là PGVNTN. Bằng chứng cho điều này là tổ chức PGVNTN đã chứa một ổ cộng sản trong đó, ví dụ Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, Thích Thiện Siêu, Thích Thiện Hoa, Thích Chánh Trực, Thích Như Ý, Thích Nhất Hạnh, Thích Minh Châu, Thích Pháp Trí, Thích Pháp Siêu và số còn lại là số ít nhiều cũng dính dáng với Việt Cộng hoặc thân cộng như Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thích Hộ Giác, Thích Thiện Minh v.v… Sự vu cáo này được dàn dựng bởi cộng sản Hà Nội, cho nên đến giờ này Cộng Sản Hà Nội và PGVNTN vẫn còn cùng nhau hợp xướng bản nhạc “độc tài đàn áp Phật Giáo”, và xây lăng điện to lớn cho Thích Quảng Đức để tiếp tục duy trì và phát huy những tội ác đàn áp Phật Giáo của Mỹ Ngụy.
Tiện đây tôi xin hỏi Hồng Vệ Binh PGVNTN vềvấn đề treo cờ Phật Giáo và ông Ngô Đình Cẩn. Thứ nhất, việc chính phủ cấm treo cờ tôn giáo nơi công cộng, nơi công cộng nên dành cho cờ quốc gia, điều nàyđúng hay sai? Thứ hai, việc luật treo cờ tôn giáo được ban hành rơi vào đúng thời điểm Phật Đản, như vậy có thể chứng minh rằng chính quyền TT Ngô Đình Diệmđàn áp Phật Giáo hay không? Thứ ba, ai cũng biết, nhất là Thích Trí Quang, rằng ông Ngô Đình Cẩn lúc nào cũng đứng đằng sau giúp đỡ cho Phật Giáo, ngay cả vấn đề treo cờ, chính ông Ngô Đình Cẩn là người ủng hộ và can thiệp cho Thích Trí Quang trong việc tiếp tục treo cờ Phật Giáo tại Huế, nên Thích Trí Quang mới mạnh dạn như vậy, thế thì tại sao các ông lại giết ông Ngô Đình Cẩn? Các ông không nhận tội, nhưng lịch sử đã minh bạch rằng chính Hồng Vệ Binh PGVNTN đã ban lệnh tử hình ông Ngô Đình Cẩn, theo nhu cầu của Hà Nội. Do vậy, xin thành thật mà nói, ngày nay cộng sản trừng trị các ông cũng là điều nhân quả công bình mà Phật đã làm.
Luôn miệng nguyền rủa một vị nguyên thủ quốc gia độc tài đàn áp Phật Giáo và thỏa thích hãnh diện trước cái chết của ông, tự hào về một cuộc phản loạn đập phá đem bàn thờ Phật để ngăn chặn giao thông, chiếm quốc lộ, chiếm chính quyền và giết người, đó là bản chất cao đẹp của quý tu sĩ Phật Giáo VNTN đó sao? Nhưng có những điều mà Hồng Vệ Binh PGVNTN không thế chối cãi rằng trước khi TT Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh, Miền Nam chỉ là một đống gạch vụn của chiến tranh Pháp thuộc để lại. Không có chính phủ, các thập nhị sứ quân, mỗi giáo phái hùng cứ mỗi nơi, trongđó chính quyền chính tại Sài Gòn bấy giờ là Bảy Viễn, một tên ma cô chủ các sòng bài và các động điếm. Về kinh tế thì ngân khố trống rỗng, ruộng vườn điêu tàn và bỏ hoang vì chiến tranh, đồn điền và các xí nghiệp đều là của người Pháp, đại đa số dân chúng thì thất học. Miền Nam không có lấy một trường đại học, hoàn toàn không có quân đội và các trung tâm huấn luyện quân đội, lác đác chỉcó một số lính không được tinh nhuệ do Pháp để lại. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo của Miền Nam như vậy, Tổng Thống Ngô Đình Diệm còn phải chịu trách nhiệm cưu mang hơn một triệu đồng bào Miền Bắc di cư vào Nam. Trong vòng hai tháng phải lo ổn định chổ ở, đời sống và y tế cho hơn 1 triệu người trong một cuộc di cưvĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, là một công việc quá phi thường mà đến bây giờ chưa có vị nguyên thủ quốc gia nào trên thế giới có thể làm được. Trong lúc vừa phải đối phó với chiến tranh xâm lược của nguyên một khối cộng sản trên thếgiới đổ vào Việt Nam, ông đã xây dựng đất nước trở thành một hòn ngọc viễn đông với hàng ngàn bệnh viện và các trường trung tiểu học mới được xây dựng, nạn mù chữ được xóa bỏ một cách nhanh chóng. Dưới sự lãnh đạo của TT Ngô Đình Diệm, lần đầu tiên Miền Nam có các trường đại học Sài Gòn, Đại Học Đà Lạt, Đại Học Huế, Đại Học Y khoa Sài Gòn được giảng dạy bằng Giáo Sư Việt Nam, trường Quốc Gia Hành Chánh là những trường Đại Học đạt tiêu chuẩn quốc tế mà vùng Châu Á khó sánh kịp. Về quân sự, Đại Học Võ Bị Đà Lạt xây dựng phỏng theo tiêu chuẩn West Point, Võ Khoa Thủ Đức, do chính TT Ngô Đình Diệm cho xây dựng và canh tân liên tục. Từ một Miền Nam nghèo khó bấp bênh chờ rơi vào tay cộng sản, trong vòng không quá hai năm, TT Ngô Đình Diệm đã giữ vững được đất nước và bắt đầu xây dựng nó trở thành một nước xuất cảng mạnh về nông nghiệp và đang tiến đến giai đoạn kỹ nghệ hóa qua hai kế hoạch phát triển kinh tế ngũ niên 1957-1961 và 1962-1967, giáo dục được sắp xếp song song để cung cấp tài nguyên con người cho kế hoạch 10 năm kỹnghệ hóa đất nước, mà Thủy Điện Đa Nhim và Trung Tâm Nguyên Tử Đà Lạt là hai nền tảng năng lượng quan trọng cho việc kỹ nghệ hóa này. Trong 5 năm đầu tiên một số nhà máy lớn đã ra đời như nhà máy ván ép, nhà máy giấy, nhà máy dệt, nhà máy xà bông, viện bào chế dược phẩm v.v. Về ngoại giao thì Việt Nam Cộng Hòa trở thành một quốc gia được trên 150 các quốc gia kính nể đặt quan hệ ngoại giao hơn hẳn so với Miền Bắc Cộng Sản. Về mặt an ninh tình báo, phải nói là hệ thống an ninh tình báo của chính phủ TT Ngô Đình Diệm hơn hẳn chính phủ TT Nguyễn Văn Thiệu nhiều,đến nỗi Văn Tiến Dũng và Thiếu Tướng Mười Hương phải kêu trời rằng 95% cán bộtình báo của ta đã bị Diệm xóa sổ, ngược lại với “chính phủ hội đồng 1964-1967”thì cộng sản đã gần như làm chủ mạng lưới tình báo của Miền Nam, trong đó chúng đã xóa sổ Đoàn Đặc Nhiệm Miền Trung qua việc xử tử ông Ngô Đình Cẩn, bỏ tù ông Dương Văn Hiếu, xóa sổ bộ phận tình báo đặc trách khu vực Miền Bắc bằng việc xử tử ông Phan Quang Đông, qua bàn tay của Hồng Vệ Binh PGVNTN. Riêng về Phật Giáo, đây là một tôn giáo đã được sự nâng đỡ hơn hết của chính phủ TT Ngô Đình Diệm. Theo thống kê, khoảng gần 2000 ngôi chùa mới được xây thêm dưới thời TT Ngô Đình Diệm. Một số chùa chiền nổi tiếng đuợc trùng tu bởi ngân sách quốc gia như Xá Lợi, Từ Đàm, toàn bộ khu đất to lớn mà Chùa Vĩnh Nghiêm sở hữu thìđược chính phủ tặng không. Với những dữ kiện lịch sử như vậy, xin hỏi các ông PGVNTN và ông Thích Quảng Độ, những thành quả đạt được cho đất nước, công lao diệt cộng của ông và đời sống cá nhân cần kiệm liêm khiết như vậy của TT NgôĐình Diệm, tất cả đều không to lớn bằng cái đạo dụ số 10, không to lớn bằng việc cắm cho được mấy cái cờ của quý vị nơi công cộng, hay sao? Còn nữa, với một chính phủ chăm lo đời sống dân chúng, phát triển giáo dục, đẩy mạnh kỹ nghệ hóa đất nước, ưu đãi Phật Giáo, chống cộng triệt để và có hiệu quả tối đa mà Văn Tiến Dũng và Mười Hưong đã xác nhận, thì bằng cớ nào mà Hồng Vệ Binh PGVNTN có thể đưa ra để chứng minh cho công luận rằng, chính phủ Đệ Nhất Cộng Hòa sai ông Đặng Sĩ ném lựu đạn trước Đài Phát Thanh Huế để bách hại Phật Giáo? Các ông PGVNTN đã khoác áo cà sa mà lại vu khống chuyện ác cho người ngay, thì các ông là những người tu hành đứng đắn hay là đám quỷ dữ hiện hình? hay là cộng sản? Vì hơn ai hết các ông đã chứa cộng sản trong Chùa Xá Lợi, Chùa Trà Am, và vô số các chùa khác mà ngay chính Thích Đôn Hậu đã xác nhận rằng Mậu Thân 1968 tại Huế hầu như tất cả các Chùa và các nhà một số Phật Tử đều chứa cộng sản.
Thưa quý vị PGVNTN, tôi xin mượn tấm lòng của một người ngoại quốc, Tổng Thống Hoa KỳLyndon Johnson để ông ta dạy cho quý vị rằng, trong tình trạng quốc gia đang có chiến tranh với hiểm họa cộng sản như vậy thì: “The main objective was to just- win the war”. He didn’t want as much effort placed on the so-call social concerns (The years of Lyndon Johnson, page 402), cũng như TT Johnson đã từng dạy quý vị qua lá thư của Ngoại Trưởng Dean Rusk rằng“đây không phải là thời gian để Phật Giáo đập đổ mọi thứ và làm hỏng những nỗ lực mà đã bắt đầu có hiệu quả. Nếu họ tiếp tục việc phá hoại và vô trách nhiệm như hiện nay, thì không những họ sẽ mất thiện cảm của công luận và chính quyền Hoa Kỳ mà trước đây họ đã có, mà họ sẽ làm cho tình trạng hỗn loạn và vô chính phủ trầm trọng hơn lên, trong đó sự hổ trợ của chính phủ Hoa Kỳ cho Việt Nam sẽ không có hiệu lực nữa. Tổng Thống Hoa Kỳ hy vọng rằng Phật Giáo sẽthể hiện điều này, rằng không những chỉ có những người yêu nước Việt Nam quan tâm đến vận mệnh của quốc gia mình mà những người lãnh đạo tôn giáo cũng phải biết quan tâm đến vận mệnh của các tín đồ của họ và thể hiện những giáo lý mà họcho là họ đại diện (Dean Rusk, 19/3/1966).
Đúng vậy, thưa quý vị họ Thích của PGVNTN và tất cả các quý vị chính trị gia bao gồm cả quý vị đảng phái nọ đảng phái kia và “18 nhân sĩ đại tài Caravell” rằng, điều quan trọng nhất là phải thắng cho được cộng sản, không phải thắng cho được Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, ông Ngô Đình Cẩn. Những yếu tố xã hội khác mà chưa làm quý vị hài lòng, nếu quý vị là những người biết đặt quyền lợi quốc gia lên trên hết, thì quý vị phải biết để sang một bên, khi nào TT Ngô Đình Diệm trừ khử sạch bọn cộng sản thì lúc đó quý vị mới đặt lại vấn đề. Đây mới thực sự là cái biết của bậc ái quốc chính nhân quân tử. Hoặc giả, đây là đất nước dân chủ, tại sao quý vị không đợi đến phiên mình để trổ tài kinh bang tế thế cho bàn dân thiên hạ lác mắt, mà lại đi tuyên truyền đối lập phá hoại trong lúc quốc gia đang có chiến tranh, vẽ chuyện đòi hỏi thực thi dân chủ thế này thế kia, thì xin thưa, tất cả chỉ là những hành động kiếm cớ để tranh quyền đoạt lợi của những hạng xôi thịt chỉ biết quyền lợi cá nhân mà chẳng kể gì quyền lợi quốc gia. Trong lúc ấy thì người dân bình thường mộc mạc thì cuộc sống của họ tại Miền Nam bấy giờ là quá hạnh phúc rồi, chỉ mong sao chính phủ giữ vững được quốc gia khỏi kẻ thù cộng sản để họ khỏi phải sống với cộng sản là đủ, cho dù họ có bỏ tất cả tài sản ruộng nương họcũng chẳng cần. Do đó, cái mà quý vị chính trị gia đối lập đòi hỏi dưới thời TT Ngô Đình Diệm chỉ là chuyện kiếm cớ phá hoại, mà mục đích chỉ nhắm vào quyền lợi cá nhân. Xin được lập lại lời TT Lyndon Johnson mà cũng là nguyện vọng dân chúng Miền Nambấy giờ và bây giờ, lần nữa: The main objective was to just-win the war”.Not the so-call social concerns.
Thưa quý vị chính trị gia của việc “giậu đổ thì bìm bịp leo”, quý vị luôn mở miệng kết án Tổng Thống Ngô Đình Diệm là độc tài đàn áp đối lập, và răn dạy chính quyền đương nhiệm về việc phải thực thi dân chủ, nhưng thật ra quý vị không biết một tí gì về dân chủ. Nguyên tắc căn bản của dân chủ là trong giai đoạn chiến tranh thì quyền tự do chính trị phải bị hạn chế, và mọi mệnh lệnh của người lãnh đạo tối cao phải được tuân thủ. Vì theo luật pháp thì trách nhiệm bảo vệ an ninh lãnh thổ và an ninh xã hội là trách nhiệm đầu tiên của chính phủ, căn cứ vào đó, người lãnh đạo tối cao có quyền ban bố những sắc lệnh giới hạn một số quyền tự do để phục vụ cho hai mục tiêu tối quan trọng nói trên, còn thực thi những quyền tự do cá nhân này kia là chuyện thứ đến. Hãy lấy ví dụ về nguyên tắc dân chủ và quyền lãnh đạo tối cao tại quốc gia có nền dân chủ lâu đời và vững mạnh nhất thế giới là Hoa Kỳ để thấy rằng những gì TT Ngô Đình Diệm thi hành trong thời chiến, so cả với thời bình, là quá sức dễ dãi, là tự do quá trớn đến độsai lầm, khiến cho bọn bất lương và bọn cộng sản lợi dụng để hoành hành, đã vậy ông còn bị mang tiếng oán là độc tài gia đình trị. Trường hợp TT Roosevelt ký sắc lệnh năm 1942 cho phép bắt những tất cả những người gốc Đức hoặc Ý có tư tưởng thiên về Hitler và Mussolini, thứ hai,tập trung người Nhật trong các trại tập trung tại California sau khi Nhật tấn công hạm đội Hoa Kỳ tại Trân Châu Cảng, trường hợp thứ ba, Đại Tướng MacAuthur, một danh tưởng rất được dân chúng Hoa Kỳ ngưỡng mộ đã bị TT Harry Truman cách chức năm 1951 chỉ vì một phát biểu không phù hợp với chính sách của TT Truman, ngoài ra, TT Truman cũng ban hành luật quy định mọi hoạt động dính líu đến cộng sản đều phải bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, tất cả những dẫn chứng nói trên là những ví dụ tiêu biểu về tự do dân chủ và quyền hạn của nguyên thủ quốc gia, trong thời bình cũng như thời chiến. Xin hỏi, như vậy Tổng Thống Roosevelt và Tổng Thống Truman có phải là độc tài đàn áp đối lập hay không? Hành động cách chức Đại Tướng MacAuthur đã làm mất đi cơ hội tái ứng cử cho TT Truman, nhưng ông thà mất quyền lực nhưng phải giữ đúng kỹ cương pháp trị. Người dân Hoa Kỳ lúc đó không thích ông, nhưng họ không cho hành động của TT Truman là độc tài đàn áp đối lập, vì dân chúng Hoa Kỳ hiểu rằng đó là luật pháp và bổn phận của nguyên thủ quốc gia. Còn các chính trị gia các đảng phái đối lập với TT Ngô Đình Diệm không hiểu biết về tự do dân chủ và nguyên tắc lãnh đạo gì cả, nên lúc nào cũng thoải mái phát biểu những điều sai trái “độc tài giađình trị đàn áp đối lập” mà tưởng rằng mình là những nhà bác học hoặc hiền triết về dân chủ tự do. TT Roosevelt và TT Truman nếu sinh ra tại Miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975, thì chắc chắn hai ông cũng sẽ bị PGVNTN và các đảng phái chính trị như Đại Việt, Quốc Dân Đảng và “18 nhân sĩ Caravelle” Nhất Linh, Hà Thúc Ký và những “nhân sĩ chính trị” khác tặng cho danh hiệu “độc tài gia đình trị đàn áp đối lập” và mưu sát. Đó là điều chắc chắn, thật là may mắn cho hai ông!
Một số người khác cho rằng giai đoạn VNCH 1954-1963 là giai đoạn chính quyền dân chủ còn non trẻ, nên có nhiều vấn đề chính phủ chưa thực thi dân chủ một cách đúng mức như các nước phương tây, chúng ta nên thông cảm v.v. Thực ra, những phát biểu này cũng thuộc loại không hiểu gì sất về dân chủ. Dân chủ không có nghĩa là muốn làm gì thì làm, muốn treo cờ Phật Giáo nơi công cộng thì treo, muốn dựa hơi Phật Giáo vu khống chính phủ giết người là vu khống, muốn biểu tình đổ xăng đốt người là đốt, muốn chứa cộng sản trong chùa rồi đặt máy phóng thanh chửi rủa chính phủ đàn áp Phật Giáo là làm, muốn chiếm quốc lộ là chiếm, muốn bắn tướng lãnh là bắn, muốn dùng chùa và tượng Phật làm công sự phòng thủ để bắn người là dùng, muốn chiếm chính quyền chiếm đài phát thanh kêu gọi cứu nguy Phật Giáo là chiếm. Đó không phải là hành xử quyền tự do dân chủ, đó là hành động phản loạn phản quốc của phường thảo khấu man ri mọi rợ. Trong đó cũng phải nhận thấy rằng chính phủ VNCH cũng có phần trách nhiệm trong việc làm loạn này vì đã không thẳng tay thi hành luật pháp quốc gia với các phần tử của PGVNTN, nên đất nước mới ra nông nổi.
Đó là tất cả những loạn lạc đã xảy ra trên quê hương tôi bởi một đám người bất lương khoác áo thầy tu PGVNTN, đã lợi dụng tựdo dân chủ để hoạt động phá hoại an ninh chính trị Miền Nam Việt Nam theo chỉthị của cộng sản Hà Nội, dẫn đến thảm họa cộng sản và diệt vong cho cả dân tộc và đất nước Việt Nam
Cả một cuộc đời TT Ngô Đình Diệm chỉ biết chăm lo cho dân chúng, cho quốc gia và chống lại thảm họa cộng sản cho đến cùng. Nếu Hồng Vệ Binh PGVNTN và những Phật Tử đã coi PGVNTN là thần thánh, hiểu được một điều rất đơn giản rằng, điều quan trọng là phải thắng cộng sản, The main objective was to just-win the war, không phải là những thứ như “đàn áp Phật Giáo” “độc tài gia đình trị” “độc tài quân phiệt” not the the so -call social concerns, thì quốc gia Việt Nam không đến nỗi bị thảm họa cộng sản như ngày hôm nay.
Với những kẻ đến hôm nay vẫn còn lập đi lập lại rằng phong trào Phật Giáo tranh đấu là “cuộc cách mạng không tiền khoáng hậu”, thì xin thưa, đã có quá nhiều người khinh bỉ quý vị vì những phát biểu vô nghĩa, ngu dốt, vu khống bịa đặt này mà quý vi không biết. Quý vị hãy đọc ý kiến của một số nhân vật quan trọng sau đây để rõ:
Tổng thống Nixon: “vấn đề đàn áp tôn giáo là hoàn toàn bịa đặt, đàng sau cuộc khủng hoảng là chính trị chứ không phải tôn giáo” ( No more Viet Nam). Cựu hoàng Bảo Đại “Tất cả đang tiến tới thì chính phủ bị các nhà sư chống đối. Ông Diệm và Nhu là người công giáo, các nhà sư bị cộng sản giật dây và mật vụ Mỹ tiếp tay, liền bắt đầu hành động. Chính quyền phải đối phó lại, vô hình chung đem đến cảm giác kỳ thị tôn giáo. Ai đã xúi giục họ gây loạn, ai? Họ ở đâu tới? Làm sao biết được họ từ Hà Nội vào hay từ Bắc kinh tới?( con rồng Việt Nam)
Theo sử gia nổi tiếng về vấn đề chiến tranh Việt Nam Mark Moyer, một người tốt nghiệp B.A với mức tối cao ưu summa cum laude tại Đại Học Harvard và tiến sĩ sửhọc Đại Học Cambridge, giáo sư Đại Học Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ ( Marine Corps University), hiện là cố vấn độc lập về an ninh quốc gia, thì Cộng Sản đã điều khiển phong trào Phật Giáo để đấu tranh chính trị lật đổ chính phủ VNCH ( Triumph forsaken)
Trở lại vấn đề đưa ma ông Thích Hộ Giác, một kẻ dưới áp lực của Thích Trí Quang, đã được đưa vào nắm Nha Tuyên Úy Phật Giáo, phó cho ngài Tâm Giác. Vào quân đội nhưng y lại không giữ kỹ cương và tư cách quân đội, vẫn quan hệ tình ái bừa bãi và dùng quân đội để kiếm chác tiền bạc làm mang tiếng cho quân đội, đến nỗi phải bị quân đội và ngài Thích Tâm Giác trả lại dân sự. Với hạnh kiểm bất chính như vậy, với tất cả những lời nguyền rủa thề loại trừ chính phủ VNCH đến giọt máu và hơi thở cuối cùng như vậy, với việc đồng bọn của ông ta không chấp nhận chính phủ VNCH là chính phủ của “chúng tôi”, “chúng tôi” muốn tay với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, điều đình với Bắc Việt và Mỹ phải về nước, muốn Diệm phải chết, muốn Kỳ phải xuống, muốn Thiệu phải đi, đã ra tận Hàng Xanh đón quân cộng sản vào xâm lăng Miền Nam, đã viết chứng từ ủng hộ việc cộng sản chiếm quốc gia, đã ăn mừng sinh nhật Hồ Chí Minh trong chùa như vậy v.v, thiết tưởng đã quá đủ để biết ai quốc gia ai cộng sản, ai yêu nước, ai bất lương, ai phá hoại. Thế nhưng qua đám ma ông Thích Hộ Giác, một thành viên chủ chốt trong đám phản quốc PGVNTN, thì thấy vẫn còn có những người khoác áo người Việt Quốc Gia ở hải ngoại này đến chào tiễn biệt một kẻ đã phá hoại trầm trọng quốc gia VNCH, và kỳ lạ thay trong đám này lại còn có những người khoác bộ binh phục của người lính VNCH!
260 ngàn người lính VNCH đã nằm xuống, 5 vị tướng và những sĩ quan binh sĩ đã tuẩn tiết vì quốc gia ngày 30 tháng 4, có lẽ đối với những người khoác áo quân đội VNCH trước quan tài Thích Hộ Giác không là cái gì hết. Bởi lẽ, nếu họ biết tôn trọng màu cờ sắc áo của họ và danh dự của những đồng đội đã nằm xuống thì họ sẽ chẳng bao giờ có thể đứng trước quan tài của Thích Hộ Giác và đứng chung hàng ngũ với đám thầy tu bất lương PGVNT, những kẻ đã phá hoại quốc gia VNCH đến tận cùng bàn số như vậy. Không biết đến bao giờthì người Việt mới biết suy nghĩ và đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi tôn giáo?
Một sĩ nhục trân tráo từ những kẻ
từng khoác áo chiến binh nhưng không phân biệt đâu là chánh, đâu là tà,
đâu là bạn, đâu là kẻ thù không đội trời chung. Hình ảnh: Đưa tiễn hồn
ma Thích Hộ Giác về Âm Ty !
Những ai đã từng khoác áo của QLVNCH phải nhớ rằng, nếu ngày ấy không
có việc mưu sát một cách dã man Tổng Tư Lệnh Quân Đội Ngô Đình Diệm từ
Phong Trào Phật Giáo Tranh Đấu của đám Hồng Vệ Binh PGVNTN mà ra, thì
chắc chắn dưới sự lèo lái của Tổng Tư Lệnh Ngô Đình Diệm, Quân Đội VNCH
đãđược hiện đại hóa theo tiêu chuẩn của quân đội Hoa Kỳ và đã hoàn toàn
làm chủcuộc chiến vào cuối năm 1965. Đó là kế hoạch hàng đầu của TT Ngô
Đình Diệm, mà đãđược thẩm định bởi Bộ Trưởng Quốc Phòng Mcnamara và Đại
tướng Maxell Taylor và được phê chuẩn bởi TT John F Kennedy ngày 2 tháng
10 năm 1963. Dương Văn Minh, với sự đồng lõa của nhóm Henry Cabot Lodge
và đám PGVNTN với Thích Trí Quang, đã ra lệnh cho tay chân giết hại
Tổng Thống và bào đệ một cách dã man không khác gì bọn cường sơn thảo
khấu, trong khi ôngđã điện thoại gọi chúng đến để giao lại đất nước cho
chúng và chấp nhận ra đi. Chúng lừa ông lên xe tăng bít bùng để bắn và
đâm Tổng Thống và ông Cố Vấn cho đến chết, sau đó chúng giết luôn sát
thủ Nguyễn Văn Nhung để bịt miệng. Giết hai anh em Tổng Thống không chưa
đủ, còn một người em út là Ngô Đình Cẩn Hồng VệBinh PGVNTN cũng giết
nốt. Hồng Vệ Binh PGVNTN không thể chối rằng chúng đã không giết ông Ngô
Đình Cẩn. Ngày Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị thảm sát cũng là ngày PGVNTN
mở tiệc ăn mừng, tiếp tục giương cao ngọn cờ Phật Giáo, thừa thắng xông
tới quyết triệt hạ luôn các chính quyền “Diệm mà không Diệm” còn lại,
đến giọt máu và hơi thở cuối cùng. Sự hăng say khát máu này biểu hiện
qua nhiều hành động của PGVNTN, trong đó có việc Thích Quảng Độ tuyên
truyền với công luận Mỹ trên tờ New York Times rằng “chúng
tôi không chấp nhận chính phủ VNCH là chính phủ của chúng tôi, chúng tôi
muốn bắt tay với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và điều đình với Bắc
Việt, và Mỹ phải rút quân.”PGVNTN và Thích Quảng Độ muốn bắt tay với MTGPMN, điều đình với Việt Cộng và đuổi Mỹ về nước, hành động này là gì nếu không phải là hành động PGVNTN công khai bán nước cho cộng sản? Có khác nào hành động của Phạm Văn Đồng viết giấy bán nước cho đồng chí Tổng Lý Chu Ân Lai không? Nỗi hân hoan bán nước cho cộng sản của PGVNTN là một việc làm không thể nào chối cãi. Những hành động quyết tâm triệt hạ chính phủ VNCH bằng lời nói, bằng việc sách động đám đông, bằng việc biểu tình có kèm đốt sống người, và bằng việc tuyên truyền trong công luận thế giới và công luận Hoa Kỳ rằng chính phủ VNCH là một chính phủ phi nhân phi pháp (nếu chúng tôi được đi bầu thì chính phủ này không tồn tại đến một ngày, Thích Quảng Độ, Thích Trí Quang, ni cô Chân Không 1967) và sau 1975 thì vui mừng việc Bắc Việt vào tiếp thu Miền Nam, đến năm 1977 PGVNTN vẫn còn tâm đầu ý hợp với cộng sản, biểu hiện qua nét mặt sung sướng của Thích Quảng Độ được Mai Chí Thọ tiếp chuyện (hình chụp năm 1977, không phải năm 1999 như PGVNTN bẻ cong sự thật) là những hành động khẳngđịnh rằng, không nghi ngờ gì cả, chính PGVNTN đã là công cụ đuợc Hà Nội tổ chức và điều khiển trước 1975. Chúng tôi sẽ có một bài viết riêng về ai là cha đẻ của PGVNTN sau. Hãy xét lý lịch một số “cán bộ” của PGVNTN mà đồng chí Đinh Văn Nam tức Thích Minh Châu là tiêu biểu nhất, để chúng ta hình dung được cách mà cộng sản hình thành, tổ chức và điều khiển PGVNTN ra sao và cách cài cán bộ vào tổchức này như thế nào. Về Đinh Văn Nam, Đinh Văn Nam bắt đầu hoạt động cộng sản chung với BS Lê Đình Thám, được Lê Đình Thám giao nhiệm vụ là Phó Đoàn ThanhNiên Phật Học. Năm 1943 thì Đinh Văn Nam được kết nạp Đảng chung với Võ Đình Cường. Năm 1948 Võ Đình Cường được Lê Đình Thám giao phụ trách về Phật Tử còn Đinh Văn Namphụ trách tăng sĩ. Do vậy năm 1948 Đinh Văn Nam phải gia nhập vào đạo quân tăng lữ, y phải đổi lốt bằng cách xin đi tu tại Chùa Tường Vân, năm 1949 chính thức được quy y làm tăng sĩ, lấy tên là Thích Minh Châu. Năm 1952, Đinh Văn Nam được cử sang Sri-lanka rồi sang Ấn Độ. Biết rõ Thích Minh Châu chính là đảng viên cộng sản Đinh Văn Nam, nhưng dưới áp lực của tổ chức PGVNTN, thì chính phủ khiếp nhược Nguyễn Khánh phải để cộng sản Đinh Văn Nam vào Miền Nam một cách hợp pháp. Thích Minh Châu/Đinh Văn Nam sau đó điều khiển PGVNTN, y mở trường Đại Học Vạn Hạnh để làm một ổ chứa cộng sản và hoạt động cộng sản, kèm trốn lính. Thích Quảng Độ cũng có một lý lịch khá giống Thích Minh Châu. Thích Quảng Độ ở Hà Nội, qua Sri-Lanka năm 1951 và qua Ấn Độ năm 1953 và vào Miền Nam năm 1958.
Trở lại vấn đề PGVNTN, bằng tất cả những hành động phản quốc nói trên như vậy, nhưng đến nay PGVNTN vẫn không biết hối cãi, vẫn một mực chửi bới cố TT Ngô Đình Diệm, gọi việc giết TT Ngô Đình Diệm là anh hùng, gọi việc trực diện đối đầu để tiêu diệt chính phủ VNCH là cuộc cách mạng không tiền khoáng hậu chống đàn áp Phật Giáo, sĩ nhục các chính phủ VNCH và QL VNCH là lính đánh thuê cho Mỹ, không làm gì để bảo vệ Miền Nam. Bằng chứng của những hoạt động phá hoại và hoạt động cộng sản đã quá rõ, có giỏi chối như Goebells đi chăng nữa, thì Dương Văn Minh, nhóm Henry Cabot Lodge và Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bắt buộc phải chịu trách nhiệm trước tòa án lương tâm và tòa án lịch sử về cái chết của Tổng Tư Lệnh quân đội Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, ông Ngô Đình Cẩn và ông Phan Quang Đông và đặc biệt là phải chịu trách nhiệm về việc đã phá hoại chương trình Việt Nam Hóa và Hiện Đại Hóa QuânĐội Việt Nam Cộng Hòa năm 1963-1965 mà chính phủ TT Ngô Đình Diệm đã hoạch định để đối phó với cộng sản.
Dựng đứng chuyện TT Ngô Đình Diệm đàn áp Phật Giáo, Hồng Vệ Binh PGVNTN đã phá hoại một cơ may của đất nước để chiến thắng cộng sản, phá hoại tương lai và tiềm năng của Quân Đội VNCH trong việc hiện đại hóa và Việt Nam Hóa chiến tranh. Như vậy, thiết nghĩ những kẻ nào còn có thể đứng chung hàng ngũ với PGVNTN, quả thật những kẻ đó chằng khác nào bọn thương nữ bất tri vong quốc hận. Đối với những hạng người này thì Quốc Gía hay Dân Tộc, tất cả đều không bằng gót giày của những tên đầu trọc bỉ ổi bất lương, ngay cả khi biết chúng làm cộng sản thì cũng vẫn nể sợ chúng
Người Việt Quốc Gia nào có thể đứng chung hàng ngũ với PGVNTN, kẻ phá hoại quốc gia, nuôi ong tay áo, đâm sau lưng chính phủ, đâm sau lưng quân đội và dân chúng Miền Nam?
Người Việt Quốc Gia nào có thể phân ưu và đưa đám Thích Hộ Giác, một tu sĩ nhưng không nổi danh về nhân đức mà lại nổi danh về tài sách động phản quốc và về sex, ngay cả với tuổi đời đã trên 70 y vẫn còn dụ dỗ xâm phạm tình dục những bé gái và các phụ nữ đến chùa mà hồ sơ dày cộm của tòa án về vấn đề sách nhiễu tình dục, dụ dỗ nữ tín đồ bất kể có gia đình hay không của y và Thích Giác Đẳng chúng tôi đang nắm trong tay, tất nhiên chúng tôi sẽ đưa việc này ra công luận trong một ngày rất gần. Với những phẩm hạnh bỉ ổi như vậy, mà vẫn có những kẻ dám dùng màu cờ sắc áo của Quân Đội VNCH để đứng trước quan tài Thích Hộ Giác, một kẻ đã không biết bao nhiêu lần từ đứng trước đám đông hàng chục ngàn người diễn thuyết về cái gọi là những “kẻ thù” của Phật Giáo, về cái gọi là “Diệm mà không Diệm” thề triệt hạ tất cả các “chính phủ VNCH Diệm mà không Diệm” đến giọt máu và hơi thở cuối cùng, kẻ mà Tổng Thống Mỹ phải lên tiếng yêu cầu chấm dứt phá hoại đất nước của mình, chấm dứt việc đẩy quốc gia của mình vào tình trạng hỗn loạn vô chính phủ.
Trên đời này, điều nguy hiểm nhất cho con người đó là việc không biết đâu là trắng đâu là đen, đâu là bạn đâu là thù. Đối với quốc gia thì việc nhận diện kẻ thù là quan trọng nhất. Đối với vấn đề Việt Nam, kẻ thù không phải chỉ có ở bên kia vĩ tuyến 17 mang dép râu đội nón cối, mà kẻ thù còn ở ngay trong hàng ngũ của chúng ta với muôn hình vạn trạng, và loại kẻ thù này nguy hại hơn kẻ thù bên kia vĩ tuyến 17 bội phần. Kẻ thù trong hàng ngũ chúng ta bao gồm những kẻ ruột rất đỏ nhưng vỏ rất vàng, thí dụ như Nguyễn Hữu Hạnh, Phạm Xuân Ẩn, Phạm Ngọc Thảo, những tên cộng sản hành nghề thầy tu như Thích Minh Châu, Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, Huỳnh Liên, Thích Thiện Hoa, Thích Như Ý, Thích Chánh Trực và tay chân “Phật Tử” của chúng như Võ Đình Cường, Võ Văn Ái, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Lê Văn Hảo, hay là những tên thầy tu mở nhiều nạc ít, chuyên nghề phá hoại chính phủ Miền Nam như Thích Nhất Hạnh, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thích Hộ Giác, Thích Thiện Minh. Loại thứ ba này nhiều vô số kể và là loại có tác dụng phá hoại trầm trọng và nguy hiểm nhất. Cộng sản đã cài cán bộ để điều khiển đám thầy tu loại này, và Miền Nam đã khốn đốn vì đám này hơn bao giờ hết, bị rơi vào tình trạng hỗn loạn vô chính phủ trong vòng 3 năm, trong đó đám thầy tu đã chiếm chính quyền Miền Trung, chiếm quốc lộ I, chiếm Đài Phát Thanh, huấn luyện võ trang cho Phật Tử để chống lại quân đội và Cảnh Sát Quốc Gia, bắn cả máy bay của các tướng lãnh, dùng chùa chiền và tượng Phật làm căn cứ địa để chống chính quyền và giết người vô tội. Đâu đó chung quanh sân chùa Từ Đàm, Chùa Tường Vân và một số chùa ở Đà Nẳng đã là những tử địa của hàng loạt người vô tội.
Quả thật khó tin rằng đã có những người Việt Quốc Gia còn đến đưa ma Thích Hộ Giác, đặc biệt là những người dám sử dụng màu áo QLVNCH để chào kính tên bẩn thỉu và phá hoại tày trời này. Màu áo lính trận là màu áo tượng trưng cho 260 ngàn quân dân cán chính VNCH đã nằm xuống để bảo vệ đất nước khỏi bàn tay cộng sản. Mầu áo này còn đại diện cho khí phách của 5 vị tướng QLVNCH, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn Sự và biết bao nhiêu sĩ quan binh sĩ và cảnh sát quốc gia đã tuẩn tiết ngày 30 tháng 4 năm 1975. Những ai khi khoác lên người màu áo trận năm xưa phải nhớ rằng, đó chính là quý vị đã khoác lên danh dự của cá nhân quý vị và danh dự của QLVNCH. Luận anh hùng bất phân thắng bại, đó là chân lý, Quân Lực VNCH thua trên mặt trận súng đạn vì không còn vũ khí đạn dược, nhưng Quân Lực VNCH đã thắng trên mặt trận lương tâm, chính nghĩa, bổn phận công dân và lòng ái quốc. Lịch sử luôn đứng vềphía chính nghĩa, lịch sử không bao giờ đứng về phía bọn cộng sản tham tàn bán nước, cũng như sẽ không bao giờ đứng về phía những tên lưu manh khoác áo thầy tu để hoạt động chính trị như đám Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và chiêu bàiĐàn Áp Phật Giáo của nó.
Tu hành gì những kẻ mặc áo cà sa của PGVNTN?
Lời cuối, những người của chính nghĩa còn sót lại sau cuộc chiến Quốc Cộng đau đớn này, xin vui lòng kính trọng bộ đồng phục mà lịch sử Việt Nam đã kính trọng, đó là bộ đồng phục của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Kính dâng bài viết này lên tất cả những anh hùng tử sĩ đã chết để bảo vệ quê hương khỏi bàn tay cộng sản, ngũ tướng và các sĩ quan binh sĩ khác đã chết theo thành ngày 30 tháng 4 năm 1975, và đặc biệt là Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, Ông trùm tình báo Miền Trung Ngô Đình Cẩn, ông trùm tình báo Miền Bắc Phan Quang Đông và biết bao cuộc đời đã phải chịu oan khiên vì Phong Trào Phật Giáo Tranh Đấu của Hồng Vệ Binh Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Đa tạ.
Hoa Kỳ những ngày cuối năm.
23/12/2012
Trần Minh
0 comments:
Post a Comment