Washington Post ngày 21/3/1965
Thỉnh thoảng, ai đấy từ Phương Tây thăm viếng Bắc Việt và một hay hai
tuần sau xuất hiện để làm lóa mắt thế giới với sự đánh giá sâu sắc về
tình hình chính trị và kinh tế-cộng thêm phần tóm tắt đầy đủ về dư luận
chung ở đấy. Không ai chất vấn ý kiến họ vì, dù sao, họ là những người
chứng kiến hiếm hoi.
Nhưng những cuộc thăm viếng như thế hầu như chẳng giá trị gì. Guồng máy
tuyên truyền cộng sản đã dàn dựng và kiểm soát những cuộc thăm viếng
này. Khách đã được chọn lọc cẩn thận từ trước để bảo đảm khách có thể
thể hiện đúng quan điểm chủ nhà mong muốn. Họ sắp đặt cho khách được
phỏng vấn Chủ tịch nước và Thủ tướng nhằm làm cho lời tuyên bố của khách
thêm phần thuyết phục. Khách còn được đưa đi tham quan những thành tựu
xã hội chủ nghĩa đã được chọn lọc.
Khách không thể nào nói chuyện với một người dân nào ngoài những người
đã được cài cắm để làm cho khách “ngộ ra” bằng những bài vở đã thuộc
lòng, hay khách không thể nào tình cờ nghe một nhận xét hớ hênh nào, hay
đọc một tờ báo nào vì tất cả những người ngoại quốc nói tiếng Việt đều
không được vào trong nước.
Dù ta có thể hiểu nhà cầm quyền cộng sản không cho nhập cảnh những ai đã
từng sống ở trong nước, hiểu biết tiếng Việt hay có những người bạn
Việt Nam tin tưởng họ mà sẵn sàng thổ lộ, nhưng nhà cầm quyền không thể
nào giấu những người như thế những chuyện đang diễn ra.
Để cai trị đất nước, họ phải công bố những chỉ thị, những thay đổi khẩu
phần và những điều tương tự qua báo đài. Họ không thể nào kiểm duyệt tất
cả các thư từ hay chận bắt tất cả những người tỵ nạn-và họ cần thiết
phải phái những viên chức ra nước ngoài.
Như vậy, người nào có kinh nghiệm cần thiết và kiến thức về ngôn ngữ,
qua nhiều năm, có thể hình thành bức tranh chính xác về những chuyện
đang diễn ra ở Bắc Việt từ báo chí nhà nước và từ thư từ và các nguồn
khác. Đây là điều tôi đã và đang làm.
Phấn khởi với chiến thắng bất ngờ đầu tiên đối với người Pháp, và lòng
ngập tràn với bao sung sướng mê say về nền độc lập mới giành được, nhân
dân Bắc Việt Nam hăng hái lao mình vào công cuộc xây dựng thiên đường
chủ nghĩa xã hội mà trước đấy họ đã nghe và đọc rất nhiều.
Nhưng họ đã biết rất ít về mục đích thật sự của những chủ nhân cộng sản
của họ. Chiến dịch cải cách ruộng đất đẫm máu cướp đất của nông dân và
giết oan biết bao nhiêu địa chủ đã châm ngòi cho những cuộc nổi dậy vào
năm 1956 mà đã làm lung lay nền tảng chế độ cộng sản và khiến họ phải
đàn áp bằng vũ lực.
Những chủ cửa hàng, thương gia, và thợ thủ công không còn được buôn bán
và bị phá sản nhân danh chủ nghĩa xã hội giáo điều. Nhiều người tự tử
còn những người khác tranh nhau đi làm phu để có tiền mua lương thực.
Mọi người đều gia nhập các tổ chức nhà nước, từ những phong trào tập thể
trên cả nước xuống đến tận các tổ dân phố, và bị bắt buộc phải tham dự
những lớp học tập chính trị triền miên và các tổ học tập và tham gia
những cuộc biểu tình “tự phát” để ủng hộ hay chống lại điều gì đấy.
Mọi người đều bị bắt buộc tham gia lao động “tự nguyện” không công cho
những công trình đầy tham vọng của nhà nước. Lương cho công việc chính
quy thì thấp hàng hóa lại khan hiếm ngoại trừ trên thị trường chợ đen
nhộn nhịp nhưng đắt đỏ.
Ngày nay sau bao nhiêu năm lao động vất vả để tồn tại, phải lao lực quá
sức, lương thấp và ăn uống kham khổ, người dân chẳng còn quan tâm đến
bất kỳ điều gì ngoài những vấn đề không thể nào giải quyết của họ. Lòng
hờ hững, họ bước đi ngoan ngoãn trong các cuộc biểu tình thường xuyên,
nhưng nét mặt và dáng điệu của họ chứng tỏ rõ ràng rằng những say mê họ
có năm nào giờ đã tan biến.
Lương thực là một vấn đề lớn nhất, và không có hy vọng giải quyết sớm,
Với dân số 17 triệu người, Bắc Việt quá đông dân so với đất nông nghiệp
nó có. Gạo trước đây nhập từ miền Nam giờ không còn nữa và chẳng có tiền
mua lương thực ở nước ngoài. Vào năm 1963 chế độ tính mua lúa mỳ từ Úc,
nhưng chỉ có thể trả bằng các mặt hàng mây tre, sản phẩm thủ công và đồ
mỹ nghệ, mà không thể nào chấp nhận được.
Hàng triệu ngày dân công đã dành cho việc xây dựng những đại công trình
thủy lợi để cải tạo đất nông nghiệp mới, nhưng những lợi ích này chẳng
thấm vào đâu trước mức phát triễn dân số 3.4 phần trăm mỗi năm.
Những biện pháp tuyệt vọng như ra lệnh trồng các cây lương thực xung
quanh tất cả các công sở, trường học, doanh trại, vân vân vẫn không đủ.
Cách đây khoảng độ một năm, hàng trăm ngàn người đã di dân lên các vùng
miền núi khắc nghiệt để cố gắng sinh sống trong khả năng của mình.
Khẩu phần gạo hiện nay là 13,5 ký một tháng, chỉ vừa đủ sống; nhưng
thường chỉ lĩnh thật sự 8 ký một tháng. Khẩu phần gạo còn lại thường quy
đổi ra ngô hay sắn lát, cả hai đều khó nuốt nổi đối với người Việt.
Chính chỉ nhờ vào “những mảnh đất riêng” của nông dân, mà nhà cầm quyền
phải miễn cưỡng cho phép, nạn chết đói trên toàn quốc mới không xảy ra.
Công nghiệp hóa là niềm hy vọng duy nhất của những nhà lãnh đạo cộng
sản, họ dự tính xây dựng những nhà máy nhờ vào sự viện trợ nước ngoài,
sản xuất hàng hóa xuất khẩu, và dùng ngoại tệ kiếm được ấy để mua lương
thực. Công nghiệp hóa cũng tạo ra giai cấp vô sản đáp ứng về mặt chính
trị.
Nhưng viện trợ từ khối cộng sản ít ỏi không ngờ và kế hoạch chuẩn bị
không đầy đủ, vì thế phát triễn chậm và kết quả thường là lãng phí. Hơn
nữa công nhân lại thiếu kinh nghiệm còn ban quản lý được bổ nhiệm trên
cơ sở chính thống chính trị thay vì tài năng-với những hậu quả thê thảm.
Bất tài và lãng phí đầy dẫy, sản phẩm thì kém chất lượng nên thường
không bán được ngay cả ở thị trường trong nước. Tham ô vẫn tiếp tục diễn
ra trên quy mô lớn. Những nỗ lực cấp bách vội vàng đã được thực hiện
nhằm khắc phục những sai lầm này mới đây đã đạt một số thành công, nhưng
cơ sở công nghiệp hiệu quả vẫn còn xa vời.
Hơn một năm qua, không có đủ tiền và tín dụng để nhập khẩu nguyên liệu
nên người ta rất coi trọng vấn đề tự túc- phải dùng đến những nguyên
liệu thay thế ở địa phương. Ta có thể dễ dàng hình dung đến ảnh hưởng
đối với chất lượng sản phẩm.
Bầu không khí thất vọng và tuyệt vọng liệm kín khắp nơi đã và đang là
trọng tâm chính trong mối quan tâm của chính quyền trong suốt năm qua và
nhiều đợt chiến dịch tuyên truyền và giáo dục chính trị liên tiếp đã
được phát động dể chấn chỉnh điều này. Ngay cả Đảng Lao Động (Cộng sản)
cũng bị tác động đến các cấp cao nhất. Những ủy viên Uỷ ban Trung ương
không nêu danh tính đã bị tố cáo là muốn đầu hàng, chỉ muốn lo cho bản
thân và mưu cầu hưởng thụ cá nhân thay vì những thắng lợi cách mạng.
Tất cả điều này bắt nguồn từ một loạt những khó khăn rất lớn giới lãnh
đạo đang đối diện: vấn đề lương thực; chiến tranh ở Nam Việt và Lào;
xung đột giữa Liên Xô và Trung Cộng; bùng nổ dân số. Thật sẽ không dễ
dàng để tạo ra niềm say mê mới hay khai mở ra những sinh lực mới.
Chiến thắng ở Nam Việt sẽ gỡ nhiều khó khăn này. Sự cạn kiệt nặng nề về
ngân sách sẽ chấm dứt; tiếp cận được vựa lúa rất cần thiết và và ruộng
đất bao la ít dân cư ở miền Nam; chế độ thù địch tạo ra mối đe dọa
thường xuyên đối với cộng sản miền Bắc sẽ không còn nữa; tự túc kinh tế
sẽ đạt được dễ dàng.
Những làn sóng tuyên truyền dồn dập không ngừng nghỉ nhắm vào nhân dân
miền Bắc mô tả miền Nam là thuộc địa, và Hoa Kỳ đang thay thế vai trò cũ
của người Pháp. Tuyên truyền ấy nói công luận thế giới đứng về phía
Việt Cộng và những khách nước ngoài được chọn lọc cẩn thận được mời vào
để cho nhân dân miền Bắc vững tin về sự ủng hộ của nước họ dành cho
mình. Tin tức quốc tế được chọn lọc kỹ càng.
Chiến dịch tuyên truyền rất dữ dội và không dứt này tất yếu tạo ra nhiều
tác động mà ta khó mà đánh giá mức độ nhưng trong nhân dân cũng có sự
sợ hãi về những cuộc trả đũa chống lại miền Bắc.
Mới đây nhiều súng phòng không được đặt ở Hà Nội và những hầm tránh bom
thô sơ được đào vội vàng ở bên đường, trong vườn và chung quanh hồ Hoàn
Kiếm. Nhiều người dân Hà Nội đã sơ tán ra khỏi thành phố, mặc dù nhà cầm
quyền đã muốn thực hiện điều này từ lâu và có lẽ lấy việc tránh bom làm
cái cớ có sẵn.
Có lẽ bao nỗi lo sợ của nhiều người dân và mối quan tâm của chính quyền được tóm tắt qua vụ án sau:
Vào ngày 17 tháng Mười Hai vừa qua, thầy giáo trẻ người Công giáo, Lê
Đức Trí, ở làng Đức Long thuộc tỉnh Hà Tĩnh, bị kết án bảy năm tù vì tội
“thành lập các ca đoàn, hội từ thiện, và hội trẻ mồ côi trong giáo
xứ.”Công tố viên tuyên bố Lê Đức Trí đã gây hoang mang lo sợ trong nhân
dân khi nói với những nhóm này về sức mạnh quân sự của Mỹ và quả quyết
miền Nam sắp tấn công miền Bắc và không còn chiến tranh. Bị cáo thậm chí
còn “ca ngợi chính quyền miền Nam Việt Nam.”
Bản án dã man cho điều mà các xã hội tự do sẽ không coi là tội phản ánh
mối lo lắng đến mức ám ảnh của chế độ Bắc Việt về tinh thần suy sụp và
nỗi sợ hãi kinh niên của chế độ về bất kỳ nhóm có tổ chức nào ngoại trừ
những nhóm do cộng sản kiểm soát.
Những nhà lãnh đạo của nhà nước công an trị xiết bao đau khổ, nghèo đói,
và đầy dẫy nghi kỵ như thế ở phía bắc vĩ tuyến 17 đang ra sức tìm cách
áp đặt ách thống trị của họ lên nhân dân miền Nam Việt Nam.
P.J.Honey (1922-2005) là học giả Anh chuyên nghiên cứu về chiến
tranh Việt Nam. Ông từng sống ở cả hai miền Bắc và miền Nam Việt Nam, và
rất thông thạo tiếng Việt. Ông đã dịch tác phẩm của học giả Trương Vĩnh
Ký, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876), sang tiếng Anh.
Nguồn: Báo The Washington Post, ngày 21/3/1965.Tựa đề của người dịch. Nguyên tác tiếng Anh “N.Viet-Nam Looks Sick From the Outside”
0 comments:
Post a Comment