Tôi bắt đầu đếm ngày 30-4-1975 bằng những giọt nước mắt vào sáng ngày
01-5-1975 khi mặt trời vừa lên. Tại sao tôi lại khóc? Thật lòng, cho mãi
đến hôm nay tôi vẫn không hiểu được tại sao tôi khóc vùi vào buổi sáng
hôm ấy. Có phải vì tiềm thức đã báo cho tôi biết trước một cuộc trắng
tay như ba mẹ tôi khi họ phải di cư vào Nam? Có phải từ ngày hôm nay,
mà bắt đầu bằng những cái loa treo ở đầu xóm kia, sẽ đấu tố bản thân tôi
và dân tôi bằng những lời lẽ tanh tao, lợm giọng, sắt máu của lớp vô
văn hóa mới đến? Hay vì từ đây, không phải riêng tôi, nhưng người Việt
Nam đã bị cướp mất bầu trời của hạnh phúc với giấc mơ Hòa Bình trong Tự
Do mà họ từng chiến đấu và ấp ủ? Khóc vì hàng cờ đổ, vì lớp mũ đỏ áo hoa
dù, bên những mũ sắt còn nguyên ngụy trang với màu xanh lá rừng, và
những đôi giày của lính chiến mang theo đầy bụi trên đường giang sơn,
giờ vất ngổn ngang trên đường?
Hay tôi khóc vì hình ảnh của một người lính cô đơn gục đầu xuống trên
đầu gối, ngồi như tựa vào tường trong thế nghỉ, hay đang chờ đợi một
điều gì. Cảnh ngồi lặng lẽ, người đi qua, nào ai biết, người lính với
cái mũ sắt vẫn vững trên đầu, đôi tay anh còn ôm chặt lấy khẩu súng
M16, nhưng… hồn anh đã về với sông núi từ lúc nào! Tôi bước ra sân, gọi
nhỏ, “này anh, anh cần gì không, vào trong này đi”. Lạ, không nghe
tiếng trả lời. Khi đến nơi, tôi nhìn thấy một dòng máu đã khô đặc trên
thân áo. Tôi quỵ xuống, nhìn rõ mặt vết thương xuyên ngang cổ từ phía
tay phải đi lên. Viên đạn đã làm thủng và làm đỏ thêm lá Cờ Vàng anh
quấn trong cổ áo. Tôi bật khóc! Người hàng xóm gào thét lên!
Như thế, người ta gọi đây là ngày gì? Với tôi, đây là một ngày khác tất
cả mọi ngày trong đời và trong dòng lịch sử Việt Nam. Ngày mà người ta
đã gọi nó bằng nhiều cái tên khác nhau. Nhưng xem ra với bất cứ cái tên
nào thì nó cũng diễn tả và đáp ứng được một góc độ nào đó theo cái tên
nó được gọi. Tuy khác, nhưng nó sẽ mãi mãi là một ngày mà dòng sử Việt
Nam còn lưu ký, còn nhắc đến. Nhắc đến như một vết thương đau đớn nhất
của dân tộc.
30-4-1975 ngày chấm dứt chiến tranh Quốc-cộng?
Thật khó để có thể xác định được cuộc chiến súng đạn để giải quyết vấn
đề ý thứ hệ giữa Quốc Gia và Cộng sản đã khởi đầu từ ngày nào. Nếu tính
từ ngày chia đôi đất nước 20-7-1954 thì ngày tạm dứt cuộc chiến bằng
súng đạn, đổ máu trên chiến trường là ngày 30-4-1975. Nhưng bất hạnh
thay, hết chiến tranh mà không phải là ngày Hòa Bình. Không phải là ngày
Thống Nhất của dân tộc Việt Nam. Trái lại, nó là ngày Cộng sản chiến
thắng và đẩy hàng triệu người Việt Nam phải bỏ nước ra đi. Đẩy hàng
triệu người vào các nhà tù, và đẩy hàng triệu triệu người khác vào cuộc
sống khốn cùng. Nói đúng theo tên gọi của họ đặt thì hôm nay là ngày “Man Rợ đã thắng Văn Minh”!
(Dương thu Hương) Phải, chỉ vỏn vẹn 6 chữ được viết ra từ ngòi bút của
một người cầm súng trong hàng ngũ của những người được gọi là bên chiến
thắng khi họ vào Sài Gòn, đã nói lên được tất cả mọi điều cần nói. Trong
đó có cả ý nghĩa, hôm này là ngày khai mở ra cuộc chiến mới. Cuộc chiến
của con người có Văn Hóa, có Nhân Bản, có Đạo Nghĩa đối đầu với cuộc
chiến của man rợ tội ác và dối trá do tập đoàn Cộng Sản cầm đầu. Tính từ
đó, cuộc chiến này đã kéo dài ròng rã suốt 40 năm qua, nhưng chưa có
dấu hiệu chấm dứt. Trái lại, càng lúc càng khốc liệt hơn. Hy vọng khi
nó bước vào giai đoạn khốc liệt nhất thì cũng là lúc Văn Minh, Nhân Bản
và Đạo Nghĩa chiến thắng man rợ, gian trá và tội ác. Bởi vì con người
cần đến nguồn văn minh tiến bộ để sống. Không ai muốn lủi lại sống trong
nô lệ với man di, tội ác!
30-4-1975 có là ngày giải phóng?
Có thể? Vì chiều nào cũng đủ nghĩa trọn lý. Hơn thế, còn được nhìn, định
nghĩa một cách chuẩn xác trong hai thực tế khác biệt mang tính đối
nghịch mà nó diễn tả.
a. Bên được giải phóng.
Thành phần được hưởng giải phóng đầu tiên trong ngày này là các tội phạm
mang án đại hình tại miền Nam như cướp của, giết người và những tên phá
làng đốt xóm bị bắt từ nhiều năm trước. Kế đến là thành phần ăn cơm
quốc gia thờ ma cộng sản, đã ngày đêm nơm nớp lo sợ bị chính quyền và
nhân dân miền Nam chịt cổ. Nay xem ra thoát nạn rồi? Cả hai cùng hòa
nhập vào với dòng thác “cách mạng” Việt cộng, là một tập đoàn quan trọng
hơn, đông đảo hơn. Tập đoàn này bao gồm những kẻ ở trong đội quân mũ
cối dép râu hay cái mũ tai bèo và các cấp lãnh đạo CS, đã, đang và sẽ từ
rừng xanh, hay từ phía bên kia kéo nhau vào Sài Gòn. Kéo nhau vào Sài
Gòn để ngỡ ngàng trước cảnh lạ. Từ nhà cao cửa rộng đến đường phố thênh
thang sạch sẽ vời những con người văn minh lịch duyệt, tao nhã dù đang
cuống cuống vì cuộc chiến vừa tàn mà phần thắng không thuộc về họ. Vào
để thấy chính mình là người được giải phóng.
Như thế, từ Giải Phóng được dành cho lớp người này và công cụ gây ra
chiến tranh chia lìa, chết chóc của họ là đứng đắn nhất và chính xác
nhất. Tại sao? Bởi vì, đôi mắt cũng những đôi mắt ấy. Đôi tai, cũng rõ
ràng là đôi tai của người. Nhưng nó đã bị che kín, bịt chặt suốt cuộc
đời từ khi sinh ra đến hôm nay. Họ có muốn nhìn cũng không thấy. Muốn
nghe không được. Thậm chí có cái miệng mà như câm, hoặc chỉ được nói,
được nghe những điều được đảng CS cho nói, cho nghe. Ngoài ra là không.
Không tất cả.
Nhưng nay, nhờ ngày 30-4-1075, từ lớn tới nhỏ, tất cả đều được mở banh
ra. Mở banh ra để nhìn cảnh sống, cuộc sống và những con người miền Nam
trước mặt. Nhìn để thấy, để biết so sánh sự thật trước mặt với những
lời gian trá lừa đảo của tổ chức, của đảng CS đã tuyên truyền, nhồi sọ
và đẩy họ vào cuộc chiến đẫm máu với người dân miền Nam. Cuộc chiến mà
chúng gọi là “đánh Mỹ cứu nước” và “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”,
mà thực ra đây chỉ là một cuộc đâm thuê chém mướn, giết người đồng
chủng do tập đoàn nô lệ Minh, Duẩn, Đồng, Chinh, Giáp, Thọ... thực
hiện.
Gọi đây là cuộc chiến “đâm thuê chém mướn” vì nó đúng nghĩa, chính danh như chính người lãnh đạo của cuộc chiến đã định nghĩa công khai về cuộc chiến này là “ta đánh là đánh cho Trung cộng cho Liên xô và cho xã hội chủ nghĩa”, “chúng tôi kiên cường chiến đấu là vì Mao chủ tịch”
(Lê Duẩn). Như thế là quá rõ ràng. Không một người nào có thẩm quyền
định nghĩa về cuộc chiến hơn chính người đã tạo ra và lãnh đạo nó. Sau
định nghĩa công khai ấy, chiêu bài bịp bợm “giải phóng miền Nam” được
khua chiêng đánh trống, tập đoàn CS đã đẩy hàng triệu thanh niên miền
bắc vào chiến tranh để có kiếp nạn sinh Bắc tử Nam. Và đẩy người dân đất
bắc vào cuộc sống lầm than với mớ tuyên truyền sọt rác, bệnh hoạn: "Cuộc
sống của nhân dân miền Nam dưới gót giày xâm lược của Đế quốc Mỹ vô
cùng nghèo khổ. Cơm không có mà ăn, quần áo không có mà mặc. Thậm chí,
nhiều người phải lấy túi nylong mà quấn trên người để “bác” không bị lòi
ra ngoài"!
Nay hỡi ôi, trước mặt họ là một cảnh tượng sang trọng, văn minh lịch
lãm mà đời họ chưa một lần nhìn thấy trong sách vở ở cái thiên đường
cộng sản tại miền Bắc, nói chi đến cảnh thực. Bàng hoàng và bàng hoàng. “ĐM nó, bị chúng lừa gạt rồi”!
Ngay lập tức, hàng vạn, hàng triệu người vừa đến đều có chung một câu
nói ấy. Trong số, có nhiều người đang làm công tác tuyên truyền để góp
phần vào việc che mắt, bịt mồm, che tai đồng loại như Bùi Tín, Trần Xuân
Ẩn, như Dương Thu Hương, “đã ngồi bệt xuống giữa đường phố Sài Gòn mà khóc” và gào lên trong uất nghẹn tủi hờn ôi, “Man di mọi rợ thắng Văn Minh”! Phải, “Man đi, mọi rợ, tội ác đã thắng văn minh và nhân bản".
Chỉ vỏn vẹn một hàng chữ ấy đã có thể giải thích một cách chuẩn xác là:
Bên kia, kể cả thành phần từng theo đóm ăn tàn, nấp bóng miền nam để
hoạt động cho cộng sản, là những kẻ nhờ có ngày 30-4-1975 mà được giải
phóng.
Từ đó, ngày 30-4-1075 có thể được gọi là “Ngày giải phóng”! Và
thành phần được giải phóng chủ yếu là những kẻ đang rêu rao và trợ giúp
cho cái chiến thắng “vĩ đại” đầy ảo tưởng kia. Hơn thế, nó cũng đáng
được gọi là giải phóng. Vì từ sau ngày ấy, tất cả những hình ảnh, văn
bản bán nước, lời lẽ tuyên truyền do cộng sản lén lút hay công khai dấu
diếm che đậy, nay tất cả đều được giải phóng. Cái mặt nạ “cách mạng” của
CS đã cố che đậy từ bấy lâu nay từ rừ tụt xuống qua đầu gối!
- Trước hết, sau ngày 30-4-1975 mặt nạ của Hồ Chí Minh, "cha già" của Việt cộng theo nhau rớt xuống từng mảng, để ngày nay hầu như đã hiện nguyên hình là một viên thiếu tá tình báo Trung cộng, là đảng viên đảng cộng sản Trung Cộng với cái tên là Hồ Quang, người Hẹ. Hồ Quang không phải là Nguyễn Ái Quốc như tôi đã viết trong "đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi". Hồ Quang có thể không có một chút liên hệ nào với dòng máu của người Việt Nam. Kế đến, chuyện Hồ chí Minh được đảng cộng sản tô son vẽ phấn là “bác không có vợ con, suốt đời phục vụ nhân dân” đã tuột hẳn xuống qua đầu gối, lòi ra vụ Hồ chí Minh đã hãm hiếp (hủ hóa) Nông Thị Xuân ngay từ lúc em mười sáu tuổi. Đến khi Xuân có bầu, sinh con thì Minh lệnh cho Hoàn thủ tiêu và phi tang bằng vụ tại nạn lưu thông. Nhưng trời bất dung gian, chẳng có cái xe ma nào chạy trên đường để cán lên cái xác của Nông đã chết vì những nhát búa đập vào đầu, để cứu Hồ Chí Minh. Phần đứa con thì bị đem cho làm con nuôi!
- Rồi công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng năm 1958, đến âm mưu của tập
đoàn CS HCM muốn giao cả giang sơn và người Việt Nam cho TC theo kế
hoạch đồng hóa của đảng cộng sản qua Đặng Xuân Khu (1951) “kêu gọi người Việt Nam bỏ chữ Quốc ngữ, học chữ Tàu, uống thuốc Tàu để được xin làm chư hầu cho Trung cộng” được phơi bày ra ánh sáng.
- Và nhờ ngày 30-4-1975, những hung thần như thú hoang của cộng sản là Nguyễn Hộ với câu tuyên bố lẫy lừng “Đối
với bọn Ngụy quân, Ngụy quyền, nhà của chúng: ta ở; vợ của chúng: ta
xài; con của chúng: ta bắt làm nô lệ; còn bọn chúng nó: ta giam cho đến
chết!.” đã được giải phóng, đã mở mắt ra để tạ tội với đồng bào, tạ
tội với non sông bằng cách xé nát thẻ đảng CS và để lại cho người đi sau
“Câu lạc bộ kháng chiến thành phố”. Trong đó thái độ nhận thức của ông đã được viết ra một cách rất đáng trân trọng "Bây
giờ trên đầu tôi, không còn bị kẹp chặt bởi cái “kềm sắt” của chủ nghĩa
Mác-Lênin, của Đảng cộng sản nữa. Do đó, nó cho phép tôi dám nhìn thẳng
vào sự thật và dám chỉ ra sự thật... Khác với trước đây, khi còn là
đảng viên của ĐCSVN - một thứ tù binh của Đảng - tôi chỉ biết nói và suy
nghĩ theo những gì mà cấp trên nói và suy nghĩ, còn hiện nay, tôi suy
nghĩ rất thoải mái, không bị một sự hạn chế nào khi tư tưởng của tôi đã
thực sự được giải phóng." Và trong số những kẻ được giải phóng tại chỗ phải kể đến một số người khác như tướng Trần Độ với "Rồng Rắn". Sau này là Vũ Thư Hiên (Đêm Giữa Ban Ngày). Trần Đĩnh, tác giả của Đèn Cù.
Một cuốn sách đã gây ra chấn động ở trong nước cũng như hải ngoại vì
nhiều chi tiết liên quan đến phương cách đào tạo và kiểm tra lòng trung
thành của các đoàn đảng viên CS được tiết lộ.
- Kế đến là những “bà mẹ anh hùng”, những người nuôi ăn cán bộ
CS, che dấu Việt cộng ở trong nhà. Điển hình nhất là trường hợp bà
Nguyễn Thị Năm, đã được tập đoàn Hồ Chí Minh trả ơn bằng một bản án đấu
tố đầu tiên vào năm 1953. Nay đến các "bà mẹ anh hùng" trong Nam. Sau
khi nhìn thấy Việt cộng vào phố và những cung cách của chúng, họ đã sáng
mắt ra. Họ đã được giải phóng, được nhìn thấy mọi gian trá của CS. Hơn
thế, mở mắt ra để đối diện vói một sự thật phũ phàng CS dành cho họ.
b. Với bên bị giải phóng.
Bên bị giải phóng bao gồm toàn thể quân dân miền Nam, người dân miền
Bắc, những con người lương thiện, nhân bản đã hết lòng hy sinh bảo vệ
tiền đồ của đất nước. Bảo vệ văn hóa, nhân phẩm, đạo nghĩa của con
người. Kết quả, một chiều “man di mọi rợ thắng Văn Minh”, thế
gian bỗng nhiên ra khác. Tất cả đều bị giải phóng. Bị tước đoạt tất cả
mọi quyền hạn thuộc về con người. Rồi bị đẩy ngược, lùi lại thời nô lệ,
thời của man di mọi rợ. Ở đó, là dối trá và tội ác của cộng sản dẫn đầu.
Ở đó là một nền giáo dục phản nhân tính con người được CS thi hành để
đầy toàn dân đi vào con đường phi nhân Vô gia đình, Vô Tôn Giáo, Vô Tổ
Quốc của chúng. Từ đó, một đời sống nhân bản bao gồm cả sự đạo hạnh, văn
hóa, nhân phẩm của dân tộc bị chà đạp, bị tước đoạt một cách điên cuồng
bởi lớp người man di mọi rợ đến từ rừng hoang. Để tránh tai họa, họ
đành liều mình đạp trên cái chết ở biển khổ mà đi. Đi để tìm nguồn sống
cho mình cho gia đình mình và cho một tương lai tốt đẹp hơn cho đất
nước. Ngày mai, khi đất nước không còn cộng sản, tôi tin chắc chắn rằng,
chính con cháu của họ lại là những người hữu dụng, góp bàn tay, góp trí
tuệ và tích cực đóng góp công sức của họ vào việc xây dựng lại một Việt
Nam Nhân Bản, Văn Minh, có Đạo nghĩa.
30-4-1975, có là một ngày mừng?
Nhìn từng đoàn, từng lớp lớp người bị đẩy ra đường phố Hà Nội để vẫy tay
chào mừng, bên cạnh những nụ cười lộ rõ những hàm răng bừa, răng quá
khổ của lớp quan cán cộng, ai cũng cho đó là ngày mừng. Theo lý, quả
thật là ngày mừng. Mừng vì hôm ấy là ngày chấm dứt chiến tranh. Từ nay,
người miền Nam không còn phải ăn mìn của Việt cộng khi chúng đắp mô trên
đường. Rồi trong đêm dài, hay khi trẻ thơ đến trường, không lo phải ăn
B40, hỏa tiễn 121, 122 hay sơn pháo 130 và đạn AK được cung cấp từ Nga
Tàu như ở Cai Lậy nữa. Rồi ở ngoài kia, cán cộng và những cơ sở nuôi
dưỡng chiến tranh của chúng không phải hứng bom rơi đại pháo nữa. Như
thế, lý ra là phải mừng. Mừng lớn. Ai ngờ, tất cả là một chữ hụt. Mừng
hụt! Bởi lẽ, theo lời cô tôi kể là: “Hàng trăm, hàng ngàn người bị
đẩy ra đường để mừng chiến thắng ở khắp nơi trên đất Bắc. Nhưng trên mặt
thì đầy nước mắt. Họ bảo mừng quá mà khóc! Nhưng với lòng dân thì khóc
một lần để rồi thôi chờ đợi. Sự chờ đợi mỏi mòn của họ nay đã có đáp
số. Nước mắt tuôn ra là nước mắt của tuyệt vọng trong chờ đợi được Cụ
Diệm, Bác Thiệu, từ trong Nam ra giải phóng kiếp tăm tối, nô lệ của họ.
Nay lại vỡ òa, khóc trước cho một miền Nam sẽ vào chung trong một cái
tròng cộng sản.” Ấy là chưa kể đến chuyện, rồi đây từng lớp lớp
người già, người trẻ sẽ kéo nhau lên rừng sâu, leo dọc Trường Sơn bới
đất mà tìm xương con mình! Khi ấy khéo mà khóc không ra nước mắt! Chuyện
như thế, mừng được không?
Đi ngược chiều với người dân, hàng quan cán cộng thì cười văng cả hàm
răng bừa ra ngoài! Từng lớp, từng hàng hàng thay nhau vào vơ vét của cải
ở miền Nam đem về. Gạo trắng, một mặt hàng cực hiếm ở miền Bắc, bỗng
nhiên tràn ngập tất cả các chợ ở miền Bắc?
- Gạo ở đâu ra thế?
- Từ miền Nam mang ra đấy. Gạo trắng ở trong ấy có đổ cho lợn ăn cũng không hết!
Nghe thế, bà mẹ liệt sĩ bao năm phải nhịn ăn để có “hạt gạo cắn làm tư, một phân dành cho miền Nam đói khổ” xắn váy lên chửi:
- “Tổ cha nhà chúng nó, vậy mà chúng nó lừa bà là ở trong ấy nghèo khổ lắm, hạt gạo phải cắn làm tư mà chi viện cho họ”!
Riêng anh cán, chị hộ lý tự nhiên thấy mình lên trên đỉnh cao chói lọi
của hạnh phúc khi kẹp ở bên nách cái đài transistor từ miền Nam đem về.
Anh chị cùng chạy đua mở lớn hết cỡ cho cả xóm cùng nghe cho vơi đi
những ngày đói khổ. Ôi tuyệt đỉnh của man rợ vừa chiến thắng! Điện, Đài,
Đồng, Đạp, (đèn pin, radio, đồng hồ, xe đạp) là những thứ quá tầm
thường tại miền Nam từ nhiều năm trước, nhiều cái Đài đã từng bị vất vào
góc nhà ở miền Nam, nay bỗng trở thành một thành tích, một giấc mơ vĩ
đại, một đỉnh vinh quang tuyệt đối cho mỗi một quan cán có dịp vào Nam
và đem về Bắc! Họ mừng là phải. Vì không có ngày này, giấc mơ “Điện,
Đài, Đồng, Đạp” có thể vào mộ sâu, hay đi theo nắm xương khô trên Trường
Sơn, hoặc phơi trần bên bờ hồ Hoàn Kiếm! Như thế, nếu đây là ngày “có
triệu người vui” thì có hàng triệu triệu người buồn!
30-4-1975, Có là ngày đoàn viên?
Thật khó mà tìm được chữ đoàn viên mặc dù có một số gia đình có dịp đoàn
tụ. Thật vậy, hoàn cảnh các gia đình tại Việt Nam sau ngày 30-4-1975 là
những cuộc chia ly, tan nát. "Sài Gòn ơi, ta có ngờ đâu rằng, một lần đi là một lần vĩnh biệt, một lần đi là một lần mất dấu quay về…" (Nguyệt
Ánh) Lời ca bi thương ấy, trong chúng ta, ai chưa từng biết đến chia
ly? Nay biết bao người phải chia tay Sài Gòn và nhiều người đã phải
vĩnh biệt với những yêu dấu ở một nơi đã cho họ cuộc sống và một ước mơ
với quê hương và dân tộc Việt? Như thế, Sài Gòn đã mất, người Việt Nam
chỉ thấy chia ly, không có đoàn viên, chẳng có đoàn tụ.
Còn người mới đến thì ra sao? Có tìm được một lối quay về và đoàn viên
không? Xin hãy nghe Trần Đĩnh kể lại cuộc “đoàn tụ” của người về như
sau: “Vài hôm sau, ở Huỳnh Tịnh Của, tình cờ gặp Minh Trường, phóng
viên nhiếp ảnh Thông tấn xã năm 1971 đã cùng tôi vào vùng rốn lụt của
Hải Dương. Anh thuộc lớp người đầu tiên về Sài Gòn chiến thắng. Nhưng
anh đã nếm một chiến bại đớn đau. Hơn một năm sau kể lại với tôi, giọng
anh vẫn run run như nghẹn lại. Lẽ tất nhiên anh rất vui khi lần đầu tiên
trở lại đứng trước nhà mình bấm chuông. Thì mẹ anh mở cửa. Thì mẹ liền
chắp hai tay lạy: - Anh còn sống thì tôi mừng nhưng anh về thì tất cả
các đứa con bao lâu nay sống với tôi, chăm sóc phụng dưỡng tôi đều đã bị
các anh lôi đi tù hết mất rồi. Anh về thì nhà này tan nát, thì tôi trơ
trọi. Thôi, tôi xin anh, anh đi với đồng chí của anh đi cho mẹ con tôi
yên..." (Đèn Cù 485) . Như thế, chuyện đoàn viên trong vui mừng,
hạnh phúc, vĩnh viễn là chữ không, sự đoàn tụ gượng ép ở trong nhà cũng
không có, nói chi đến đoàn viên của xã hội!
30-4-1975, có là ngày uất hận, ngày tủi nhục của cả non sông?
“Gia đình tôi có hai liệt sĩ: Nguyễn Văn Bảo (anh ruột) - Đại tá Quân
đội Nhân dân Việt Nam - hy sinh ngày 09.01.1966 trong trận ném bom tấn
công đầu tiên của quân xâm lược Mỹ vào Việt Nam (vào Củ Chi); Trần Thị
Thiệt (vợ tôi) - cán bộ phụ nữ Sài Gòn - bị bắt và bị đánh chết tại Tổng
nha Cảnh sát hồi Mậu Thân (1968), nhưng phải thú nhận rằng chúng tôi đã
chọn sai lý tưởng (là đi theo): cộng sản chủ nghĩa. Bởi vì suốt hơn 60
năm trên con đường cách mạng cộng sản ấy, nhân dân Việt Nam đã chịu sự
hy sinh quá lớn lao, nhưng cuối cùng chẳng được gì, đất nước vẫn nghèo
nàn, lạc hậu, nhân dân không có ấm no, hạnh phúc, không có dân chủ tự
do. Đó là điều sỉ nhục” (Nguyễn Hộ).
Ở một khía cạnh khác. Cũng sau ngày này, người con gái Việt Nam, con
cháu của Trưng, Triệu, bị Nguyễn Minh Triết, chủ tịch cái nhà nước gọi
là CHXHCNVN biến thành gái gọi, gái bao với lời rao bán, chào hàng, mời
gọi khách hàng một cách vô văn hóa, vô đạo đức: “vào đi các ông, ở đấy có nhiều gái đẹp”.
Câu mời khách của một tên ma cô gác động ở Khâm Thiên, ở ngã ba Chú ía,
có lẽ cũng bằng ngần ấy từ ngữ! Kết quả, sau lời mời ấy là từng toán
thiếu nữ Việt Nam tuổi từ 18-25 được lột trần truồng ra cho những tên
già lão, bệnh hoạn mang tên Tàu Đài Loan, Đại Hàn, Tàu Trung cộng ngắm
nghía, soi mói và bỏ ra ít tiền để mua về làm... vợ. Và từng đoàn khác
thì được xuất cảnh với danh nghĩa lao động ở nước ngoài mà thực chất là
bị bán vào các ổ, động ở Mã Lai, Trung cộng... Ngần ấy đủ nói lên cái
uất hận và tủi nhục cho giang sơn hay chưa?
30-4-19075 có là ngày Thống Nhất?
Vì theo đuổi cuộc chiến tranh “Ta đánh Mỹ là đánh cho Trung Quốc, Liên Xô cho xã hội chủ nghĩa” và “tất cả những công việc của chúng tôi làm đều phụ thuộc vào Mao chủ tịch” (Lê
Duẩn) Việt cộng đã tạo ra ngày 20-7-1954 chia cắt đất nước ra làm hai,
tạo nên một cuộc chia ly tang thương nhất trong lịch sử Việt Nam. Cuộc
chia ly ấy có đến một triệu người phải bỏ miền Bắc, phải bỏ nơi chôn
nhau cắt rốn, phải bỏ lại cả cha mẹ, anh em, họ hàng, bạn bè để trốn
chạy cộng sản, di cư vào Nam. Kế đến Việt cộng tạo nên một biển máu
trong cuộc chiến tại miền Nam. Lại đẩy hàng triệu thanh niên miền Bắc
vào kiếp nạn sinh Bắc tử Nam. Đã giết hại hàng trăm ngàn quân, dân,
chính, học sinh tại miền Nam. Nay 30-4-1975, cộng sản lại tràn vào Sài
Gòn. Ranh giới là cầu Bến Hải do chúng tạo ra chia cắt tuy được xóa bỏ.
Nhưng thực tế đã cho thấy, lãnh thổ được coi là thống nhất, nhưng cũng
có quá nhiều phần đất như Hoàng Sa, Trường Sa, Nam Quan, Bản Giốc, Lão
Sơn, bãi biển Tục Lãm và một phần vịnh Bắc Bộ đã bị cộng sản dâng cho
Trung cộng.
Phần diện địa đã thế, đến phần tinh thần, CS không bao giờ thống nhất
được lòng dân, trái lại, là tạo ra quá nhiều ly tán, bạc nhược, suy đồi.
Nếu điều gì người dân ngày nay có thể tự thống nhất được với nhau thì
đó chính là lòng căm thù cộng sản! Thực tế nhá, chỉ cần một học sinh 18
tuổi đời cũng đã biết viết nên một hàng chữ diễn tả được nỗi lòng của
toàn dân Việt Nam: “đảng cộng sản hãy đi chết đi” (Phương Uyên).
Em biết, nếu chúng chết đi, người dân có cơ hội Thống Nhất để xây dựng
lại đất nước. Nếu không, chỉ thấy từng đoàn người, nay có cả cán cộng
nhập cuộc nữa, nhấp nhổm tìm mọi cách bỏ nước ra đi. Nước không giữ được
dân thì làm gì có chữ Thống Nhất!
30-4-1975 mãi mãi là Ngày Quốc Hận!
Với những điều tôi nêu ra ở trên, dù còn rất nhiều điều cần phải nói đến
nữa, cũng là quá đủ để minh chứng rằng 30-4-1075 Mãi Mãi Là Ngày Quốc
Hận. Mãi Mãi là Ngày Quốc Hận bởi vì vào ngày 30-4-1975, chỉ có một kẻ
duy nhất chiến thắng, đó là đảng Cộng sản Việt Nam. Kẻ bại trận chính là
Dân Tộc, là Toàn Dân Việt Nam. Vì chiến thắng trong cuộc chiến do chính
CS gây ra, nên tập đoàn đảng cộng sản đã cướp, chiếm đoạt hoàn toàn
chính quyền và nền chính trị tại Việt Nam. Từ đây, đảng CSVN đã biến
chính quyền thành nhà nước CHXHCN, thành một tổ chức phi nhân, thành một
cánh tay hợp pháp để CS chiếm đoạt, tước đoạt mọi công quyền và nhân
quyền của người dân Việt Nam.
Đảng cộng sản đã biến nhà nước CHXHCN thành một công cụ hợp pháp để
chiếm đoạt và cưỡng đoạt quyền tư hữu của người dân. Tổ chức cướp tài
sản, cướp nhà, cưóp đất, cướp ruộng vườn, cướp các cơ sở kinh doanh của
nhân dân Việt Nam, lúc trước là mùa đấu tố, sau này là cái gọi là quy
hoạch. Mục đích, trước là phá nát đời sống an bình, yên vui của người
dân, sau là thu tóm mọi tài sản của đất nước vào tay đảng cộng sản. Đảng
Cộng sản đã biến nhà nước CHXHCN thành một công cụ hợp pháp để tuyên
truyền một thứ văn hóa và đạo đức thô bỉ, hạ cấp của Hồ Chí Minh với mục
đích phá nát nền Văn Hóa Nhân Bản và luân thường đạo nghĩa của xã hội
và của các tôn giáo tại Việt Nam. Và đảng CS đã biến nhà nước thành công
cụ hợp pháp để CS bắt bớ và bỏ tù, đàn áp tất cả những tinh hoa của đất
nước.
Nhờ 30-4-1975, đảng CSVN, một tập đoàn phản quốc đã biến nhà nước CHXHCN
thành một công cụ hợp pháp để chúng có chính danh bán đất đai, biển đảo
của Tổ Quốc Việt Nam cho Trung Cộng qua các Công Hàm 1951 và các Hiệp
Thương, Hiệp Ước biên giới, cũng như các khế ước thuê bao rừng đầu nguồn
và khai thác Bauxite độc hại ở cao nguyên để di họa cho dân chúng mai
sau. Ấy là chưa kể đến chuyện chúng luôn tạo điều kiện cho các nhà thầu
Trung Cộng độc chiếm mọi công trình xây dựng cơ sở hạ tầng tại Việt Nam,
chiếm hết mọi nguồn lợi kinh tế của người dân Việt Nam. Kế đến, tập
đoàn đảng CSVN đã biến nhà nước này thành một công cụ hợp pháp để chúng
tự ký mật ước Thành Đô nhằm biến Việt Nam thành một tỉnh bang trực thuộc
Bắc Kinh, biến dân tộc Việt thành một thứ Hán nô lệ vào năm 2020? Nếu
điều này xảy ra thỉ tập đoàn này nên nhớ rằng. Tất cả những tội ác Cộng
sản đã gây ra cho người dân trong chiến tranh, còn có thể bào chữa, còn
có chỗ bao che, dung thứ. Nhưng tội phản quốc, tội bán nước, một trọng
tội đối với Tổ Quốc, đối với hồn thiêng sông núi, đối với anh linh của
tiền nhân, đối với máu xương của dân tộc Việt Nam, vĩnh viễn trời không
tha và đất chẳng dung, nói chi đến con người.
Lời kết
Người Việt Nam không có nhu cầu thù hận nhau, hay hận thù bất cứ một ai.
Họ chỉ có một ngoại lệ duy nhất là dành nó cho tập đoàn đảng Cộng sản
tại Việt Nam mà thôi. Theo đó, mọi người đều khẳng định rằng. Đường đi
là vạn nan, nhưng chỉ cần một lần giải quyết là đủ. Hiện nay, lòng dân
càng lúc càng mãnh liệt đòi hỏi Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền, Công Lý. Ý
thức của mỗi cá nhân, của các đoàn thể mỗi lúc một dâng cao. Nhiều
người, nhiều nơi đã vượt qua sự sợ hãi để tiến đến những cuộc phản đối,
đình công biểu tình tập thể. Nhiều gia đình trước cảnh cướp ngày của
Việt cộng đã theo Đoàn Văn Vươn dương cao biểu ngữ: “Gia đình tôi thề quyết tử chống bẻ lũ CSVN cướp ngày đến hơi thở cuối cùng...” Lời thề ấy, trước là để bảo vệ lấy quyền sống và quyền lợi của mình sau là “cảnh tỉnh đồng bào về đại họa cộng sản”. Tất cả đang bước vào cuộc chiến không khoan nhượng với đảng cộng sản.
Theo đó, còn cộng sản là còn Quốc Hận. Còn CS là còn đấu tranh. Cuộc
tranh đấu là vạn nan, nhưng chỉ cần một lần giải quyết là đủ: “Đánh cho Tàu cút, đánh cho Cộng tan”
là nhà nhà đoàn viên. Cả nước hân hoan trong ngày mừng Độc Lập và Thống
Nhất Dân Tộc trong Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền và Công Lý.
Hỡi đồng bào ơi.
Nào ta đi cho ngày mai đổi mới,
Nào ta về cho đất nước hồi sinh.
Chị ngã xuống, em đứng dậy,
Diệt cho hết phường bán nước hại dân.
Mẹ phất cờ, con ra trận,
Quét cho sạch bọn bành trướng bắc phương.
Cho ngàn ngàn sau dỏng sử Việt còn lưu danh cùng trời đất,
Cho vạn vạn thế, người nước Nam cùng bốn bể an lạc, hòa minh.
4-2015
4-2015
0 comments:
Post a Comment