Trúc Giang MN
1* Mở bài
Ngày
30 tháng 4 là dịp để chúng ta tưởng niệm và vinh danh các anh hùng, tử
sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã nêu cao tinh thần chiến đấu
chống kẻ thù đến hơi thở cuối cùng. Nhất định không sống dưới chế độ độc
tài Cộng Sản.
Những
anh hùng vô danh của Quân Lực VNCH được nhắc nhở đến với tinh thần “anh
hùng tử, khí hùng nào tử” (Người anh hùng chết nhưng chí khí anh hùng
không chết). Các vị tướng lãnh đã tuẫn tiết được nhớ đến như “sinh vi
tướng, tử vi thần” (Sống làm tướng, chết thành thần).
Tưởng
niệm, vinh danh những anh hùng đã vị quốc vong thân không gì bằng tiếp
bước cái ý chí của họ trong cuộc chiến mới. Đó là đấu tranh thiết lập
dân chủ, tự do cho đồng bào Việt Nam trong cả nước. Mang những quyền tự
do căn bản được ghi trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (The
Universal Declaration of Human Rights) được Đại Hội Đồng LHQ thông qua
ngày 10-12-1948 tại Palais de Chaillot ở Paris, Pháp.
Đảng
Cộng Sản Việt Nam không xứng đáng lãnh đạo đất nước vì đảng tham nhũng,
nhất là thái độ hèn với giặc, ác với dân, nhưng tội nặng nhất là truyền
thống bán nước của Đảng, từ Hồ Chí Minh-Phạm Văn Đồng đến Nguyễn Văn
Linh-Đỗ Mười, đến Lê Khả Phiêu và sau đó là Lê Đức Anh, đã dâng những
đảo ở Trường Sa cho Trung Cộng.
Tội
lớn nhất là đưa cả dân tộc Việt Nam vào chế độ độc tài, tàn bạo Cộng
Sản, đã bị kết án về tội diệt chủng và tội chống loài người, một chế độ
đã bị lịch sử ném vào sọt rác của nhân loại.
Tấm
gương hy sinh của những anh hùng trong Quân Lực VNCH là ngọn đuốc soi
sáng để người VN yêu nước nối bước trong cuộc đấu tranh mới là xây dựng
dân chủ, tự do và nhân quyền cho đồng bào trong nước.
Cuộc
đấu tranh mới trên hai mặt trận: Với Việt Cộng trong nước và với cái
đám tay sai bợ đít nâng bi Việt Cộng, thực hiện tuyên truyền và đánh phá
các đoàn thể đấu tranh ở hải ngoại.
2* Thà chết chớ không chịu đầu hàng, không sống chung với Cộng Sản
2.1. Đại Úy Phan Hữu Cương
Đại Úy Phan Hữu Cương, thà chết chớ không chịu sống chung với kẻ thù.
Đêm 1-5-1975, Đại Úy Phan Hữu Cương cùng vợ là Trung Úy Nữ Quân Nhân Trần Mai Hương uống thuốc độc tử tử.
Bà
Phan Cẩm Anh, bạn của Trung Úy Mai Hương cho biết, cặp vợ chồng nầy
cùng tự tử vào buổi tối ngày 1-5-1975, nhưng sáng hôm sau Trung Úy Mai
Hương được cứu sống. Đó là do người cháu phát hiện và đưa đi cấp cứu.
Các bác sĩ đã nổ lực dành sự sống mong manh trong cái chết.
Người
bạn của Đại Úy Phan Hữu Cương là Đại Úy Nguyễn Văn Nhựt, tùy viên của
Phó Tổng Thống Trần Văn Hương thuật lại, sau khi Dương Văn Minh tuyên bố
đầu hàng thì anh Cương đến gặp tôi và nói: “Hôm nay còn được gặp nhau,
hãy cùng uống với nhau một vài ly cuối cùng. Ngày mai sẽ không còn có
dịp gặp mặt nhau nữa vì tôi không còn ở trên cõi đời nầy”.
Bảy năm sau, bà Trần Mai Hương đã mang ba đứa con trai vượt biên và được định cư ở Hoa Kỳ.
Bà hy sinh cả cuộc đời còn lại, vất vả nuôi con, tất cả đều lớn khôn và thành đạt.
Mấy
chục năm sau. Một trong những người con của Đại Úy Cương quyết định trở
về quê hương để tìm lại hình ảnh của người cha đã tuẫn tiết khi anh vừa
tròn 16 tháng tuổi. Anh phải về vì chỉ có bà nội anh mới biết phần mộ
của cha anh ở đâu mà thôi.
Anh trang trọng giữ lấy những hình ảnh của cha mẹ trong ngày cưới.
Về
phần mộ, bà nội anh cho biết đã an táng tại một nghĩa trang ở Sài Gòn,
nhưng sau đó Việt Cộng san bằng nghĩa trang nên người nhà đem hài cốt đi
hỏa thiêu và tro cốt đặt tại một ngôi chùa. Và sau đó đem ra rải trên
dòng nước của Sông Đồng Nai.
Người con của Đại Úy Cương là nhà báo Phan Trần Hiếu, ký giả của tờ The Orange County Register, Nam Cali.
Nhiều
bài báo nói về người cha của anh đã được quảng bá trong độc giả, nhưng
nói chung Đại Úy Phan Hữu Cương là một anh hùng vô danh, đã tự chọn cái
chết, quyết không đầu hàng, không sống chung với kẻ thù.
2.2. Trung Tá Nguyễn Văn Long
1). “Máu của Trung Tá Nguyễn Văn Long đã thấm xuống lòng đất mẹ”.
Tổng hợp những thông tin về cái chết của Trung Tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long.
Lúc
10 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, Dương Văn Minh đọc lịnh đầu hàng. Nhiều
quân nhân lột bỏ quân phục, súng ống…Trung Tá Nguyễn Văn Long vẫn giữ
nguyên quân phục, huy hiệu cảnh sát và bản tên trước ngực với khẩu súng
Colt 45.
Một
nhân chứng kể lại. Người ta không biết ông từ đâu đến. Ông xuất hiện ở
công trường Lam Sơn, dưới tượng đài Thủy Quân Lục Chiến trước tòa nhà Hạ
Viện. Ông ngồi trên ghế đá, trầm ngâm hút thuốc. Hai tay ôm lấy đầu.
Bất chợt ông đứng dậy tiến đến gần tượng đài, nằm xuống ngay ngắn, kê
họng súng colt vào thái dương, bóp cò. Máu của Trung Tá Long thấm xuống
lòng đất mẹ.
Dân
chúng bu lại xem. Phóng viên truyền hình Pháp quay cảnh nầy rất kỹ.
Trung Tá Nguyễn Văn Long tuẫn tiết trong quân phục, cấp bậc, huy hiệu
cảnh sát và tên Long trên ngực. Không biết ai đã đưa xác ông vào bịnh
viện Grall (Đồn Đất) của người Pháp. Có thể do phóng viên truyền hình
người Pháp đưa vào.
2). Con nhận xác cha
Theo
lời thuật của cô Tâm, con gái thứ ba của Trung Tá Long, thì hai tuần lễ
sau, bà Long ở Đà Nẵng nhận được giấy báo của bịnh viện Đồn Đất, gọi
vào nhận xác chồng.
Cô
Tâm cùng chồng vào Sài Gòn nhận xác cha. Cô cho biết, trong túi áo của
cha có thẻ căn cước ghi địa chỉ ở số 37 đường Nguyễn Thị Giang, Đà Nẵng.
Ngày
17-5-1975, cô Tâm và người chị thứ hai tên Đào và người em gái tên
Thuận, đang làm việc ở Sài Gòn, vào bịnh viện nhận xác cha.
3). Bịnh viện Grall giữ xác anh hùng
Cô
Tâm cho biết, có lẻ nhận được lịnh của ban giám đốc cho nên nhân viên
bịnh viện dành mọi dự dễ dàng và đặc biệt giúp đỡ gia đình. Nhân viên
phụ trách mở ngăn lạnh, xác vẫn còn nguyên vẹn với quân phục, cấp bậc,
huy hiệu cảnh sát và tên đầy đủ.
Nhân
viên cho biết, thi hài của người anh hùng phải bảo quản cho tốt chờ
thân nhân. Phải giúp gia đình tẫm liệm và mai táng chu đáo. Họ tắm rửa,
thoa thuốc, uốn nắn và chăm sóc thi thể một cách nhẹ nhàng, tử tế đến
nổi gia đình phải ngạc nhiên.
Ngày
chôn cất, có ban hậu sự của bịnh viện với đồng phục và xe tang, nghiêm
trang đưa đến mai táng ở nghĩa trang Giáo Xứ Công Giáo Bà Quẹo, với đầy
đủ lễ nghi Công Giáo. Có linh mục đến làm phép xác. Tất cả đều miễn phí.
Xác của những tướng Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai cũng được gia đình đưa
vào bịnh viện Grall, Sài Gòn.
Ít
năm sau, gia đình cải táng. Lần nầy thì khăn tang trắng khắp cả một
vùng gồm đầy đủ: vợ, các con, các cháu. Xác được hỏa thiêu, tro cốt gởi
vào nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế đường Kỳ Đồng, Sài Gòn.
Cái
chết của Trung Tá Nguyễn Văn Long được thế giới biết đến nhanh nhất
thông qua truyền hình Pháp, trong khi người Sài Gòn ít ai hay biết.
Thế giới xúc động trước cái chết của người anh hùng “vị quốc vong thân”.
3* Danh sách quân nhân Việt Nam Cộng Hòa tuẫn tiết
Kể
từ ngày 29-4-1975 rất nhiều chiến sĩ từ binh sĩ, hạ sĩ, trung sĩ, xã
trưởng, chuẩn úy đã bị giết trong những trận tử thủ hoặc tự sát. Họ là
những anh hùng vô danh của Việt Nam Cộng Hòa.
Một cựu sinh viên sĩ quan khóa 3/1973 Thủ Đức đã sưu tầm những tài liệu để lập một danh sách tạm thời như sau.
Danh sách quân nhân VNCH tuẫn tiết.
1- Thiếu Tướng Phạm Văn Phú,
|
cựu tư lệnh Quân Đoàn II
|
30/4/1975
|
2- Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam,
|
tư lệnh Quân Đoàn IV
|
30/4/1975
|
3- Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng,
|
tư lệnh phó Quân Đoàn IV
|
30/4/1975
|
4- Chuẩn Tướng Trần Văn Hai,
|
tướng tư lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh
|
30/4/1975
|
5- Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ,
|
tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh
|
30/4/1975
|
6- Đại Tá Nguyễn Hữu Thông,
|
trung đoàn trưởng 42 Bộ Binh, Sư Đoàn 22 Bộ Binh- khóa 16 Đà Lat.
|
31/3/1975 tự sát tại Quy Nhơn
|
7-
|
||
8- Hải Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn
|
(bào đệ của Trung Tướng Lê Nguyên Khang).
|
30/4/1975
|
9- Thiếu Tá Không Quân Nguyễn Gia Tập,
|
đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ.
|
Tự sát 30/4/75 tại BTLKQ
|
10- Trung Tá Nguyễn Văn Long
|
CSQG
|
30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Sài Gòn
|
11- Trung Tá Nguyễn Đình Chi
|
Phụ Tá Chánh sở 3 ANQĐ – Cục An Ninh Quân Đội.
|
Tự sát 30/4/1975 tại Cục An Ninh
|
12- Trung Tá Phạm Đức Lợi,
|
phụ tá Trưởng Khối Không Ảnh P2/ Bộ TTM
|
30/4/1975
|
13- Trung Tá Vũ Đình Duy,
|
trưởng Đoàn 66 Đà Lạt
|
30/4/1975
|
14- Trung Tá Nguyễn Văn Hoàn,
|
trưởng Đoàn 67 Phòng 2 Bộ Tổng Tham mưu.
|
Tự sát ngày 30/4/1975
|
15- Hải Quân Trung Tá Hà Ngọc Lương,
|
Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang.
|
Tự sát ngày 28/4/1975 cùng vợ, 2 con và cháu (bằng súng)
|
16- Thiếu Tá Đặng Sỹ Vĩnh,
|
trưởng Ban Binh Địa P2 Bộ TTM, sau biệt phái qua Cảnh Sát
|
30/4/1975 tự sát cùng vợ và 7 con
|
17- Thiếu Tá Mã Thành Liên (Nghĩa),
|
tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu- khoá 10 Đà Lạt.
|
30/4/1975 tự sát cùng vợ
|
18- Thiếu Tá Lương Bông,
|
phó ty An Ninh Quân Đội Cần Thơ- Phong Dinh.
|
Tự sát ngày 30/4/1975
|
19- Thiếu Tá Trần Thế Anh,
|
đơn vị 101.
|
Tự sát ngày 30/4/75
|
20- Đại Úy Vũ Khắc Cẩn,
|
Ban 3, Tiểu Khu Quảng Ngãi.
|
Tự sát 30/4/1975
|
21- Đại Úy Tạ Hữu Di,
|
tiểu đoàn phó 211 Pháo Binh Chương Thiện.
|
Tự sát 30/4/1975
|
22- Trung Úy CSQG Nguyễn Văn Cảnh,
|
trưởng cuộc Vân Đồn, Q.8.
|
Tự sát ngày 30/4/1975
|
23- Chuẩn Úy Đỗ Công Chính,
|
TĐ 12 Nhảy Dù.
|
Tự sát ngày 30/4/1975 tại cầu Phan Thanh Giản
|
24- Trung Sĩ Trần MinhTrần Minh,
|
gác Bộ Tổng Tham Mưu.
|
Tự Sát 30/4/1975
|
25- Thiếu Tá Đỗ Văn Phát,
|
quận trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên
|
1/5/1975
|
26- Thiếu Tá Nguyễn Văn Phúc,
|
tiểu đoàn trưởng, Tiểu Khu Hậu Nghĩa
|
29/4/1975
|
27- Trung Tá Phạm Thế Phiệt
|
30/4/1975
|
|
28- Trung Tá Nguyễn Xuân Trân,
|
Khoá 5 Thủ Đức, Ban Ước Tình Tình Báo P2 /Bộ TTM.
|
Tự sát ngày 1/5/75
|
29- Trung Tá Phạm Đức Lợi,
|
Phòng
2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả, nhà văn, thơ, soạn kịch…bút danh:
Phạm Việt Châu, cựu giảng viên SNQĐ, trưởng phái đoàn VNCH thực hiện HĐ
Paris tại Hà Nội.
|
Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975
|
30- Đại Úy Nguyễn Văn Hựu,
(*) xem ý kiến độc giả tại đây |
trưởng Ban Văn Khố P2/Bộ TTM.
|
Tự sát sáng 30/4/75 tại P2/Bộ TTM
|
31- Thiếu Úy Nguyễn Phụng,
|
CS đặc biệt,
|
30/4/1975 tự sát tại Thanh Đa, Sài Gòn
|
32- Thiếu Úy Nhảy Dù Huỳnh Văn Thái,
|
khoá 5/69 Thủ Đức.
|
30/4/1975 tự sát tập thể cùng 7 lính Nhảy Dù tại Ngã 6 Chợ Lớn.
|
33- Trung Úy Đặng Trần Vinh
|
(con của Thiếu Tá Đặng Sĩ Vinh), P2 BTTM.
|
Tự sát cùng vợ con 30/4/1975
|
34- Trung Úy Nghiêm Viết Thảo,
|
An Ninh Quân Đội, khóa 1/70 Thủ Đức.
|
Tự sát 30/4/1975 tại Kiến Hòa
|
35- Thiếu Úy Nguyễn Thanh Quan (Quan Đen),
|
phi công PĐ 110 Quan Sát (khóa 72).
|
Tự sát chiều 30/4/1975
|
36- Hồ Chí Tâm B2,
|
TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau).
|
Tự sát bằng súng M16 trưa 30/4/1975 tại Đầm Cùn, Cà Mau
|
37- Thượng Sĩ Phạm Xuân Thanh,
|
trường Truyền Tin Vũng Tàu.
|
Tự sát ngày 30/4/1975 tại Vũng Tàu
|
38- Thượng Sĩ Bùi Quang Bộ,
|
trường Truyền Tin Vũng Tàu.
|
Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người tại Vũng Tàu
|
39- …………………………….. và còn rất nhiều rất nhiều tấm gương sáng của những người anh hùng QLVNCH
|
4* Dương Văn Minh Không Chịu Treo Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa
Trong
khi quân nhân VNCH chết dưới lá cờ Tổ Quốc, cờ vàng ba sọc đỏ, thì
Dương Văn Minh từ chối lá cờ nầy. Các nhà báo tường thuật lại như sau:
Tiziano
Terzani, một trong hơn 100 ký giả đã chứng kiến buổi lễ giao quyền hôm
28 tháng 4 năm 1975 tại Dinh Độc Lập, đã tả lại như sau:
“Sau khi cựu Tổng Thống Trần Văn Hương trở về chỗ ngồi, bục diễn đàn
vẫn trống trơn. Dương Văn Minh vẫn ngồi yên không hề nhúc nhích. Một
người lính tiến vào dưới hàng đèn phản chiếu và gỡ hai lá cờ đem ra khỏi
phòng. Sau đó anh ta trở lại và tháo gỡ Quốc Huy cũ của Việt Nam Cộng
Hòa gắn trước bục diễn đàn rồi một người lính khác mang đến gắn huy hiệu
mới của Dương Văn Minh, đó là hình hoa mai năm cánh nằm trong dấu hiệu
âm dương của người Trung Hoa.
Có nhiều tiếng xì xào trong hội trường. Nền Cộng Hòa đã thay đổi bộ
mặt. Dương Văn Minh đứng dậy từ từ tiến về bục diễn đàn, mặt ông ta tỏ
ra nghiêm trọng. Ngay lúc đó hai tiếng sét nổ thật lớn ở ngoài trời và
tiếp theo là tiếng sấm kéo dài như để đánh dấu ý nghĩa lịch sử của giờ
phút đau thương nầy…”. [Tiziano Terzani]
Trong cuốn Cruel Avril, nhà báo Oliver Todd cũng tường thuật buổi lễ này tương tự như vậy
“một người lính trẻ tháo gỡ Lá Quốc Kỳ sau bục diễn đàn rồi gỡ Quốc Huy
của Việt Nam Cộng Hòa và thay thế bằng huy hiệu mới của Dương Van
Minh“. [Oliver Todd]
Trong cuốn những Ngày Cuối Cùng Của Việt Nam Cộng Hòa, tác giả Nguyễn Khắc Ngữ đã viết rằng
“Cùng lúc ấy, một Binh Sĩ vào phòng, bật đèn cho sáng thêm rồi lấy hai
lá cờ lớn đi. Sau đó, anh ta trở lại gỡ Huy Hiệu hai con rồng của Tổng
Thống cũ gắn trên bục diễn đàn mang đi. Liền sau đó, một người lính khác
mang Huy Hiệu mới có bông mai 5 cánh màu trắng vẽ trên nền xanh, ở giữa
có vẽ dấu hiệu âm dương”. [Nguyễn Khắc Ngữ]
5* Cuộc đấu tranh hiện nay: thực hiện một nước VN dân chủ tự do
Trước
kia QLVNCH chống Cộng Sản để bảo vệ Miền Nam, nhưng Miền Nam hiện nay
không còn là MN của VNCH trước 1975 nữa. Lọt vào tay CS suốt 40 năm qua,
người MN đã bị Cộng Sản hóa hoàn toàn. Thế hệ 1975 hiện nay ở tuổi 40,
50 là cán bộ đảng viên trong các ngành công an, bộ đội và những tổ chức
Cộng Sản. Đời sống và quyền lợi của họ gắn bó chặt chẽ với chế độ họ
đang phục vụ. Không còn Cộng Sản Bắc Việt như trước 75, cho nên có ý
kiến cho rằng giải phóng Miền Nam đã đuổi bọn CS về Miền Bắc là không có
cơ sở nào cả.
Vậy
cuộc đấu tranh của người Việt tỵ nạn CS ở hải ngoại là thành lập chế độ
dân chủ, tự do và bảo vệ lãnh thổ mà tổ tiên đã khai phá, chiến đấu giữ
nước từ Bắc chí Nam.
Quan
niệm được hiểu ngầm của đảng CSVN hiện nay là: “Các Vua Hùng có công
dựng nước, Đức Trần Hưng Đạo có công giữ nước để bác cháu ta tha hồ bán
nước”. Mãi quốc cầu vinh.
CSVN bán nước rõ ràng. Không chối cãi được. Hoàng Sa, Trường Sa, Vịnh Bắc Bộ…còn đó.
6* Mục đích đấu tranh: thực hiện nhân quyền cho đồng bào cả nước
Trước
năm 1975, chiến tranh súng đạn trên các mặt trận nhằm mục đích bảo vệ
Miền Nam, không để lọt vào tay Cộng Sản. Hiện nay, người Việt tỵ nạn
Cộng Sản ở hải ngoại đã và đang tiến hành cuộc đấu tranh vì nhân quyền
cho đồng bào Việt Nam trên cả nước.
Trên mặt trận mới, cần xác định mục đích rõ ràng để từ đó tạo ra sức mạnh tổng hợp rất cần thiết cho cuộc đấu tranh.
6.1. Thực hiện nhân quyền
Nhân
quyền là những quyền căn bản của con người được ghi trong bản Tuyên
Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (The Universal Declaration of the Human Rights)
đã được Đại Hội Đồng LHQ thông qua ngày 10-12-1948 tại Palais de
Chaillot ở Paris, Pháp.
Những
quyền căn bản của con người là: Mọi người được tự do và bình đẳng không
phân biệt sắc tộc, màu da, ngôn ngữ, tôn giáo…Tự do về các mặt: Tự do
ngôn luận, lập hội, cư trú, an toàn cá nhân, tư hữu tài sản, hội họp,
lập hội, ứng cử, bầu cử…
6.2. Người Việt hải ngoại không đấu tranh cho mình
Người
Việt tỵ nạn Cộng Sản ở hải ngoại không đấu tranh cho mình, mà là cho
đồng bào của mình trong nước. Vì người Việt hải ngoại đang sống ở châu
Mỹ, châu Âu và châu Úc đã có các quyền tự do và được đối xử bình đẳng
trước pháp luật như người bản xứ.
6.3. Hoan nghênh những người mang tự do nhân quyền cho đồng bào trong nước
Khi
đã xác định được mục đích đấu tranh là cho đồng bào của mình trong nước
thì bất cứ những ai mang tự do, nhân quyền đến cho đồng bào đều được
hoan nghênh.
Nếu
có một Gorbachev, một Yeltsin Việt Nam thì cũng được dân tộc VN ghi
công và nhớ ơn. Việc luận công và luận tội sẽ do người Việt và lịch sử
Việt Nam phán xét.
Khi
xác định được mục đích như vậy thì bất cứ ai có cùng mục đích đó thì
được xem là bạn cùng tranh đấu để có sức mạnh tổng hợp cần thiết sớm đạt
thành công.
7* Cần phân biệt: TA-BẠN-THÙ
Trong
chiến lược đấu tranh, cần thiết phải phân biệt rõ ràng ba thành phần
là: Ta-Bạn-Thù để từ đó tạo ra sức mạnh rất cần cho thành công.
7.1. Nói về kẻ thù
Đối tượng phải đấu tranh là tiêu diệt chế độ độc tài do đảng CSVN áp chế.
Đảng
CSVN không xứng đáng quản lý đất nước và nhân dân, vì là đảng tham
nhũng, hèn với giặc ác với dân, và có truyền thống bán nước, làm tay sai
cho ngoại bang.
1).
Về tham nhũng thì không cần nói nhiều, ai ai cũng biết từ những cán bộ
cao cấp ở trung ương đến đảng viên quèn ở địa phương tất cả đều tham
nhũng bằng nhiều hình thức khác nhau. Tham nhũng, “từ hổ đến ruồi” là
thuộc tính của các đảng Cộng Sản trên thế giới hiện nay.
2). Truyền thống bán nước của đảng Cộng Sản Việt Nam
Những hành động chứng minh đảng Cộng Sản Việt Nam bán nước
1. Công hàm bán nước của chính phủ Hồ Chí Minh
Ngày
4-9-1958, chính phủ Mao Trạch Đông ra tuyên bố, do Thủ tướng Chu Ân Lai
ký: “Những hòn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây
Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) thuộc về hải đảo của Trung Quốc có lãnh hải là 12 hải lý”.
Ngày 14-9-1958, công hàm của chính phủ Hồ Chí Minh do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký, nội dung chính như sau:
“Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản
tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân
Trung hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hoà tôn trọng quyết định ấy, và sẽ chỉ thị cho các cơ
quan Nhà Nước, có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của
Trung Quốc…”
Ngoài Phạm Văn Đồng ra, còn có những bằng chứng đảng CSVN công nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Cộng, cụ thể như sau:
Ung Văn Khiêm tuyên bố: “ Theo những dữ kiện của Việt Nam, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một bộ phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc".
1). Ông Lê Lộc, quyền Vụ trưởng Á châu Sự vụ thuộc Bộ Ngoại giao VN nói:… "xét về mặt lịch sử thì các quần đảo này đã hoàn toàn thuộc về Trung quốc từ thời nhà Tống"
2). Hoàng Tùng, Trưởng Ban Tư tưởng TW đảng CSVN đã tuyên bố: “Thà giao Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc, cùng phe xã hội chủ nghĩa anh em còn hơn để tụi Ngụy Sài Gòn quản lý”!
Tháng 5 năm 1976, tờ Sài Gòn Giải Phóng loan tin
“Trung Quốc vĩ đại, đối với chúng ta không những là đồng chí mà còn là
người thầy tin cẩn, đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có ngày
hôm nay. Vì vậy, chủ quyền Hoàng Sa thuộc về VN hay thuộc về TQ thì cũng
vậy thôi!” . (Hết trích)
Đúng là cả bọn bán nước tập thể.
Như
trên cho thấy, không phải chỉ một Phạm Văn Đồng công nhận HS/TS là của
Trung Cộng, mà cả Đảng và Nhà Nước CSVN đã có cùng một chủ trương bán
nước cho Tàu Cộng. Sự thật rành rành không thể chối cãi được.
2. Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh bán nước :
“Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị
thuộc chính quyền Trung Ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho
Nội Mông, Tây Tạng, Mãn Châu… Trung Quốc đồng ý và chấp nhận đề nghị nói
trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN giải
quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các
dân tộc Trung Quốc”.
3. Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu bán nước.
“Lê
Khả Phiêu bị Trung Quốc gài mỹ nhân kế, cho lấy cô Trương Mỹ Vân (Cheng
Mei Wang) lúc Lê Khả Phiêu thăm TQ năm 1988, sanh được một bé gái. Lê
Khả Phiêu không dám đem con về, sợ bị tai tiếng và sợ những đối thủ
trong Bộ Chính trị vây đánh. Trung Cộng phát “sinh tử lịnh” bằng cách
gởi văn thư vào tháng 1 năm 1999, đòi lấn biển, đe dọa sẽ đưa ra ánh
sáng việc thông dâm đó, nếu LKP không hợp tác. Thế là Lê Khả Phiêu phải
vâng lịnh, hạ bút ký văn bản hiến biển ngày 30-12-1999” (Hết trích). Có
người nêu nhận xét: Sướng con koo mù con mắt.
Theo Tiến sĩ Mai Thanh Truyết thì từ sau năm 1975, đảng CSVN đã cam tâm ký hai hiệp ước cắt đất dâng biển cho Trung Cộng.
“Hiệp
ước biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc” ngày
30-12-1999. Mất Ải Nam Quan và Thác Bản Giốc, diện tích 178km2
“Hiệp ước phân định lãnh hải” ngày 25-12-2000. Mất khoảng 16,000km2 phần biển trên vịnh Bắc Bộ.
4. Lê Đức Anh bán nước
Sự
thật nầy đã bị đảng CSVN giấu kín suốt 26 năm. Cho mãi đến ngày
14-6-2014, tại hội thảo Minh Triết Biển Đông, một thiếu tướng Việt Cộng
tên Lê Mã Lương, cựu giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, đã tiết
lộ: “Trước khi xảy ra trận hải chiến Trường Sa năm 1988, quân đội
Việt Nam đã phải nhận lịnh “không được nổ súng” trong trường hợp Trung
Quốc đánh chiếm Gạc Ma hay bất kỳ một đảo nào ở Trường Sa”.
Người
ra lịnh đó là ủy viên Bộ Chính Trị đầy quyền lực là đại tướng Lê Đức
Anh. Sau đó, tại cuộc họp Bộ Chính Trị, Nguyễn Cơ Thạch đập bàn và hỏi:
“Ai ra lịnh cho quân đội không được nổ súng?” Vài tháng sau, Nguyễn Cơ
Thạch bị gạt bỏ tất cả mọi quyền lực và bị loại ra khỏi Bộ Chính Trị.
7.2. Nói về bạn
Kẻ
thù của kẻ thù của ta, có thể là bạn của ta. Bạn không phải là ta. Bạn
không chống ta, không hại ta, và trái lại ta cũng không chống bạn, không
hại bạn vì đó không phải là mục đích đã được xác định rõ ràng từ đầu.
Như
thế, hai thực thể nầy có thể liên minh, liên kết với nhau để có sức
mạnh tổng hợp cần thiết cho cuộc đấu tranh. Thêm bạn bớt thù là chủ
trương đúng đắn trong đấu tranh.
7.3. Nói về ta
Cuộc đấu tranh cho nhân quyền của đồng bào trong nước được thực hiện trên hai mặt trận: trong nước và hải ngoại
1. 1. Trong nước
1). Chế độ Cộng Sản
Trong
nước có hai đối tượng, đó là chế độ độc tài cai trị bằng những trò lừa
bịp thông qua bản hiến pháp có ghi đầy đủ các quyền tự do công dân,
nhưng đó chỉ là văn bản che giấu những trò lừa bịp. Cũng có ứng cử, bầu
cử, có quốc hội đại diện nhân dân, cũng có tòa án…nhưng tất cả đều nằm
trong tay của Đảng.
Có
câu mô tả toàn bộ xã hội như sau: “Đảng chỉ tay, Quốc hội giơ tay, Mặt
trận vỗ tay, Chính phủ ra tay, Doanh nghiệp nhà nước ngửa tay, Công an
còng tay, Tội phạm bắt tay, Báo chí chùn tay, Trí thức phẩy tay, Quan
chức đầy tay, và nhân dân ... trắng tay.
Đảng
Cộng Sản là đối tượng đấu tranh không khoan dung, không nhượng bộ để
bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ chống lại tay sai bán nước.
2). Những nhà đấu tranh dân chủ nhân quyền trong nước
Những
nhà đấu tranh đòi nhân quyền và yêu nước hiện nay thật sự là những anh
hùng vì họ bất khuất trước bạo lực, trước đe dọa, khủng bố nhiều mặt, họ
chấp nhận tù đày…đó là những anh hùng rất cô đơn trước đám quần chúng
vô cảm hiện nay.
Những
nhân vật điển hình như các luật sư: Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài,
Lê Quốc Quân, Lê Trần Luật, bác sĩ Nguyễn Đan Quế, các cô Phạm Thanh
Nghiên, Huỳnh Thục Vy, Bùi Thị Minh Hằng, Tạ Phong Tần, Thạc sĩ Nguyễn
Tiến Trung, nhà báo Trương Minh Đức, blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như
Quỳnh, và còn nhiều nữa…Linh Mục Nguyễn Văn Lý và những người trong Khối
8406.
Trước
kia cũng đã có nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, “Điếu Cày” Nguyễn Văn Hải,
LS Cù Huy Hà Vũ, Lư Thị Thu Duyên (hiện định cư ở Hoa Kỳ)
1. 2. Ở hải ngoại
Mặt
trận hải ngoài rất phức tạp vì kế hoạch tuyên truyền và đánh phá của VC
rất tinh vi. Nhận diện, vạch mặt chỉ tên những cá nhân, những báo, đài,
tay sai của VC trong nước. Vạch mặt tẩy chay, cô lập những tên trở cờ. Ở
Mỹ có những đại úy, thiếu tá, trung tá và cả đại tá trở cờ nữa. Tẩy
chay, không hợp tác, không liên hệ…
2.1. Vận động sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế
Vận
động những tổ chức như: Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW=Human Rights
Watch), Ký giả Không Biên giới (RSF=Reporters Sans Frontières), Ân Xá
Quốc Tế (Amnesty International)
2.2. Xử dụng sức mạnh của lá phiếu
a). Tranh thủ sự ủng hộ của các chính trị gia Hoa Kỳ
Cộng đồng người Việt ở Cali đã tranh thủ được sự ủng hộ của các nhà lập pháp như các dân biểu: Loretta Sanchez, Ed Royce…
Ông
Ed Royce đã viết thơ cho Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu trả tự do cho 13 người
hoạt động Công Giáo. Ông cùng với 8 nhà lập pháp khác đệ trình dự luật
H.R 4254 áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với những quan chức Việt
Nam đã “đồng lõa trong những vụ vi phạm nhân quyền nhắm vào người dân
Việt Nam.
b). Vạch mặt chỉ tên tay sai Việt Cộng trong cộng đồng
Vạch
mặt chỉ tên những phương tiện truyền thông, báo, đài, đã tuyên truyền
và đánh phá cộng đồng “chống Cộng” theo chủ trương của VC trong nước,
nhất là những tên trở cờ đánh phá hoặc tuyên truyền cho VC. Đó là những
sĩ quan từ đại úy, thiếu tá, trung tá (“Việt Tấn Xã”) và cả đại tá nữa.
Cô lập, tẩy chay.
2.3. Bồi dưỡng thế hệ nối tiếp
2.4. Ủng hộ những nhà tranh đấu
Đoàn
kết, sát cánh, ủng hộ và yểm trợ những nhà trường kỳ tranh đấu trong
cộng đồng hải ngoại như anh hùng Lý Tống, bà Đào Nương Hoàng Dược Thảo
và những người khác.
8* Kết luận
Ngày
30 tháng 4 là dịp để chúng ta tưởng niệm những anh hùng, tử sĩ đã ngã
xuống trên quê hương, dòng máu của họ đã thấm vào lòng đất mẹ, trong
cuộc đấu tranh sáng ngời chính nghĩa của Quân Lực VNCH.
Nối
tiếp ý chí kiên cường bất khuất đó trong cuộc đấu tranh hiện tại. So
với những nhà dân chủ trong nước, chúng ta đang hoàn toàn có tự do, có
an toàn, thoải mái đấu tranh…sao ta không tích cực dấn thân cho đồng bào
và Tổ Quốc?.
Ngày
nào đảng Cộng Sản VN còn thì lãnh thổ mà tổ tiên đã bao đời khai phá,
phát triển và bảo vệ sẽ bị cái đám tay sai đem dâng lên cho quan thầy
Trung Cộng.
Đảng
CSVN bán nước còn tang chứng rành rành như đã nêu trên. Dân tộc Việt
Nam đứng trước nguy cơ trở thành một sắc tộc thiểu số trong “đại gia
đình các dân tộc Trung Quốc” mà đảng CSVN đã thỉnh nguyện vào ngày
4-9-1990 tại Thành Đô, Tứ Xuyên, Trung Quốc.”
Trả lời câu hỏi “Việt Nam còn hay mất?”. Một người trong nước cho biết, đã mất từ lâu rồi, còn gì nữa mà hỏi mất hay còn!”
Trúc Giang
Minnesota ngày 28-3-2015
Trúc Giang
Minnesota ngày 28-3-2015
*****
Ý kiến độc giả:
Có thể tác giả có chút thiếu sót khi cho rằng “Khi đã xác định được mục đích đấu tranh là cho đồng bào của mình trong nước thì bất cứ những ai mang tự do, nhân quyền đến cho đồng bào đều được hoan nghênh.
Có thể tác giả có chút thiếu sót khi cho rằng “Khi đã xác định được mục đích đấu tranh là cho đồng bào của mình trong nước thì bất cứ những ai mang tự do, nhân quyền đến cho đồng bào đều được hoan nghênh.
Nếu có một Gorbachev, một Yeltsin Việt Nam thì cũng được dân tộc VN ghi công và nhớ ơn.
Việc luận công và luận tội sẽ do người Việt và lịch sử Việt Nam phán xét.
Khi xác định được mục đích như vậy thì bất cứ ai có cùng mục đích đó
thì được xem là bạn cùng tranh đấu để có sức mạnh tổng hợp cần thiết sớm
đạt thành công”.
Nguời
yêu nước xem sự độc lập của đất nước ngang bằng với sự tự do của dân
tộc mình. Dù dân trong một nước được tự do nhưng họ vẫn không hạnh phúc
nếu đất nước của họ nằm dưới sự cai trị của ngoại bang. Vì thế điều kiện
ắt có và đủ là người dân phải có chủ quyền lên đất nước của mình.
Dù
cho có một Gorbachev hay Yeltsin Vietnam mang lại tự do cho dân chúng,
nhưng nếu hai ông này vẫn làm quan thái thú của Trung Cọng hay của bất
cứ ngoại bang nào thì các ông đó cũng là đồ bỏ. Người Việt có câu : “Đói cho sạch, rách cho thơm” hay là “Ta về ta tắm ao ta, dù torng dù đục ao nhà vẫn hơn”
là để nói lên tinh thần tự trọng, tự chủ và tự quyết. Thiếu các tinh
thần này thì người Việt (mất nước, không có dân tộc tính) chỉ là thứ tầm
gửi. Và cái thứ tầm gửi hiện nay chính là bọn Việt Gian hải ngoại,
chúng ôm chân cha mẹ nuôi của chúng xem họ như trời đất mà quên đi căn
tính của chúng là kẻ mất quê hương !!
Vậy mục tiêu chính chưa phải là Tự Do mà là khôi phục quê hương để có độc lập và quyền dân tộc tự quyết !!
2- Tác giả cũng có quan niệm thiếu thận trọng là : “Kẻ thù của kẻ thù ta, ấy chính là bạn ta” .
Sự thật đau thương là VNCH đã bị chết thảm vì đồng minh, vì bạn theo
kiểu đó. Cả ta và bạn đều có chung một kẻ thù nhưng vì lợi ích khác nhau
nên đã phản nhau. Vậy đừng nghĩ rằng cùng chung một kẻ thù có thể là
bạn được với nhau. Đây là điểm rất nhiều người hiểu sai, chẳng hạn “Liên
Minh Dân Chủ Việt Nam” của Ngô Thanh Hải, qua miệng của cố vấn Lê Phát
minh đã tuyên bố rằng Liên Minh sẽ đứng chung với Việt Cọng để đánh
Trung Quốc vì có cùng một mục đích cứu nước ! VNCH đã bị đâm sau lưng vì
không phân biệt được các thứ bạn, và có lẽ bây giờ hậu duệ của họ cũng
sẽ bị bắn vỡ sọ cũng vì ngây thơ trong suy luận xem kẻ thù của kẻ thù
mình là bạn. Xưa kia Hồ Chí Minh và Nguyễn Thái Học cũng cùng một kẻ thù
là thực dân Pháp, thế nhưng giặc Hồ lại dùng tay của kẻ thù Pháp để
giết người bạn cùng chí hướng của mình.Tỉnh giấc đi mấy cha nội !!
JB Trường Sơn
0 comments:
Post a Comment