Hữu Nguyên
Thứ Tư, ngày 01 tháng 4 năm 2015
Thứ Tư, ngày 01 tháng 4 năm 2015
40
năm trước, cộng sản Hà Nội ngang nhiên vi phạm Hiệp Định Ba Lê mở cuộc
tấn công quy mô vào Ban Mê Thuột với ý định thăm dò phản ứng của chính
phủ Mỹ và sức mạnh của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Phần muốn bảo tồn lực
lượng, phần muốn tạo áp lực buộc chính phủ Mỹ phải thực hiện những gì
đã cam kết, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã quyết định triệt thoái toàn
bộ lực lượng khỏi vùng cao nguyên trung phần.
Nhưng
vì không chuẩn bị chu đáo, giao thông bị tắc nghẽn, phương tiện di tản
thiếu thốn, thời gian lại gấp rút, và lòng dân thì quá hoang mang, nên
cuộc triệt thoái đã trở thành một thảm kịch bi hùng đầy máu và nước mắt.
Những sai lầm của cuộc triệt thoái cao nguyên, cộng thái độ "hoàn toàn
phủi tay" của chính phủ Mỹ, đã là những nguyên nhân khiến cộng sản Hà
Nội vội vã thực hiện nốt dã tâm thôn tính Miền Nam.
Giữa
cơn binh lửa thập phần dầu sôi lửa bỏng của cuộc chiến, chính phủ Mỹ và
những thế lực chủ hòa tại Miền Nam đã ngây thơ, hoặc cố tình nhắm mắt,
tin tưởng cái gọi là "VC có thiện chí hòa hợp hòa giải với một chính phủ
không có Thiệu" mà những người cộng sản rêu rao. Sự tin tưởng mù quáng
này đã dẫn đến những áp lực khiến tổng thống Thiệu, một người chống CS
kiên quyết và có bản lãnh, phải từ chức và quyền lực quốc gia được trao
cho phó tổng thống Trần Văn Hương.
Không
đầy tuần lễ sau, vì muốn duy trì trật tự cho người Mỹ triệt thoái an
toàn, Mỹ và cộng sản VN, qua sự dàn xếp của Nga Xô, đã tung hứng, tạo
cho VNCH ảo tưởng, CSVN chỉ chấp nhận thương thuyết nếu Dương Văn Minh
được làm tổng thống. Kết quả, cụ Trần Văn Hương phải từ chức và trao
quyền tổng thống cho tướng Dương Văn Minh, cho dù việc trao quyền này
hoàn toàn vi hiến. Cũng cùng một ảo tưởng tương tự, trong bài diễn văn
nhậm chức tổng thống đọc vào chiều ngày 28 tháng 4, tân tổng thống Dương
Văn Minh ngây thơ kêu gọi những người cộng sản ngưng bắn để thương
thuyết, mà không thể ngờ được, ông chỉ là một lá bài trong canh bạc
chính trị do những người cộng sản tháu cáy.
Khi
đó, 16 sư đoàn quân Bắc Việt với tổng số trên 200 ngàn tay súng đã có
mặt quanh thủ đô SàiGòn. Lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh Việt
Nam, tất cả những con đường huyết mạch dẫn vào thủ đô Sài Gòn đều bị cắt
đứt. Thêm vào đó, chính phủ Mỹ không những công khai phản bội VNCH, mà
còn âm thầm bắt tay với Nga Xô để đi đến những điều kiện thỏa hiệp với
CSVN.
Trong
thế thượng phong về quân sự và ngoại giao như vậy, không khi nào cộng
sản chịu chấp nhận thương thuyết hay hòa hợp hòa giải với bất cứ ai. Vì
vậy, tất cả những lời kêu gọi hòa bình của tân tổng thống Dương Văn Minh
cũng như của các chính phủ trên thế giới khi đó chỉ được những người
cộng sản tung hứng một cách xảo quyệt, nhằm tạo ảo tưởng và gây phân hóa
sức mạnh chống cộng của quân dân Miền Nam.
Sau
khi lũng đoạn và phân hóa hàng ngũ VNCH tối đa, và thấy Dương Văn Minh
đã được làm tổng thống, CSVN liền leo thang thêm một bước, đòi Mỹ phải
rút khỏi lãnh thổ Miền Nam, và tân chính phủ SàiGòn phải không có người
của "chế độ cũ". Không những thế, CS từ chối mọi thương thuyết, và mở
màn cuộc pháo kích SàiGòn vào rạng sáng ngày 29 tháng 4. Riêng phi
trường Tân Sơn Nhất, khoảng 150 trái pháo 130 ly nổ tung khiến cuộc di
tản bằng phi cơ phải đình chỉ. Lúc đó là 4 giờ chiều ngày 28 tháng 4,
giờ Hoa Thịnh Đốn.
Ngay
khi hay tin phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích, tổng thống Ford vội
vàng hội kiến cùng các cố vấn trong hội đồng an ninh quốc gia. Đến 10
giờ 45 phút giờ Hoa Thịnh Đốn, quyết định di tản nốt người Mỹ còn lại
bằng trực thăng được tổng thống Ford phê chuẩn và chiến dịch mệnh danh
"Frequent Wind" được chính thức mở màn trên biển Đông vào lúc 11 giờ tám
phút sáng ngày 29 tháng 4. Việc thực hiện chiến dịch "Frequent Wind"
được trao cho lực lượng đặc nhiệm Task Force 76 thuộc Đệ Thất Hạm Đội.
Toàn bộ phi cơ trên hai hàng không mẫu hạm Enterprise và Coral Sea thuộc
lực lượng đặc nhiệm Task Force 77 có trách nhiệm yểm trợ tối đa cho
chiến dịch "Frequent Wind".
Trong
thời gian không đầy 24 tiếng đồng hồ, kể từ 11 giờ 8 phút sáng ngày 29
đến 8 giờ sáng ngày 30 tháng 4, chiến dịch "Frequent Wind" đã di tản
thành công 7100 người bao gồm cả người Mỹ, Việt và một số ngoại kiều
không phải Mỹ. Cùng với cuộc di tản chính thức do người Mỹ thực hiện,
nhiều phi công Việt Nam Cộng Hòa đã cùng gia đình di tản bằng phi cơ ra
Đệ Thất Hạm Đội. Ngoài ra trong những giờ phút cuối cùng của tháng tư,
hàng chục ngàn người Việt Nam đã đáp tàu, thuyền các loại, ồ ạt đổ ra
biển đông để tỵ nạn cộng sản. Đến 7 giờ 52 phút sáng ngày 30 tháng 4,
toàn bộ cuộc di tản của người Mỹ thực sự kết thúc sau khi chiếc trực
thăng cuối cùng cất cánh rời khỏi không phận Miền Nam.
Không
lâu sau, xe tăng của cộng sản Bắc Việt được lệnh tiến vào đường phố thủ
đô SàiGòn, chiếm dinh Độc Lập và tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu
hàng cộng sản vô điều kiện trên đài phát thanh. Cùng ngày, tại Ba Lê,
phái đoàn cộng sản ngang ngược tuyên bố đổi tên thủ đô SàiGòn thành
thành phố Hồ Chí Minh. Hôm đó là ngày 30 tháng 4, ngày bi thương nhất
của lịch sử Việt Nam thời hiện đại. Ngày đó đã xảy ra cách đây đúng 40
năm nhưng những hình ảnh bi hùng, những thảm kịch đầy máu và nước mắt
cùng những hậu quả thê thảm của nó vẫn tiếp tục đè nặng trong tâm trí
của hàng chục triệu người Việt Nam trong và ngoài nước.
AI TẠO NÊN THẢM KỊCH 30.4?
Suốt
thời gian 40 năm sau 1975, hàng triệu trang sách đã được viết, hàng
ngàn vị thức giả đã ngày đêm suy tư, lý luận và hàng chục triệu người
Việt Nam đã trăn trở trong mục đích đi tìm câu trả lời đúng nhất cho câu
hỏi: Ai đã tạo nên thảm kịch 30-4?
Dĩ
nhiên, đối với phần đông mọi người trên thế giới, trong đó có rất đông
người Việt Nam, đều cho rằng tiến sĩ Henry Kisinger, cha đẻ của hiệp
định Ba Lê với những điều khoản phi lý, đã bức tử Việt Nam Cộng Hòa.
Nhiều
người khác lại tin tưởng, chính vụ tai tiếng Watergate khiến tổng thống
Nixon phải từ chức, và những lời cam kết trên giấy trắng mực đen của
ông đối với tổng thống Thiệu đã không được tổng thống Ford tôn trọng,
nên cộng sản ngang nhiên vi phạm hiệp định Ba Lê xua quân tấn công Việt
Nam Cộng Hòa.
Bên
cạnh đó, cũng có nhiều người cho rằng, thái độ chủ hòa, bạc nhược của
quốc hội Mỹ trong suốt những năm tháng cuối của cuộc chiến tranh Việt
Nam cộng với những ảnh hưởng của phong trào phản chiến tại Mỹ, thái độ
chán nản của dân chúng và dư luận Mỹ cũng là những yếu tố quan trọng dẫn
đến thảm kịch 30 tháng 4.
Ngoài
ra, còn có nhiều người tin rằng, việc hành xử thiếu đúng đắn quyền hạn
và trách nhiệm của đại sứ Martin, những sai lầm về chính trị, quân sự
của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và một số tướng lãnh, chính trị gia Việt
Nam Cộng Hòa, đã là những yếu tố đáng kể đưa Việt Nam Cộng Hòa đến thảm
kịch 30-4.
Đặc
biệt, nhiều người cũng cho rằng, những ngây thơ về chính trị, những ảo
tưởng về chủ nghĩa cộng sản của các cá nhân, các tầng lớp trong xã hội
Miền Nam, làm yếu đi tiềm năng chống cộng đồng thời là vùng đất màu mỡ
tạo nên một tầng lớp chủ hòa, thân cộng, thậm chí đi đến hành động "đâm
sau lưng chiến sĩ", đã góp phần quan trọng đẩy VNCH đến vực thẳm 30-4.
Dĩ
nhiên, những nhận xét trên đây không phải là không có lý. Tuy nhiên,
nếu nhìn vào cục diện cuộc chiến tranh Việt Nam trải dài suốt thời gian
ba thập niên từ 1945 đến 1975, ta sẽ thấy tất cả những nguyên nhân trên
đều là thứ yếu. Nguyên
nhân chính yếu dẫn đến thảm kịch 30-4 là tham vọng xâm lăng của cộng
sản Hà Nội được thực hiện với sự hậu thuẫn của CS Nga, Tàu. Và tham vọng đó của CS không chỉ gói gọn có Miền Nam mà còn bao gồm cả Lào, Căm Bốt, và Thái Lan.
Sự
thực, tham vọng này không phải là điều mới mẻ mà đã được viết xuống
ngay từ năm 1930 khi đảng cộng sản Đông Dương được thành lập. Đến năm
1954, những người cộng sản đã âm mưu thực hiện cuộc chiến lũng đoạn Miền
Nam bằng cách cài người ở lại hoặc tổ chức hàng trăm cuộc đám cưới cấp
tốc giữa những cán bộ cộng sản tập kết với phụ nữ địa phương để gieo rắc
mầm mống chống đối và thân cộng tại Miền Nam. Sau năm 1954, tại Miền
Nam, lực lượng VC nằm vùng bắt đầu tuyển mộ, huấn luyện du kích thực
hiện những hoạt động khủng bố. Bằng chứng cụ thể nhất được chính VC ngày
nay thừa nhận, năm 1961, Nguyễn Tấn Thử, đội trưởng du kích Rạch Giá,
đã cho con là Nguyễn Tấn Dũng (hiện là thủ tướng) tham gia du kích Cà
Mâu khi NTD mới có 12 tuổi và 18 tuổi NTD được kết nạp đảng, trở thành
tên khủng bố điển hình, 4 lần bị thương, 4 lần đoạt danh hiệu “Dũng sĩ
Diệt Mỹ”.
Đến
những năm cuối thập niên 1950, cộng sản Hà Nội đã âm thầm đưa người vô
Nam và mở đường mòn mệnh danh đường mòn Hồ Chí Minh để chuyển vũ khí,
tài liệu vô Nam. Song song với âm mưu thôn tính Miền Nam, cộng sản Hà
Nội còn thực hiện hàng loạt âm mưu chính trị, quân sự nhằm thao túng các
quốc gia láng giềng là Lào và Căm Bốt.
Sau
khi nặn ra cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, cộng sản Hà Nội đã ồ
ạt đưa người và vũ khí vô Nam để thực hiện cuộc chiến tranh mệnh danh
"giải phóng" bất chấp tốn kém xương máu và mồ hôi của hàng chục triệu
dân Miền Bắc.
Âm
mưu của cộng sản và những điều cộng sản Hà Nội làm trong suốt thời gian
ba thập niên là những điều hai năm rõ mười cả thế giới ai ai cũng biết.
Đáng tiếc, nhiều người vì ngây thơ, nhiều người vì những thù oán riêng
tư, bổng lộc nhất thời, nhất định nhắm mắt, bịt tai không chịu nhận ra
kẻ thù chính của mình là cộng sản Hà Nội. Thay vì vậy, họ lại quay sang
nguyền rủa Mỹ, Kissinger, chửi tổng thống Nixon, chê bai tổng thống
Thiệu hoặc tướng lãnh, quân đội Việt Nam Cộng Hòa là bất tài, bạc nhược.
Họ đã vô tình quên mất những đóng góp tiền của, xương máu, công sức của
chính phủ, binh lính và nhân dân Mỹ, cùng những hy sinh bất khuất,
những đớn đau vô bờ bến của quân, dân Việt Nam Cộng Hòa trong suốt 20
năm chiến tranh.
Đồng
ý, Kissinger, Nixon, tổng thống Thiệu và một số tướng lãnh quân nhân
Việt Nam Cộng Hòa đã phạm phải những sai lầm hoặc có những quyết định
sai lầm, góp phần vào sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng nếu nhìn
vào bản chất hiếu chiến và tham vọng bành trướng của những lãnh tụ cộng
sản Hà Nội được CS quốc tế Nga, Hoa hậu thuẫn, ta sẽ nhận thấy cho dù
hiệp định Ba Lê không có những điều khoản phi lý bức tử Việt Nam Cộng
Hòa, cho dù nước Mỹ không có một ngoại trưởng thủ đoạn, mưu mô như
Kissinger, cho dù Việt Nam lúc đó không có vụ triệt thoái Ban Mê Thuột,
nước Mỹ không có vụ Watergate, và thậm chí tổng thống Nixon vẫn còn tiếp
tục là tổng thống Hoa Kỳ,... CHẮC CHẮN, với tham vọng xâm lăng Miền Nam
của CS Hà Nội và sự hậu thuẫn của CS quốc tế, thảm kịch 30.4 vẫn xảy
ra. Khác chăng, thảm kịch đó có thể xảy ra muộn hơn một vài năm hoặc một
thập niên.
Tại
sao ta có thể nói như vậy? Lý do là cuộc chiến tại Việt Nam trong suốt
ba thập niên là một cuộc xung đột giữa những người quốc gia có tinh thần
tự do dân chủ với những người cộng sản tôn thờ chuyên chế, độc tài và
có đầu óc quá khích, sùng bái sức mạnh của nòng súng, lưỡi lê. Sự xung
đột này nếu xảy ra trong một xã hội văn minh qua một thể thức bầu cử dân
chủ, sự thất bại của cộng sản là điều chắc chắn. Nhưng nếu cuộc xung
đột xảy ra trong một xã hội dân trí còn lạc hậu, đông đảo người dân còn
chưa hiểu bộ mặt thật của cộng sản ghê gớm đến mức nào và hình thái cuộc
xung đột là võ trang thì thế thắng thường nghiêng về phía CS, những kẻ
tôn thờ sức mạnh và chuyên chế độc tài. Cuộc xung đột này cũng giống như
những tên côn đồ tay dao tay súng, nhào vô đâm chém rồi cướp của đốt
nhà của một vị thức giả đạo đức, giầu lòng nhân nghĩa.
AI CHIẾN THẮNG TRONG CHIẾN TRANH VN?
Xét
trên phương diện chiếm đất, giành dân, cộng sản là kẻ chiến thắng,
nhưng chỉ CHIẾN THẮNG TẠM THỜI. Xét trên phương diện văn minh tư tưởng
và những ảnh hưởng kết quả của sự đồng hóa không thể tránh khỏi khi
những người cộng sản tiếp xúc với một xã hội văn minh như xã hội Miền
Nam, ta sẽ thấy cộng sản mới là kẻ chiến bại.
Lịch
sử nhân loại từ xưa đến nay đã cho thấy, những dân tộc, những bộ lạc có
nền văn minh cao khi chinh phục các dân tộc khác, họ sẽ đóng vai trò
khai hóa đối với các dân tộc có trình độ văn minh thấp hơn. Trái
lại, những dân tộc, bộ lạc có trình độ văn minh thấp kém nhưng hiếu
chiến, hiếu sát, khi xâm chiếm và chinh phục những dân tộc khác có trình
độ văn minh cao hơn, họ sẽ dần dần bị chính dân tộc mà họ chinh phục,
đồng hóa theo thời gian. Cụ thể sự đồng hóa của người Mãn Thanh trước
văn minh của người Hán khi người Mãn xâm chiếm Trung Hoa cũng như sự
đồng hóa của người Bắc Âu khi tiến xuống các bộ lạc vùng Trung Âu là
những bằng cớ chứng tỏ, sức mạnh của văn hóa và tư tưởng mới là thống
soái trong những cuộc chinh phục trên bề mặt trái đất. Đó là một quy
luật của lịch sử và cũng là quy luật của tự nhiên.
Nhìn
vào xã hội Miền Nam nói riêng và Việt Nam nói chung hiện nay, ta không
thể không thừa nhận những ảnh hưởng to lớn của tư tưởng tự do, dân chủ
và trình độ văn minh trong xã hội Miền Nam đối với những người cộng sản
cũng như đối với xã hội Miền Bắc. Chính những ảnh hưởng to lớn này đã,
đang và sẽ dần dần làm thay đổi nếp nghĩ, sự suy tư của những người cộng
sản để rồi dần dần những người cộng sản sẽ bị biến chất, chuyển hướng
và trút lốt.
Thực
tế cho thấy, trong suốt 40 năm qua, những ngôn ngữ ăn năn, hối hận của
những nhà văn, nhà thơ CS nổi tiếng, trong đó có Chế Lan Viên, có Dương
Thu Hương; những lời thú nhận tội lỗi của những tướng lãnh, lãnh tụ cao
cấp trong guồng máy CS như Nguyễn Hộ, Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Đỗ
Trung Hiếu, Võ Nguyễn Giáp, Võ Văn Kiệt; và đặc biệt, lời tuyên bố của
Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain, khẳng định một sự thực bất khả chối cãi:
"Trong chiến tranh VN, kẻ thắng VC là kẻ ác, kẻ phi nghĩa".v.v... đã cho
thấy, chân lý, chính nghĩa và lẽ phải thuộc về Việt Nam Cộng Hoà. Và
chính những người cộng sản cũng nhận, những thay đổi cực kỳ nguy hiểm
trong hàng ngũ cộng sản nhưng đành bất lực vì sự thay đổi tuy xảy ra một
cách âm thầm và chậm chạp, nhưng không một sức mạnh gì có thể ngăn cản
nổi. Và như vậy, trong thời gian 10, 15 năm nữa, chủ nghĩa cộng sản tại
Việt Nam sẽ bị cáo chung nhường bước cho tự do dân chủ và một hình thái
chính trị phi cộng sản phát triển.
Tóm
lại, nếu những người cộng sản Hà Nội khôn ngoan, xảo quyệt tiếp tục cai
trị Miền Bắc mà không nghĩ đến chuyện thôn tính Miền Nam, thì tư tưởng
tự do dân chủ và trình độ văn minh tại Miền Nam khó có thể "thấm dần" ra
đất Bắc. Như vậy chủ nghĩa cộng sản tại Miền Bắc còn có khả năng tồn
tại trong cái vỏ bọc lạc hậu và độc tài trong nhiều thập niên nữa. Trái
lại, theo đuổi việc thôn tính Miền Nam bằng sức mạnh và thủ đoạn, cộng
sản chỉ giành được chiến thắng quân sự tạm thời trước khi bước vào giai
đoạn "dần dần héo úa" để rồi vĩnh viễn tàn lụi.
Hữu Nguyên
0 comments:
Post a Comment