Nhà nghiên cứu lịch sử Trần Gia Phụng (Canada)
Việt Minh cộng sản đã giết Phạm Quỳnh
(1892-1945) hai lần: Lần thứ nhất hạ sát, che giấu và phi tang thân xác
ông tại Huế năm 1945. Lần thứ hai, bóp méo lịch sử, viết sai lạc về Phạm
Quỳnh, nhằm hủy diệt luôn sự nghiệp và thanh danh của ông. Một câu hỏi
cần được đặt ra là lúc đó Phạm Quỳnh đã rút lui khỏi chính trường,
tại sao cộng sản lại giết Phạm Quỳnh, trong khi cộng sản không giết
Trần Trọng Kim và toàn bộ nhân viên nội các Trần Trọng Kim, là những
người đang còn hoạt động? Câu hỏi nầy cần tách ra làm hai phần để dễ tìm
hiểu:
Thứ nhất
Từ khi đến Trung Hoa hoạt động năm 1924,
Hồ Chí Minh, điệp viên của Đê Tam Quốc tế Cộng sản, lúc đó có tên
Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy, đã chủ trương “giết tiềm lực”. Giết tiềm lực là
tiêu diệt tất cả những cá nhân có khả năng tiềm tàng mà không chịu theo
chủ nghĩa cộng sản hay đảng Cộng Sản, có thể sẽ có hại cho đảng Cộng
sản trong tương lai. Những người nầy về sau có thể sẽ hoạt động chính
trị và có thể sẽ gây trở ngại, gây nguy hiểm cho sự phát triển của cộng
sản. Nạn nhân danh tiếng đầu tiên của chủ trương giết tiềm lực của Hồ
Chí Minh là Phan Bội Châu (1867-1940). Phan Bội Châu bị Lý Thụy bán tin
cho Pháp, để Pháp bắt Phan Bội Châu năm 1925 tại nhà ga Thượng Hải, nhằm
đoạt lấy tổ chức của Phan Bội Châu. (Tưởng Vĩnh Kính, Nhất cá Việt Nam
dân tộc chủ nghĩa đích ngụy trang giả, bản dịch của Nguyễn Thượng Huyền,
Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, California: Nxb. Văn Nghệ, 1999, tt.
84-85.)
Từ đó, Hồ Chí Minh và phe đảng thi hành
chủ trương giết tiềm lực, ngầm thủ tiêu rất nhiều thanh niên sinh viên
hoạt động chính trị, và nhất là năm 1945, khi nắm được quyền lực, Việt
Minh (VM), mặt trận ngoại vi của Ðảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD), đã
giết hầu hết những nhân tài không theo VM.
Tại Huế, VM tìm tất cả các cách nhắm cô
lập vua Bảo Đại. Cách tốt nhất là cách ly nhà vua với những người có khả
năng và uy tín thân cận bên cạnh nhà vua, trong đó quan trọng hơn cả là
Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi. Do đó, VM ra lệnh bắt Phạm Quỳnh và Ngô
Đình Khôi cùng con của ông Khôi là Ngô Đình Huân ngày 23-8-1945. Đồng
thời VM sắp đặt những người của VM như Tạ Quang Bửu, Phạm Khắc Hòe vây
quanh rỉ tai nhà vua, phóng đại về kháng chiến, về Việt Minh. (Bảo Đại,
Con rồng Việt Nam, tr. 184.)
Theo David G. Marr trong Vietnam 1945,
The Quest for Power, sau khi Phạm Quỳnh và hai cha con Ngô Đình Khôi bị
bắt, người Nhật can thiệp một cách yếu ớt không hiệu quả. Ngày 28-8, sáu
người Pháp nhảy dù xuống một địa điểm cách kinh thành Huế khoảng 20 cây
số nhắm mục đích bắt liên lạc với vua Bảo Đại và các cựu quan Nam
triều. Lúc đầu, VM địa phương tưởng những người Pháp nầy là người của
phe Đồng Minh, cho họ trú tạm tại một ngôi nhà thờ, nhưng khi biết rằng
đây là những người Pháp có ý định tìm cách liên lạc với các quan chức
Nam triều cũ, VM liền giết bốn người, và cầm tù hai người đến tháng
6-1946. (David G. Marr, Vietnam 1945, The Quest for Power [Việt Nam
1945, đi tìm quyền lực] University of California Press, tt. 452-453.)
Trong khi cô đơn, lại bị Phạm Khắc Hòe
xúi giục và hù dọa, vua Bảo Đại tuyên chiếu thoái vị ngày 25-8-1945, và
làm lễ thoái vị tại cửa Ngọ Môn ngày 30-8-1945, với sự hiện diện của đại
diện Việt Minh là Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, và Cù Huy Cận.
Theo hồi ký của Trần Huy Liệu, sau khi
Nhật đầu hàng, người Pháp nhảy dù xuống Huế, liền hỏi ngay đến Bảo Đại,
Phạm Quỳnh và những người cộng tác với Pháp trước đó. Việt Minh bắt được
toán người Pháp nầy và “xử lý thích đáng” Ngô Đình Khôi và Phạm Quỳnh.
(Nguyên văn lời của Trần Huy Liệu). Theo lối chơi chữ của Trần Huy Liệu,
“xử lý thích đáng” có nghĩa là thủ tiêu hai ông Ngô Đình Khôi và Phạm
Quỳnh.
Nhiều người cho rằng việc người Pháp
muốn kiếm cách liên lạc với cựu hoàng Bảo Đại và Phạm Quỳnh (vì lý do gì
không được rõ) vô tình đã làm cho VM lo ngại, sợ rằng một khi người
Pháp trở lui, Pháp sẽ nhờ Phạm Quỳnh và những người đã từng làm việc với
Pháp như Ngô Đình Khôi giúp Pháp lật ngược thế cờ, đưa cựu hoàng trở
lại cầm quyền.
Do đó VM vội vàng “mời” cựu hoàng Bảo
Đại rời Huế ngày 4-9-1945, ra Hà Nội làm cố vấn chính phủ, để cách ly
cựu hoàng với cố đô, chiếc nôi của nhà Nguyễn, đồng thời cách ly cựu
hoàng với những cận thần cũ. Vì vậy VM giết ngay các ông Phạm Quỳnh, Ngô
Đình Khôi ngày 6-9 để trừ hậu hoạn. Trong khi đó, nếu người Pháp trở
lui Huế, người Pháp cũng không hợp tác với Trần Trọng Kim, vì ông Kim và
nội các của ông bị gán cho là thân Nhật.
Thứ haiKhi cướp chính quyền, VM đã chủ ý giết một số người trong đó có Phạm Quỳnh. Việt Minh chủ ý giết Phạm Quỳnh vì:
1. Phạm Quỳnh muốn xây dựng nền quân chủ
lập hiến tại nước ta, và cho rằng cộng sản là “nạn dịch” gây bất ổn xã
hội. (Phạm Quỳnh, “Ce que sera l’Annam dans cinquante ans?” [Nước Nam sẽ
ra sao năm mươi năm sau?], Essais franco-annamites (1929-1932), Huế:
Nxb. Bùi Huy Tín, 1937, tr. 500.) Phạm Quỳnh muốn xây dựng nền quốc học
trong khi Việt Minh muốn phổ biến chủ nghĩa cộng sản.
2. Ở trong nước, Phạm Quỳnh tiêu biểu
cho giới trí thức làm văn hóa, theo chủ nghĩa dân tộc, lập trường quốc
gia, bất bạo động, dấn thân hoạt động chính trị. Việt Minh giết Phạm
Quỳnh để đe dọa, uy hiếp và khủng bố tinh thần giới trí thức hoạt động
văn hóa trên toàn quốc. Đây là lối mà người xưa gọi là “sát nhất nhân,
vạn nhân cụ” (giết một người, mười ngàn người sợ).
3. Đối với nước ngoài, Phạm Quỳnh là
người được Pháp ủng hộ và rất có uy tín trên chính trường Pháp. Với
đường lối ôn hòa, ông còn có thể được cả Nhật, Trung Hoa (lúc bấy giờ do
Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân Đảng cầm quyền), Anh, Hoa Kỳ chấp nhận hơn
là đường lối cực đoan theo Liên Xô của Hồ Chí Minh.
4. Hồ Chí Minh muốn chụp lấy ngay thời
cơ tạo ra do khoảng trống chính trị sau tối hậu thư Potsdam vào cuối
tháng 7-1945, nên chủ trương tiêu diệt tất cả những người nào có khả
năng tranh quyền với Hồ Chí Minh, để cho ở trong cũng như ngoài nước
thấy rằng chỉ có một mình Hồ Chí Minh mới xứng đáng lãnh đạo đất nước.
Phạm Quỳnh đã từng là thượng thư bộ Lại, đứng đầu triều đình Huế. Đặc
biệt những điều ông viết về tương lai thế giới mà ông đưa ra từ 1930
trong bài “Ce que sera l‘Annam dans cinquante ans?” [Nước Nam sẽ ra sao
năm mươi năm sau?] đều đã diễn ra đúng theo ông tiên liệu, như mối đe
dọa của Nhật Bản, nạn dịch cộng sản, xung đột Thái Bình Dương, đại hỏa
hoạn ở châu Âu [thế chiến 2]. Nhờ thế mà uy tín Phạm Quỳnh lên rất cao.
Phạm Quỳnh có uy tín và tư thế lớn đối với dư luận trong và ngoài
nước, là một trong những người có thể trở thành đối thủ đáng ngại của Hồ
Chí Minh, nên Hồ Chí Minh quyết tiêu diệt Phạm Quỳnh để tránh trở ngại
về sau.
5. Khi mới nổi dậy năm 1945, để lôi cuốn
quần chúng, Hồ Chí Minh và Mặt trận Việt Minh tuyên truyền rằng Hồ Chí
Minh là nhà yêu nước, chứ không phải là đảng viên cộng sản, và Hồ Chí
Minh ra đi để tìm đường cứu nước, đồng thời Hồ Chí Minh tự giấu thật kín
chuyện xin vào học trường Thuộc Địa Paris mà bị loại. Một chuyện nữa
cũng thuộc loại “thâm cung bí sử” của Hồ Chí Minh là việc Nguyễn Ái Quốc
gia nhập Hội Tam Điểm (Franc-Maçonnerie) ở Paris vào đầu năm 1922.
(Jacques Dalloz, “Les Vietnamiens dans la franc-maçonnerie coloniale”
[Người Việt trong hội Tam Điểm thuộc địa], tạp chí Revue Française
d’Histoire d’Outre-mer, Tam cá nguyệt 3, 1998, Paris: Société Française
d’Histoire d’Outre-mer, tr. 105) Hội Tam Điểm là một hội có chủ trương
chính trị đối lập với đảng Cộng Sản và là kẻ thù của đảng Cộng Sản.
Cũng trong năm 1922, theo lời mời của
chính quyền Pháp, Phạm Quỳnh đến Paris diễn thuyết tại Trường Thuộc Địa
(École Coloniale) ngày 31-5-1922 về đề tài “Sự tiến hóa về đường tinh
thần của dân Việt Nam từ ngày đặt bảo hộ đến giờ”. Sau đó, Phạm Quỳnh ở
lại Paris để đi diễn thuyết vài nơi, kể cả Viện Hàn lâm Pháp. Trong thời
gian ở Paris, Phạm Quỳnh ghi nhật ký là đã gặp gỡ những “chí sĩ vào
hạng bị hiềm nghi”, và không nêu tên những người ông đã gặp trong nhật
ký. Tuy nhiên, trên sổ lịch để bàn, Phạm Quỳnh ghi rõ: [Thứ Năm, 13-17]:
“Ăn cơm Annam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6
Villa des Gobelins)”. [Tờ lịch Chủ nhật 16-7]: “Ở nhà, Trường, Ái Quốc
và Chuyền đến chơi.” [Chủ nhật 16-7] [Chuyền có thể là Nguyễn Thế
Truyền.]
Như thế, Phạm Quỳnh là một trong những
người biết rõ tung tích Hồ Chí Minh ở Paris, biết rõ Hồ Chí Minh đã gia
nhập hội Tam Điểm Pháp, và đặc biệt Phạm Quỳnh còn sống cho đến 1945
(Những người khác như Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh
đều đã từ trần). Phạm Quỳnh là một nho sĩ chính trực nên ông không tiết
lộ cho vua Bảo Đại biết điều nầy, do đó nhà vua mới bị Phạm Khắc Hòe dẫn
dụ về nhân vật Hồ Chí Minh. (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, tt. 184-185).
Phải chăng vì là người đã lỡ “biết quá nhiều” về Hồ Chí Minh mà Phạm
Quỳnh bị Hồ Chí Minh ám hại?
Trần Trọng Kim – Hồ Chí Minh
Do những lẽ trên, nếu không có những
người Pháp nhảy dù xuống Huế như tác giả David G. Marr viết hay Trần Huy
Liệu kể, cộng sản cũng vẫn giết Phạm Quỳnh. Phạm Quỳnh và Trần Trọng
Kim đều là hai nhà văn hóa, và chính trị nổi tiếng trên toàn quốc. Trần
Trọng Kim viết khảo cứu có tính cách hoàn toàn chuyên môn, chứ không có
chủ trương chính trị lâu dài; nội các Trần Trọng Kim gồm những chuyên
viên cần thiết cho việc xây dựng cơ sở căn bản trong giai đoạn chuyển
tiếp từ chính quyền Pháp qua chính quyền Việt. Trần Trọng Kim ít biết về
những hoạt động của Hồ Chí Minh lúc còn ở Paris.
Ngược lại, Phạm Quỳnh trước tác với một ý
hướng chính trị rõ ràng: xây dựng một nền văn hóa dân tộc, bảo tồn quốc
túy, nâng cao trình độ văn hóa của dân chúng bằng cách phổ biến văn hóa
Âu tây, dịch thuật những tư tưởng dân quyền của Montesquieu, Voltaire,
Rousseau. Phạm Quỳnh tham gia triều đình Huế cũng nhắm đến một chủ đích
rõ ràng: tranh đấu ôn hòa, nhưng cương quyết yêu cầu Pháp trả lại chủ
quyền cho triều đình, và xây dựng một hiến pháp làm luật lệ căn bản của
quốc gia.
Ảnh hưởng văn hóa và chính trị của Phạm
Quỳnh khá rộng rãi trên các tầng lớp quần chúng, nhất là giới trí thức
trung lưu, từ lớp trí thức Nho học đến cả lớp trí thức và thanh niên tân
học. Tạp chí Nam Phong được các lớp người ưu tú ở các địa phương lúc
bấy giờ trên toàn quốc xem như loại sách báo giáo khoa chỉ đường. Đó là
điều mà cộng sản chẳng những không thể chấp nhận và cũng không thể dung
thứ, vì cộng sản muốn nắm độc quyền lãnh đạo chính trị, độc quyền yêu
nước, độc quyền chân lý.
Xin hãy chú ý thêm ngày Phạm Quỳnh bị
sát hại. Phạm Quỳnh bị bắt ngày 23-8-1945, và bị giết ngày 6-9, nghĩa là
ông không bị nhóm VM địa phương Huế giết liền khi họ nổi dậy. Vua Bảo
Đại thoái vị ngày 30-8-1945 với sự chứng kiến của đại diện chính phủ
Việt Minh từ Hà Nội đến là Trần Huy Liệu (bộ trưởng bộ Tuyên truyền),
Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận (bộ trưởng không bộ nào tức quốc vụ
khanh). Phạm Quỳnh bị giam giữ một thời gian, rồi mới bị giết ngày
6-9-1945, nghĩa là lúc đó đã có mặt của đại diện trung ương của VM và
của đảng CSĐD.
Khi đã có sự hiện diện của đại diện
trung ương, các cán bộ VM địa phương chắc chắn không dám tự tiện ra tay,
mà chắc chắn phải có ý kiến của trung ương. Nhóm Trần Huy Liệu cũng
không thể tự quyết định được việc nầy. Như vậy phải chăng chính nhóm
Trần Huy Liệu đã đem lệnh từ Hà Nội vào Huế để giết Phạm Quỳnh? Và lệnh
đó từ đâu, nếu không phải là từ Hồ Chí Minh?
Sau khi Phạm Quỳnh bị giết, hai người
con gái đầu của ông là Phạm Thị Giá và Phạm Thị Thức ra Hà Nội gặp Hồ
Chí Minh. Dưới đây là lời kể của bà Thức: “…Tháng 8 năm 1945, Thầy tôi
ra đi!… Sau đó, chị tôi [tên Giá] và tôi nhờ một anh bạn là Vũ Đình
Huỳnh ngày ấy là garde-corps [cận vệ] cho cụ Hồ, giới thiệu đến thăm cụ
và hỏi truyện [tức chuyện Phạm Quỳnh]. Cụ bảo: “Hồi ấy tôi chưa về… Và
trong thời kỳ khởi nghĩa quá vội và có thể có nhiều sai sót đáng tiếc…” (Hồi ký viết tại Paris ngày 28-10-1992 của bà Phạm Thị Thức, nhân kỷ niệm 100 năm sinh niên Phạm Quỳnh, tài liệu gia đình).
Phạm Quỳnh bị giết ngày 6-9-1945. Hồ Chí
Minh cướp chính quyền ngày 2-9-1945, ra lệnh “mời” Bảo Đại ra Hà Nội,
và Bảo Đại rời Huế ngày 4-9-1945. Như thế có nghĩa là Hồ Chí Minh đã về
Việt Nam, đã cướp được chính quyền, đã nghĩ đến cựu triều đình Huế, đến
việc đưa Bảo Đại ra Hà Nội, vậy chắc chắn Hồ Chí Minh không thể quên hay
không biết chuyện Phạm Quỳnh. Lối lý luận của Hồ Chí Minh là cách chối
tội thông thường cổ điển của VM:
“Mất mùa là tại thiên tai,Được mùa là tại thiên tài đảng ta”
Giết xong Phạm Quỳnh, cộng sản tính việc
hủy diệt luôn hình ảnh sáng chói của nhà văn hóa Phạm Quỳnh, tức giết
Phạm Quỳnh lần thứ hai. Việc nầy thì không thể nói là Hồ Chí Minh không
biết gì cả. Đảng Cộng Sản quy chụp cho Phạm Quỳnh tội “phản quốc, làm
tay sai cho Pháp”. Gần 40 năm sau, trong Từ điển Văn Học, gồm 2 tập, mỗi
tập trên 600 trang, gồm nhiều người viết, do Uỷ ban Khoa học Xã hội
xuất bản tại Hà Nội năm 1984, vẫn không có mục “Phạm Quỳnh”. Khi viết về
các nhóm văn hóa, sách nầy không thể loại nhóm Nam Phong vì nhóm Nam
Phong có khá nhiều tác giả nổi tiếng.
Nói đến nhóm Nam Phong, trang 121-123,
tập 2, tác giả Nguyễn Phương Chi, trong ban biên tập từ điển, vẫn còn
gọi Phạm Quỳnh là “bồi bút, phản động”. Hơn thế nữa, năm 1997, trong Từ
điển nhân vật lịch sử Việt Nam, do nhà xuất bản Văn Hóa, Hà Nội ấn hành,
Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế biên tập, mục “Phạm Quỳnh”, trang
758-759, hai tác giả nầy viết: “Hoạn lộ của ông [chỉ Phạm Quỳnh] lên
nhanh như diều gặp gió vì gắn bó mật thiết với các quan thầy thực dân…
Ngày 23-8-1945, Phạm bị các lực lượng yêu nước bắt ở Huế, rồi sau đó bị
xử bắn ở l. [làng] Hiền Sĩ, t. [tỉnh] Thừa Thiên, hưởng dương 53 tuổi.”
Các tác giả cộng sản thường đưa ra chiêu
bài yêu nước và dân tộc để quy chụp những người không theo khuynh hướng
của cộng sản là phản động, phản quốc, trong khi chính vì Hồ Chí Minh
khăng khăng đi theo cộng sản Liên Xô mà Việt Nam không được các nước
Đồng Minh thừa nhận sau năm 1945. Cũng chính vì đảng Cộng Sản chủ trương
ý thức hệ cộng sản mà gây ra mâu thuẫn quốc cộng, phá hoại tình đoàn
kết dân tộc, là một trong những nguyên nhân chính đưa đến chiến tranh
Việt Nam từ 1946 đến 1975, và hậu quả còn kéo dài mãi cho đến ngày nay.
Sau năm 1954, rồi 1975, chính đảng Cộng
sản Việt Nam đã nhập cảng và áp dụng một cách máy móc chính sách văn hóa
Mác, Mao và kinh tế chỉ huy rập theo khuôn Liên Xô và Trung Cộng, đã
làm cho Bắc Việt rồi cả Việt Nam suy kiệt về mọi mặt cho đến ngày nay mà
chưa tìm ra lối thoát.
Nếu nói rằng: Phạm Quỳnh hợp tác với
Pháp để mưu cầu chủ quyền cho Việt Nam, bảo vệ quyền lợi của quốc gia là
làm tay sai cho ngoại bang, còn Hồ Chí Minh và đảng cộng sản theo Nga
Hoa, bán đứng quyền lợi đất nước, thì không phải là tay sai ngoại bang?
Nếu nói rằng Phạm Quỳnh hợp tác công khai với Pháp, viết bài trình thuật
rõ ràng các hoạt động của ông là phản quốc, trong khi Hồ Chí Minh làm
gián điệp cho Đệ tam Quốc tế Cộng sản, cầu viện Trung Quốc và Liên Xô là
không phản quốc?
Nếu nói rằng Phạm Quỳnh viết bài quảng
bá học thuật Âu tây, đề cao tư tưởng dân quyền của Voltaire,
Montesquieu, Rousseau là không có tinh thần dân tộc, còn cộng sản phổ
biến tư tưởng Marx, Lenin, và nhất là chủ nghĩa Stalin thì gọi là gì?
Phạm Quỳnh dịch thơ Corneille, Racine là bồi bút, còn Tố Hữu làm thơ gọi
Stalin là ông nội, “thương cha thương mẹ thương chồng / thương mình
thương một thương ông thương mười”, thì không bồi bút?
Nói cho cùng, nếu Phạm Quỳnh chỉ là người học trò bình thường của Voltaire, Montesquieu hoặc Rousseau thì cũng đáng mừng cho dân tộc Việt Nam,
vì tư tưởng của các nhà học giả Pháp nầy là ánh sáng soi đường cho nhân
dân toàn thế giới xây dựng nền tự do dân chủ phân quyền pháp trị.
Trong khi đó Hồ Chí Minh là “một người
học trò trung thành của Các Mác và V. I. Lê-nin” (Ban Nghiên cứu Lịch sử
Đảng trung ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp, in lần thứ
tư, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1975, tr. 160), và nhất là người học trò xuất
sắc của Stalin, thì thực tế lịch sử đã chứng minh rằng đó là hiểm họa
độc tài đen tối khốc liệt nhất từ trước đến nay trong lịch sử Việt Nam.
Dầu sao, việc tuyên truyền của cộng sản
một thời gây nhiễu xạ hình ảnh của Phạm Quỳnh và ảnh hưởng không ít đến
dư luận dân chúng, làm nhiều người, kể cả vài kẻ tự mệnh danh là trí
thức tiến bộ, hiểu sai về Phạm Quỳnh, và hiểu sai luôn về một số nhân
vật chính trị theo khuynh hướng quốc gia dân tộc. Phạm Quỳnh đã
từng nói: “Về phần tôi, tôi đã chọn con đường của tôi. Tôi là một người ở
buổi giao thời và tôi sẽ chẳng bao giờ được cảm thông…”. (Thư
ngày 30-12-1933 của Phạm Quỳnh gởi Louis Marty, Hành trình nhật ký,
Paris: Nxb. Ý Việt, 1997, phần “Dẫn nhập”, không đề trang).
Ngày nay, sau những biến động đảo điên
của thời cuộc, mọi người nên công tâm tìm hiểu Phạm Quỳnh và nhìn lại sự
nghiệp của ông. Trước ngã ba đường vào đầu thế kỷ 20, giữa cựu học, Tây
học, và tân học, Phạm Quỳnh chọn con đường tân học, cải tiến và hoàn
chỉnh văn học Quốc ngữ để làm phương tiện xây dựng quốc học, vừa bảo vệ
quốc hồn quốc túy, vừa bồi đắp thêm bằng cách du nhập những tinh hoa văn
hóa nước ngoài.
Chủ trương hòa nhập văn hóa (acculturation) của Phạm Quỳnh
xét cho cùng rất quý báu và cần thiết cho đất nước, vì nếu chỉ mải mê
tranh đấu chính trị và quân sự, mà không xây dựng nền văn hóa dân tộc
dựa trên quốc hồn, quốc học và quốc văn, thì người Việt vẫn bị trì trệ
trong sự nô lệ tinh thần. Những đóng góp của ông trong việc phát triển
nền văn chương Quốc ngữ thật lớn lao. Những vấn đề văn chương, triết lý
tổng hợp đông tây ông đã viết, những ý kiến do ông đưa ra trong các bài
báo, kể cả những ý kiến ông tranh luận về truyện Kiều, về Nho giáo, vẫn
còn có giá trị. Giấc mơ của Phạm Quỳnh về quốc học, quốc hồn lại càng
cần được cổ xúy làm nền tảng giáo dục tinh thần cho mọi người Việt Nam
ngày nay ở trong cũng như ở ngoài nước. Phạm Quỳnh là nhà văn hóa lớn
của Việt Nam thời hiện đại.
Về chính trị, Phạm Quỳnh viết nhiều tiểu
luận bằng tiếng Việt cũng như bằng tiếng Pháp để tranh đấu thực hiện lý
tưởng chính trị của ông. Nhiều người thường đồng nghĩa nền quân chủ với
phong kiến hoặc thực dân, nên cho rằng quan niệm quân chủ lập hiến của
Phạm Quỳnh là thủ cựu. Cần phải chú ý là Phạm Quỳnh chủ trương bất bạo
động. Ông chọn thể chế quân chủ lập hiến với hy vọng thúc đẩy Việt Nam
chuyển biến một cách ôn hòa trong trật tự.
Nhìn ra nước ngoài, hiện nhiều
nước trên thế giới vẫn duy trì nền quân chủ lập hiến, nhưng vẫn là những
nước hết sức dân chủ như Anh Quốc, Nhật Bản, Thụy Điển, Bỉ… Ở
trong nước, xét trên chiều dài của lịch sử, từ ngày Pháp đặt nền đô hộ
năm 1884 đến năm 1945, tuy các vua nhà Nguyễn bị người Pháp khống chế,
nhưng vua vẫn là biểu tượng cao cả của đất nước, nên các cuộc nổi dậy
kháng Pháp từ Bắc vào Nam đều quy hướng về một mối, đó là triều đình ở
kinh đô Huế. Trái lại từ năm 1945 trở đi, khi VM cộng sản cướp chính
quyền, người Việt Nam bị chia rẽ trầm trọng thành nhiều phe nhóm khác
nhau, theo những quan điểm khác nhau. Do đó, Phạm Quỳnh có phần hữu lý
khi ông chủ trương cải cách ôn hòa, và chọn quân chủ lập hiến theo đại
nghị chế thay thế cho nền quân chủ chuyên chế.
Ngày nay, cục diện chính trị Việt Nam đã thay đổi hẳn,
quan niệm quân chủ lập hiến của Phạm Quỳnh không còn phù hợp, nhưng
không thể vì thế mà phủ nhận tinh thần ái quốc, lòng can đảm và sự tận
tình của ông trên con đường phụng sự quê hương. Phạm Quỳnh đã
âm thầm tranh đấu bất bạo động để đòi hỏi chủ quyền cho đất nước. Ông đã
hết lòng hoạt động vì nước và đã hy sinh vì lý tưởng của mình. Đó là
điều thật đáng trân quý nơi Phạm Quỳnh, nhà trí thức dấn thân hoạt động
chính trị.
Một điều đáng ghi nhận cuối cùng trong
cách thức hành xử của Phạm Quỳnh. Ông theo đuổi một lý tưởng chính trị
trường kỳ và bất bạo động, nên ông luôn luôn cố gắng làm những gì có lợi
cho đất nước và đồng bào, đồng thời tránh không làm bất cứ việc gì có
hại cho quốc gia dân tộc. Phạm Quỳnh sống lương thiện, không tham ô nhũng lạm, và cũng không hề gây tội ác giết hại đồng bào.
Thái độ nầy là điều mà rất ít nhà hoạt động chính trị của mọi khuynh
hướng thực hiện được, và là một điểm son sáng chói phân biệt Phạm Quỳnh
với những người ra hợp tác với Pháp để trục lợi cầu vinh.
Đây là điều cần phải được tách
bạch. Trong việc hợp tác với Pháp, có hai hạng người: hạng thứ nhất là
những kẻ hợp tác để mưu cầu danh lợi riêng tư, lợi dụng quyền thế, hống
hách bóc lột đồng bào; hạng thứ hai ra tham chính, làm việc với Pháp,
không dựa vào quyền thế để hiếp đáp dân chúng, mà dùng quyền thế để cứu
giúp đồng bào, và vẫn giữ được khí tiết riêng của mình như Nguyễn Trường
Tộ, Pétrus Trương Vĩnh Ký, và biết bao nhiêu người vô danh khác.
Phải tránh vơ đũa cả nắm, và phải rõ
ràng như thế mới hiểu được tâm trạng cùng sự can đảm của những nhà trí
thức, trong hoàn cảnh éo le của đất nước, dấn thân hoạt động chính trị,
phụng sự dân tộc, nhất thời đã bị hiểu lầm sau những cơn lốc tranh chấp
chính trị kéo dài trên quê hương yêu dấu, trong đó Phạm Quỳnh là trường
hợp điển hình nhất.
Trần Gia Phụng
0 comments:
Post a Comment