HUỲNH THANH TRÚC
“Vào
Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù
mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người ta
có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ... nếu người ta muốn. Đó
mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã
thua một chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là
bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải...”
- Dương Thu Hương
“Một
câu hỏi da diết xuất hiện trong những khoảnh khắc ấy: những gương mặt
mà ta đã gặp, những ngôi nhà, góc phố, hàng cây, mỗi ngôi làng hay thậm
chí một tiếng chuông chùa trong đêm sẽ như thế nào, sẽ ra sao, nếu như
không có Ngày Độc lập 2/9 ấy?...”
- Trương Tấn Sang
“Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh ấy người đây luống đoạn trường”
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh ấy người đây luống đoạn trường”
(Bà Huyện Thanh Quan)
Bài thơ tác giả “hoài cảm”
sau năm 1802 khi Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn lên ngôi, niên hiệu
Gia Long và định đô ở Huế. Từ đó, Thăng Long (Hà Nội) chỉ còn là “cố đô” - Lời thơ mang âm hưởng hoài niệm tiếc nuối một thời vàng son dĩ vãng.
Bối cảnh cũng gần giống như vậy – Sài Gòn xưa “hòn ngọc Viễn Đông”
một hình ảnh thiêng liêng, thân thương không thể nào phai nhòa trong
trái tim của gần ba mươi triệu người miền Nam, Việt Nam, có một thời, dù
khói lửa chiến chinh từ phía Bắc, bên kia vĩ tuyến 17 tràn sang nhưng
cũng cố gắng vươn lên trong những khoảnh khắc “tạm yên bình” ngắn ngủi
giữa thập niên 60-70 – Ngắn ngủi thôi, nhưng những gì có được cũng đã
làm cho những trái tim còn thuần khiết “tính người” như nhà văn nữ miền
Bắc Dương Thu Hương phải mềm lòng thổn thức rơi lệ bởi cảm xúc trong
ngậm ngùi, “tiếc nuối”, giữa lòng TP/phố Sài Gòn 30/4/1975. Nhà văn này
tâm sự….
Dương Thu Hương: (thở dài) Điên rồ thì tôi có nhiều thứ điên rồ. Khóc thì tôi có hai lần khóc.
Lần
thứ nhất khi đội quân chiến thắng vào Sài Gòn năm 1975, trong khi tất
cả mọi người trong đội quân chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc.
Vì tôi thấy tuổi xuân của tôi đã hy sinh một cách uổng phí. Tôi không
choáng ngợp lắm vì nhà cao cửa rộng của miền Nam, mà vì tác phẩm của
tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do;
tất cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ biết đều có tác phẩm bầy trong
các hiệu sách, ngay trên vỉa hè; và đầy dẫy các phương tiện thông tin
như TV, radio, cassette. Những phương tiện đó đối với người miền Bắc
là những giấc mơ. Ở miền Bắc, tất cả mọi báo đài, sách vở đều do nhà
nước quản lý. Dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi; và chỉ có
những cán bộ được tin tưởng lắm mới được nghe đài Sơn Mao, tức là đài
phát thanh Trung Quốc. Còn toàn bộ dân chúng chỉ được nghe loa phóng
thanh tập thể; có nghĩa là chỉ được nghe một tiếng nói. Vào Nam tôi mới
hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con
người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể
nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ... nếu người ta muốn. Đó mới là
chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua một chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải.
(Nguồn: Nhật Báo Người Việt).
Và mới đây trong một bài viết nói về ngày 2/9 có cái tựa “Phải biết hổ thẹn với tiền nhân” [http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/508023/Phai-biet-ho-then-voi-tien-nhan-.html] ông “Tổng thống” (CT nước) Trương tấn Sang như “tâm sự” rằng (nguyên văn): “Một
câu hỏi da diết xuất hiện trong những khoảnh khắc ấy: những gương mặt
mà ta đã gặp, những ngôi nhà, góc phố, hàng cây, mỗi ngôi làng hay thậm
chí một tiếng chuông chùa trong đêm sẽ như thế nào, sẽ ra sao, nếu như
không có Ngày Độc lập 2/9 ấy?...” thì những dòng của viết bài này
ngoài mục đích hoài cảm “một thoáng hương xưa” với đồng bào, nhất là
các bạn đọc trẻ trong và ngoài nước sinh sau 1975 thì cũng nhân tiện gửi
đến ngài “Tổng thống nước” một số hình ảnh cũ của Sài Gòn ngày xưa,
nơi mà chắc ngài không lạ (vì ngài từng là “chủ nhân ông”, hít thở
không khí Sài Gòn một thuở) với cùng một câu hỏi: “… cảnh cũ này sẽ thay đổi ra sao, nếu như không có Ngày 2/9 định mệnh ấy?...” thưa ông!?...
Thập niên 1960-70 đường ray xe lửa vẫn
còn trên đường Hàm Nghi - Sài Gòn
Nhưng
vóc dáng một góc Sài Gòn, “thủ phủ Đông Dương” như thế này (1960-65)
Bangkok, Singapore, Đài Loan và Seoul sau Đệ II thế chiến chưa thể có
kịp, và những hình ảnh cũ dưới đây của Sài Gòn một thuở, người dân đang
năng động hối hả xây dựng một cuộc sống phồn vinh cho đất nước, cùng
nhịp điệu với các quốc gia tự do dân chủ vừa lấy lại độc lập trong khu
vực Asean (Đông Nam Á) mà không tốn một giọt máu nào.
Sài
Gòn những năm 1960-1970 (trên), cùng thời điểm (ảnh dưới) là Hà Nội.
Không cốt ý bôi bác hay phê phán, bởi Nam Bắc cùng là dân Việt, nỗi buồn
đâu của riêng ai! Mà đơn giản, so sánh để khẳng định cái từ ngữ chiêu
bài mà những người CSVN đã “lừa bịp” đồng bào miền Bắc rằng: “Phải giải phóng đồng bào miền Nam đang bị kềm kẹp trong đói nghèo, đau thương”
là không có thật... mà thời điểm ấy, quốc tế CS (Nga-Tàu) chi viện
quân sự và chỉ thị cho CSVN phải tiến hành đánh chiếm “nhuộm đỏ” miền
Nam VN trước khi “cộng sản hóa” Đông Dương (Việt-Miên-Lào”) và sau đó
là Đông Nam Á, duy nhất trên thế giới tại thời điểm ấy chỉ có CSVN là
lấy “máu xương, lương thực” của nhân dân miền Bắc làm “nhiên liệu”
thử nghiệm cổ máy cộng sản làm bàn đạp để tiến xuống phía Nam Châu Á.
Nhân dân miền Bắc không còn gì ngoài một đời sống “hắt hiu, u buồn” bên
trong bức màn sắt CNXH. Lo toan hàng ngày của mọi người, duy nhất, là
có một thứ gì đó cho vào bụng và mơ... một chiếc xe đạp! Tất cả họ, đều
như là những con “ốc vít” trong một cổ máy chiến tranh, không có ngoại
lệ, không ai được phép “sáng tạo” tư hữu cho bản thân và gia đình
ngoài “Bác và đảng cộng sản”…
Hình ảnh thãm thương cũa Hà Nội
thập niên 1960–1970:
Sài
Gòn Miền Nam - những năm 1960-1970 đang khởi đầu công nghiệp hóa nền
kinh tế non trẻ bằng hệ thống Ngân Hàng quốc gia tài trợ cho các dịch vụ
nhập khẩu máy móc trang thiết bị đầu tư kỹ thuật trong các dây chuyền
sản xuất nâng cao giá trị và năng suất các sản phẩm hướng đến xuất
khẩu, điển hình là băng rôn quảng bá cung ứng dịch vụ này treo ngang
đường Tự Do (Đồng Khởi ngày nay) - một chính sách thức thời mà chế độ
CS/XHCN miền Bắc còn rất xa lạ - không có trong kế hoạch, cũng như kinh
phí ngoại tệ...
Sài Gòn -1966 - Băng rôn treo ngang đường Tự Do (Đồng Khởi)
Thập
niên 1960-70 Hà Nội “kỹ thuật” chủ yếu dựa vào thủ công “sức người”
bởi hàng “viện trợ” của Nga Tàu hầu hết chỉ là vũ khí súng đạn cung ứng
cho cổ máy chiến tranh của CSVN rất ít hàng hoá dân dụng tiêu dùng.
24-10-1966
- Các Phu nhân Tổng Thống - bà Thiệu, bà Johnson, bà Kỳ, bà Marcos
tháp tùng cùng Phu quân là các tổng thống, thủ tướng tại Philippines,
trong phiên họp thượng đỉnh của các nguyên thủ quốc gia trong Hiệp Ước
Liên Phòng Đông Nam Á.
19/5/2010
Bà Phó “PCT/Nước: Nguyễn thị Doan”(áo đen thứ ba bên phải qua) và các
“VIP” phụ nữ của CHXHCN/Việt Nam tham dự hội nghị thượng đỉnh phụ nữ
toàn cầu tại Bắc Kinh.
Cách
nhau gần nửa thế kỷ - hai nhóm phụ nữa trên và dưới có quá nhiều khác
biệt, không biết có phải là do “đặc trưng” của XHCN không? khiến chúng
ta khi so sánh sẽ mỉm cười thú vị mà không cần phải bình luận! Cũng cần
nhắc lại bà Nguyễn Thị Doan là tác giả câu nói bất hủ “Việt Nam dân chủ gấp vạn lần tư bản phương Tây...”
Nửa
thế kỷ cách ngày hôm nay nhưng vóc dáng phong thái của “phái yếu”
người Sài Gòn ngày xưa đó nét duyên dáng trí thức không lẫn vào đâu
được, đa dạng mái tóc kiểu phương Tây, chiếc áo dài ngày ấy đã canh tân
không còn “cổ cao”, tay áo cắt “raplan” và đặc biệt dễ nhận ra nhất
của thập niên 60-70 là áo dài có “chít eo” ngang hông rất rõ, những
chiếc “jup” tây phương sắc màu tươi trẻ nhưng không cao “quá gối” và nữ
sinh, sinh viên tóc thề áo trắng nên thơ, nói chung, phụ nữ xã hội
miền Nam Sài Gòn thuở ấy có đủ mọi thứ, để hoàn toàn tự do trang điểm
làm đẹp cho chính mình mà không bị lệ thuộc bất cứ chủ nghĩa giáo điều
khe khắt nào khác...
Phương
tiện xe gắn máy cá nhân phổ biến thông dụng ở thủ đô Sài Gòn ngày đó
ngoài các loại xe Vespa, Lamberetta Ý và Gobel, Mobilete, Velosolet của
Pháp thì đa phần là hai loại xe Nhật, Honda 67 cho nam và Honda Dame
cho nữ, nhìn hình ảnh các “bóng hồng” ngày ấy, đẹp và lịch sự trên
đường phố Sài Gòn cách nay nữa thế kỷ mà cứ ngỡ như mới ngày hôm qua -
(cô gái có cái bảng nhắc nhở mọi người lấy thẻ cử tri bầu cử Tổng Thổng
1967 – Và hai cô gái váy đen bên chiếc taxi hai màu xanh vàng mang số
hiệu 7533 của Sài Gòn thập niên 1960). Hình ảnh đủ để chúng ta chiêm
nghiệm cái lạc hậu độc tài bảo thủ cố chấp của CSVN đã kéo lùi thời
gian gây nên sự trì trệ trong phát triển của dân tộc như thế nào so với
những gì chỉ trong một thời gian ngắn Sài Gòn làm được trước kia và so
với các nước láng giềng trong khu vực.
Tương
phản khác biệt quá nhiều của khung cảnh, con người Sài Gòn và Hà Nội
cùng thời điểm, rất khó khăn và buồn lòng để bình luận khi mà mơ ước lớn
lao nhất của mọi người miền Bắc lúc bấy giờ chỉ là chiếc xe đạp tầm
thường Phượng Hoàng Trung Quốc trong khi xe đạp cực tốt mang nhãn hiệu
“bồrô” của Pháp là mặt hàng bình dân ở miền Nam buôn bán đầy đường ….
Hình ãnh thãm thương cũa Hà Nội
1960-70:
Thập
niên 1960-70 minh chứng cho sự năng động phát triển kinh tế của Sài
Gòn miền Nam mang tầm khu vực Châu Á hướng ra thế giới là hãng Hàng
Không AIR Việt Nam với đội ngũ phi cơ phản lực mới nhất và các phi công
chuyên nghiệp đường bay quốc tế mà hãng hàng không cộng sản Trung Cộng
lúc bấy giờ chưa sở hữu được. Còn chế độ CS miền Bắc, Hà Nội thì chẳng
biết gì về hàng không dân dụng ở thời điểm ấy. Người dân và sinh viên
Sài Gòn miền Nam hoàn toàn tự do đi du học và xuất cảnh ra nước ngoài
mà không bị ràng buộc bất cứ lý do gì, đó là một điều không tưởng với
nhân dân miền Bắc... bị cô lập trong bức màn sắt CSVN.
Nói
đến hàng hóa tiêu dùng dân dụng thì tại thời điểm ấy thị trường Sài
Gòn miền Nam hàng hóa trù phú fẫm chất cao, còn nhiều hơn Trung Quốc,
tấp nập bày bán tự do. Tại miền Bắc, Hà Nội chẳng có bất cứ một thứ gì
để mà so sánh, bởi vì người dân bình thường Sài Gòn thời điểm ấy đang
sử dụng quạt máy, tủ lạnh, máy may và TV đen trắng. Trong khi hai mặt
hàng mà bất cứ người dân miền Bắc nào cũng mơ ước (như nhà văn Dương
Thu Hương nói) là đồng hồ đeo tay và Radio thì thừa mứa ở các quầy hàng
khắp miền Nam đến nỗi các hảng sản xuất phải treo bảng quảng cáo trên
đường (trong ảnh). Nói cho vui, miền Bắc dưới sự lãnh đạo của đảng chỉ
có hai thứ mà miền Nam không có là (tên lửa Sam 2 và phân người hoại mục).
So
với miền Nam- Ngắm nhìn hình ảnh bà con nhân dân miền Bắc và Hà Nội -
CS/XHCN với chế độ “tem phiếu” tranh nhau từng chiếc “lốp” xe đạp, mảnh
thịt, lạng đường, hộp diêm ngày đó... mà buồn nản đến nao lòng.
Cụ
thể hơn, Sài Gòn miền Nam không cần phải CNXH hay “đấu tranh giai cấp”
nhưng nhìn hai hình ảnh dưới đây có cùng xấp xỉ thời gian thập niên
1960-70 để thấy, cùng một kiếp người “thì ai mới cần giải phóng cho ai”?
(Sài Gòn phương tiện mưu sinh gắn máy giải phóng sức người lao động
mang lại hiệu quả cao, Hà Nội công cụ mưu sinh còm cõi tiêu hao sinh lực
không thấy tương lai).
Thượng tầng cấu trúc Quốc Gia – VNCH
(Miền Nam, Sài Gòn)
Thời
điểm ấy 1960-70 đầy đủ chuẩn mực, khuôn mẫu, của một đất nước văn minh
ngày hôm nay. Tổng Thống và Lưỡng viện Quốc Hội (Thượng và Hạ Viện) –
Điển hình là một cuộc họp tại thượng nghị viện Việt Nam Cộng Hòa (ảnh).
Tự Do báo chí với hơn 50 tờ báo tư nhân các loại tại Sài Gòn so với
không có tờ báo tư nhân nào dưới chế độ CSVN ngày nay, sau hơn 2/3 thế
kỷ - CSVN gọi đó là thống nhất tự do dân chủ?
Sài
Gòn miền Nam - người dân luôn được giáo dục nhắc nhở phải tôn trọng
tri ân tưởng nhớ công lao các anh hùng tiền nhân của dân tộc, uống nước
nhớ nguồn, tưởng niệm và tôn vinh, làm tấm gương soi rọi cho hậu thế
noi theo (Kỷ niệm Lễ Hai Bà Trưng giữa lòng TP/Sài Gòn- và toàn dân
tưởng nhớ đức Trần Hưng Đạo – Anh hùng Vua Lê Lợi).
Ngược
lại dưới chế độ CSVN – Đục bia xóa bỏ chiến công Hoàng Đế Quang Trung
(Đền Vua Quang Trung núi Dũng Quyết), gắn thêm ngôi sao VN lên cờ trung
Quốc, tổ chức “Đại Hội Toàn Dân, Quân VN nhớ ơn trung Quốc” tại thủ đô
Hà Nội!? cho vui lòng “đồng chí” 4 tốt 16 vàng...
Hai
hình ảnh trên, dưới – cách nay nửa thế kỷ cho thấy 1967 nhân dân SG
bất đồng chính kiến vẫn được chính quyền Sài Gòn tôn trọng chấp nhận
cho biểu tình.
Hơn
40 năm sau, 2011, dưới chế độ CSVN tại Hà Nội - Sài Gòn, người dân
biểu tình, dù là “yêu nước” chống TQ xâm lược lại bị đàn áp tàn bạo!
1958
– Quần đảo Hoàng Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa – Do QL/VNCH quản
lý. Ông Phạm Văn Đồng (CS Bắc Việt) dưới sự chỉ đạo của ông HCM, ký
công hàm xác nhận Hoàng Sa nằm trong lãnh hải Trung Quốc.
1974
– Hải quân Trung Quốc xâm lược đánh chiếm Hoàng Sa trong tay QL/VNCH –
CS Bắc Việt im lặng. Trong khi nhân dân Sài Gòn miền Nam và kiều bào
hải ngoại biểu tình lên án và phản đối hành vi xâm lược của Trung Quốc
khắp nơi.
Những
cuộc biểu tình của đồng bào miền Nam - Việt Nam Cộng Hòa toàn quốc và
khắp nơi trên thế giới của Sinh viên và Việt kiều năm 1974 tố cáo và
phản đối Cộng Sản Trung Quốc xâm lược quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Băng
rôn sinh viên học sinh đồng bào SàiGòn biểu tình tố cáo, phản đối
Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa năm 1974: “Cương quyết tận diệt Trung Cộng
kẻ thù truyền kiếp của dân tộc”. [Ảnh một buổi trao trả tù binh: Những
tù binh VC (hàng đứng mặc áo trắng) chuẩn bị được trao trả cho Bắc
Việt].
27-1-1973, CSVN ký hiệp định đình chiến chấm dứt chiến tranh tại Paris.
Trong đó Điều khoản 5 qui định: Sự tái thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng các biện pháp hòa bình.
Bà Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27/1/1973).
Tuy
nhiên – Khi Mỹ rút hết quân – 1975 cộng sản Bắc Việt xua quân tràn vào
đánh chiếm miền Nam Việt Nam, bất chấp chữ ký của họ trước đó trong
Hiệp Định Paris.
1975 - Sinh viên VN tại Pháp “để tang” cho đất nước ngày 30/4.
Những
bánh xích chiến xa của cộng sản miền Bắc VN đã nghiền nát giấc mơ của
gần 30 triệu người miền Nam đang mang khát vọng đưa Sài Gòn và miền Nam
VN cất cánh bay lên như Singapore, Đài Loan, Thái Lan, Hàn Quốc ngày
nay.
Họ,
CSVN lừa bịp dân tộc, lừa bịp quốc tế, trơ tráo xé nát Hiệp Định Paris
- Phá bỏ điều khoản 5: (Thống nhất VN bằng những giải pháp hòa bình),
họ dấu tiệt lá “cờ đỏ sao vàng” vượt vĩ tuyến 17 bằng súng đạn, xâm
lược đánh chiếm miền Nam bằng lá cờ “nửa xanh, nửa đỏ” MTGPMN. Để khỏi
vướng bận và “tranh công” vài tháng sau 30/4 họ tự động hạ cờ “xanh đỏ”
giải tán “tấm bình phong bù nhìn” MTGP/MN này.
Chính
họ - CSVN đã phạm một sai lầm “vĩ đại” bắt cả dân tộc phải huynh đệ
tương tàn hy sinh gần 5 triệu người - một thế hệ thanh niên tinh hoa của
quốc gia nằm xuống vô nghĩa, đổi lại lấy về một giang sơn của cha ông
làm hao hụt đất đai biên giới biển trời hải đảo và còn hơn thế nữa họ
đẩy người Mỹ đi để Biển Đông trống trải không ai canh giữ, cho bọn bành
trướng Trung Quốc rảnh tay tự do thôn tính biển đảo quê nhà VN mà họ,
CSVN, đang lực bất tòng tâm bắt cả nước phải “Đại Hội toàn Dân-Quân VN nhớ ơn Trung Quốc”!
“…
Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua một chế độ man rợ. Đó là sự
hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn
nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải…”
0 comments:
Post a Comment