Friday, October 31, 2014

US President Johnson - "a goddam bunch of thugs"

BBT : Chúng tôi cho đăng lại tài liệu cũ dưới đây vì tính lịch sử của nó vẫn luôn có giá trị xuyên thời gian.
Vì sao tổng thống Mỹ gọi một số tướng tá Việt Nam Cộng Hòa là
“bọn ác ôn côn đồ”
Tú Gàn
(Saigon Nhỏ ngày 8.11.2003)

Trong cuốn băng dài 30 tiếng đồng hồ do thư viện Johson
Library Austin, Texas, công bố ngày 28 tháng 2, 2003, Tổng Thống Johnson đã gọi các tướng miền Nam Việt Nam được Hoa Kỳ thuê đảo chánh lật đổ và giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm là “một bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa ("a goddam bunch of thugs"). Họ là ai và đã làm gì mà bị Tổng Thống Johnson miệt thị như vậy?

Nhận diện “bọn ác ôn côn đồ”
Tướng Trần Văn Đôn cho biết các sĩ quan cao cấp của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) sau đây đã nằm trong nhóm đứng ra tổ chức đảo chánh:
Trung Tướng Dương Văn Minh
Trung Tướng Trần Văn Đôn
Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm
Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân
Thiếu Tướng Tôn Thất Đính
Thiếu Tướng Nguyễn Khánh
Thiếu Tướng Lê Văn Kim
Thiếu Tướng Trần Văn Minh
Thiếu Tướng Phạm Xuân Chiểu
Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm
Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu
Đại Tá Đỗ Mậu,
Đại Tá Dương Ngọc Lắm
Đại Tá Nguyễn Văn Quan,
Đại Tá Nguyễn Hữu Có
Đại Tá Trần Ngọc Huyến,
Đại Tá Nguyễn Khương
Đại Tá Đỗ Cao Trí

Trong một cuộc phỏng vấn, Tướng Khánh có nói với chúng tôi rằng ông là người được CIA tiếp xúc trước tiên khi muốn làm đảo chánh. Nhưng theo tài liệu, CIA đã cho 2 điệp viên khác nhau đến gặp Tướng Khiêm và Tướng Khánh cùng một lúc. Điệp viên
Lucien Emile Conein đến gặp Tướng Khiêm, một nhân viên CIA, lúc đó là Tham Mưu Trưởng Liên Quân, và cho biết quyết định của Hoa Kỳ muốn lật đổ Tống Thống Ngô Đình Diệm. Tướng Khiêm đồng ý nhận thực hiện kế hoạch đó, nhưng gợi ý nên đi gặp Tướng Dương Văn Minh và Tướng Trần Văn Đôn. Trong khi đó, một điệp viên khác là Al Spera, cố vấn chính trị Bộ Tổng Tham Mưu, đi Pleiku gặp Tướng Nguyễn Khánh, một cộng tác viên khác của CIA, để thảo luận về việc này. Khi Al Spera hỏi Tướng Khánh về tướng Khiêm, Tướng Khánh đã nắm chặt hai bàn tay của mình lại và nói: “Chúng tôi như thế này.”

Sau khi Tướng Khiêm và
Lucien Conein phác họa xong kế hoạch hành động, ngày 2 tháng 10, 1963 khi Tướng Đôn lên phi trường đi Nha Trang thì Lucien Conein đến gặp và hẹn sẽ nói chuyện với nhau ở Nha Trang. Tối hôm đó, tại Nha Trang, Lucien Conein thuyết phục Tướng Đôn làm đảo chánh và Tướng Đôn đã đồng ý. Ngày 5 tháng 10, 1963, Lucien Conein lại đến bàn chuyện này với Tướng Dương Văn Minh. Tướng Minh cũng đồng ý. Tướng Đôn được giao cho phối trí lực lượng, còn Tướng Minh lãnh đạo Hội Đồng Cách Mạng. Tất cả nằm dưới sự chỉ đạo của Lucien Conein và Tướng Khiêm.

1. Vai trò của Lucien Emile Conein:
Chúng tôi chưa tìm được tài liệu nào nói về điệp viên Al Spera, nhưng chúng tôi có khá nhiều tài liệu về điệp viên Lucien Emile Conein. Ông sinh năm 1919 tại Paris, mồ côi cha sớm, lúc mới 5 tuổi được mẹ gởi sang Hoa Kỳ sống với bà dì tại Kansas City thuộc tiểu bang Kansas, nhưng vẫn giữ quốc tịch Pháp. Ông đã từng làm điệp viên cho OSS (tiền thân của CIA) từ năm 1943 với cấp bậc Trung Úy, hoạt động chống Đức Quốc Xã trong Đệ Nhị Thế Chiến ở Âu Châu, rồi qua Bắc Việt khi chiến tranh chấm dứt. Từ 1954 đến 1956 ông đến Việt Nam hoạt động trong toán đặc nhiệm dưới quyền của Đại Tá Edward Lansdale, người đã giúp Tổng Thống Ngô Đình Diệm chống lại nhóm Bảy Viễn và Tướng Nguyễn Văn Hinh. Sau đó, ông trở về Mỹ và tham gia Lực Lượng Đặc Biệt(Special Force), nhưng vẫn còn làm việc cho CIA.

Năm 1961 ông đã xin về hưu, nhưng năm 1962 ông được CIA gọi làm việc trở lại và phong cho chức Trung Tá với bí danh là Lulu hay Black Luigi, rồi gởi qua Sài Gòn làm cố vấn cho Bộ Nội Vụ. Nhưng trong thực tế, Lucien Conein có nhiệm vụ móc nối với các tướng Việt Nam mà ông đã có dịp quen biết khi phục vụ dưới quyền của Đại Tá Lansdale, để chuẩn bị tổ chức đảo chánh lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Đại Sứ Henry Cabot Lodge gọi Lucien Conein là “the indispensable man”
(con người rất cần thiết). Còn trong cuốn “Vietnam: A History,” sử gia Stanley Karnow nói rằng Lucien Conein là “một người lập dị, một người náo nhiệt, một nhân viên tình báo rất nhạy cảm và hoàn toàn chuyên nghiệp, thường không thể kiểm soát được.” Sau này, Everette E. Howard Hunt cũng đã dự tính dùng Lucien Conein trong vụ Watergate.

Mỗi lần được phỏng vấn, Lucien Conein thường mở đầu câu chuyện bằng câu:
“Bây giờ, đây là sự thật hai mặt, là thứ danh dự của hướng đạo sinh, là sự thật hai mặt” hay “Đừng tin bất cứ điều gì tôi nói. Tôi là một tên nói dối chuyên nghiệp.”

Khi cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11, 1963 xảy ra, Lucien Conein đến Bộ Tổng Tham Mưu chỉ đạo trực tiếp. Ông ngồi trên ghế của Tướng Lê Văn Tỵ, đặt hai túi bạc dưới ghế, hai chân gác lên bàn, bên cạnh có khẩu 375 Magnum, chỉ huy các tướng Việt Nam thực hiện. Trong cuốn Việt Nam Nhân Chứng, Tướng Trần Văn Đôn cho biết khi hay tin ông Diệm và ông Nhu đã ra khỏi Dinh Gia Long, Lucien Conein đã hỏi:
- “Hai ông ấy đi đâu? Phải bắt lại cho kỳ được, vì rất quan trọng.”

Lucien Conein đã nói với các tướng đảo chánh bằng tiến Pháp:
- “On ne fait pas d'omelette sans casser les oeufs.” (Người ta không thể làm món trứng rán mà không đập bể những cái trứng.) (trang 228)

Khi bước xuống tuyền đài ngày 3 tháng 6, 1998 tại Virginia, Hoa Kỳ, Lucien Conei đã ôm theo khá nhiều bí mật của cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11, 1963.

2. Tướng Trần Thiện Khiêm:
Trong cuốn “Việt Nam nhân chứng,” Tướng Trần Văn Đôn nói rằng trong kế hoạch đảo chánh, ông rất dè dặt với Tướng Khiêm vì tướng này rất được ông Diệm và ông Nhu tin cậy. Vợ ông, bà Đinh Thị Yến, lại có chân trong ban chấp hành Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới Trung Ương của bà Nhu và là dân biểu Quốc Hội, thường đi sát với bà Nhu. Ông nhờ Tướng Minh thăm dò. Qua một người Mỹ “tận tụy và tìm hiểu giùm,” Tướng Minh cho biết Tướng Khiêm đồng ý tham gia đảo chánh.

Khi viết như vậy, Tướng Đôn không biết gì nhiều về sự sắp xếp của CIA trong cuộc đảo chánh này. Ngay cả khi lệnh giết ông Diệm và ông Nhu được CIA truyền xuống, Tướng Đôn cũng không hề được cho biết. Một vài câu chuyện sau đây do một nhân chứng có mặt tại Bộ Tổng Tham Mưu trong suốt thời gian cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11, 1963 xảy ra, cũng đủ cho chúng ta thấy vài trò của Tướng Khiêm quan trọng như thế nào:

. Khoảng 1 giờ 25 trưa ngày 1 tháng 11, 1963, Tướng Khiêm bước ra bước vào nơi ông làm việc. Đúng 1 giờ 30, tin đảo chánh được phổ biến, các tướng lãnh liên miên ra vào văn phòng Tướng Khiêm.

. Sáng 2 tháng 11, 1963, có người đem bộ complet màu xám sậm đến đứng ở lầu ba chờ. Tùy phái của Tướng Khiêm ra hỏi thì được biết người này được gọi đem áo tới cho Tổng Thống Diệm. Khoảng 9 giờ, một đại tá bước vào phòng Tướng Khiêm. Hai phút sau, đại tá này bước ra và bảo người kia đem bộ đồ complet về, vì Tổng Thống đã chết! Trên lầu, nhiều tướng lãnh ra vào phòng Tướng Khiêm rất nhộn nhịp. Buổi tối, sau khi xác ông Diệm và ông Nhu được liệm xong, một báo cáo đã được trình lên cho Tướng Khiêm biết.

. Khuya 3 tháng 11, 1963, khi mọi việc đã xong xuôi, Tướng Khiêm cho gọi Đại Tá Trần Văn Trung, Tham Mưu Phó Nhân Viên, và Đại Tá Đặng Văn Quang, Tham Mưu Phó Tiếp Vận, vào văn phòng ông và ra lệnh:
- “Hai ‘toi’ trực ở đây đêm nay, ‘moi’ về nghỉ.”

. Một tuần lễ sau, Tướng Khiêm bước vào ban văn thư và hỏi Đại Úy Phạm Bá Hoa, chánh văn phòng của ông,
- “Có cho anh em mỗi người lên một cấp chưa? Nếu có gì xảy ra, ‘moi’ bay đầu thì các anh em cũng không được yên đâu.”

Đọc thêm cuốn “Đôi dòng ghi nhớ” của Đại Tá Nguyễn Bá Hoa, độc giả sẽ thấy rõ hơn quyền hành của Tướng Khiêm trong cuộc đảo chánh này.

Lệnh hành quyết
Từ trước đến nay, chúng ta thường tranh luận về ai đã ra lệnh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Nay cuốn băng của Tổng Thống Johnson đã chính thức xác nhận rằng chính quyền Kennedy
(Kennedy administration) đã ra lệnh giết, nên vấn đề này không cần phải tranh luận nữa.

Lệnh hành quyết do Washington truyền cho Đại Sứ Lodge ở Sài Gòn. Ông này truyền cho Trần Thiện Khiêm và Dương Văn Minh qua Lucien Conein. Tướng Minh giao cho cận vệ của mình là Đại Úy Nguyễn Văn Nhung thi hành dưới sự chỉ đạo của Tướng Mai Hữu Xuân. Các sĩ quan khác, kể cả Tướng Đôn, đều không biết gì hết.

Như đã nói ở trước, ngoài Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu, Đại Sứ Henry Cabot Lodge đã quyết định giết thêm Ngô Đình Cẩn và Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt. Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh cho Nguyễn Văn Nhung đưa Đại Tá Lê Quang Tung ra nghĩa trang Bắc Việt Tương Tế phía sau Bộ Tổng Tham Mưu đâm chết và vùi thây ở đó. Muốn giết ông Ngô Đình Cẩn, CIA phải lừa ông vào Tòa Lãnh Sự Mỹ ở Huế, nói rằng sẽ cho đi ngoại quốc, sau đó dùng công điện báo cáo láo về Washington nói rằng trong nhà ông Cẩn có hầm chôn người và súng, dân chúng đang biểu tình, rồi giao ông Cẩn cho Tướng Khánh giết. Trong cuốn
“Việt Nam nhân chứng,” Tướng Đôn xác nhận trong nhà ông Cẩn không hề có hầm chôn người hay súng.

Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ rằng sở dĩ Tổng Thống Johson đã gọi nhóm tướng lãnh được thuê làm đảo chánh là “một bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” vì hai lý do:
- Lý do thứ nhất là cách thức giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu. Chưa một nhà lãnh đạo nào trên thế giới đã bị bọn tay chân bộ hạ thân tín, được hưởng nhiều ơn mưa móc, giết một cách thê thảm như thế trong một cuộc đảo chánh.
- Lý do thứ hai là sự tham nhũng và bất tài của nhóm này.

Hành động “ác ôn côn đồ”
Khoảng 10 giờ ngày 2 tháng 11, 1963, khi chiếc M113 chở xác ông Diệm và ông Nhu về đến Bộ Tổng Tham Mưu, đậu trên sân cỏ phía tay phải. Mở cửa xe phía sau ra, người ta thấy ông Diệm mặc bộ complet màu xám sậm, ông Nhu mặc bộ complet màu hơi nâu tím. Cả hai bị trói thúc ké tay sau lưng, nằm nghiêng trên sàn xe, máu me dầm dề. Một quân cảnh đứng gác tại đó cho biết, Tướng Dương Văn Minh đã xuống và tự tay vạch quần ông Diệm ra xem có “chim” không!

Với các dấu vết trên hai xác chết như vậy, nhiều người đã đặt câu hỏi:
Hai ông đã bị giết như thế nào? Cách tường thuật của mỗi người mỗi khác.

Trong cuốn “Assassin in our Time
(“Kẻ sát nhân trong thời đại chúng ta”) xuất bản năm 1976, ở trang 142, Sandy Lesberg đã mô tả như sau:
Ông Diệm và ông Nhu ngồi với hai tay trói sau lưng. Trong khi ông Diệm giữ im lặng, bất thình lình viên thiếu tá dùng dao găm (bayonet)đâm ông Nhu 15 hay 20 lần. Sau đó, hắn ta rút súng lục bắn vào sau đầu ông Diệm. Thấy ông Nhu còn quằn quại trên sàn, viên thiếu tá ban cho ông ta một cú ân huệ bằng cách cũng bắn vào đầu ông ta.

Sandy Lesberg không cho biết ông đã lấy tin này từ ai. Thật ra, lúc đó Nguyễn Văn Nhung còn là Đại Úy, sau này mới được thăng Thiếu Tá.

Với cuốn “Les Guerres du Vietnam
(“Chiến tranh Việt Nam”) xuất bản năm 1985, Tướng Trần Văn Đôn không hề mô tả gì đến cách giết ông Diệm và ông Nhu, mà chỉ mô tả về sự tàn ác của sát thủ Nguyễn Văn Nhung mà thôi.

Bà Ellen J. Hammer, tác giả của cuốn
“A Death in November” (“Cái chết vào Tháng Mười Một”), nói rằng khi chiếc xe chở ông Diệm và ông Nhu dừng lại ở cổng xe lửa đường Hồng Thập Tự, Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa từ trên miệng cửa xe lia một tràng tiểu liên vào hai ông Diệm và Nhu. Đại Úy Nhung rút súng Colt ra bồi thêm mấy phát vào đầu. Nhưng thấy chưa thỏa lòng, Nhung rút dao găm đâm tới tấp vào ngực hai anh em ông Diệm.

Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa phủ nhận lời tường thuật này, ông nói rằng ông không ngồi trên xe chở ông Diệm và ông Nhu lúc đó. Nếu chính ông đã giết ông Diệm và ông Nhu, người ta cũng đã giết ông như giết Nguyễn Văn Nhung rồi.

Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa là một đảng viên đảng Đại Việt, thuộc vào loại căm thù nhà Ngô, sau này đã được Tướng Nguyễn Khánh cho ngồi ghế phụ thẩm quân nhân của Tòa Án Các Mạng, xét xứ và tuyên án tử hình ông Ngô Đình Cẩn theo lệnh của Henry Cabot Lodge, mặc dù không có bằng chứng xác thực. Do đó, nhiều người vẫn tin vào lời tường thuật của bà Sandy Lesberg.

Có lẽ Tướng Nguyễn Chánh Thi là người biết rõ Đại Úy Nguyễn Văn Nhung đã giết ông Diệm và ông Nhu như thế nào, vì sau cuộc “chỉnh lý” ngày 30 tháng 1, 1964, trước khi ra lệnh giết Đại Úy Nhung để phi tang một nhân chứng quan trọng
(có lẽ theo lệnh của CIA), ông đã đích thân lấy lời khai của Nhung và còn bắt Nhung ngồi viết lời khai về vụ này. Ông có cho tôi nhìn qua tờ khai này năm 1968 khi đang ở Washington D.C. Nhưng rất tiếc, khi xuất bản cuốn “Việt Nam: Một trời tâm sự” ông đã không cho in nguyên văn tờ khai này, mà tự ý sửa đổi và cắt bớt đi. Tướng Mai Hữu Xuân được đổi thành Tướng Thu, mặc dầu trong Quân Lực VNCH lúc đó không có tướng nào tên là Tướng Thu cả. Theo tờ khai mà Tướng Thi công bố trong cuốn sách nói trên, Đại Úy Nhung đã khai như sau:
Khi xe M113 chở ông Diệm và ông Nhu chạy được chừng 500 thước, Thiếu Tướng Thu (tức Mai Hữu Xuân) chạy xe ngược chiều trở lại và đưa lên một ngón tay trỏ. Đang còn ú ớ chưa biết giết ai, ông Diệm hay ông Nhu, họ định chạy qua để hỏi lại cho rõ thì dân chúng ùa ra xem rất đông, không chạy qua được. Bỗng Thiếu Tướng Thu đưa hai ngón tay, họ hiểu rằng ông ra lệnh bắn cả hai người. Thiếu tá Nhung liền rút súng Colt 12 bắn mỗi người 5 phát, và sau đó bắn ông Nhu thêm ba phát vào ngực nữa.

Tướng Lê Minh Đảo, lúc đó là Đại Úy tùy viên của Tướng Lê Văn Kim, đã cho biết như sau:
Sau khi ông Diệm và ông Nhu bị hạ sát ít lâu, Nguyễn Văn Nhung có kể lại chuyện này cho ông nghe. Nhung nói rằng khi được lệnh giết cả hai ông, Nhung đã bắn ông Nhu trước. Ông Diệm thấy thế đã nhắm mắt lại. Nhung liền bắn ông Diệm 5 phát. Sau đó quay qua bắn ông Nhu thêm 3 phát nữa.
Điều này phù hợp với lời khai mà Tướng Nguyễn Chánh Thi đã công bố.

Tuy nhiên, sự thật không phải chỉ có thế. Xác ông Diệm và ông Nhu đã được đưa vào bệnh xá của Bộ Tổng Tham Mưu để khám nghiệm. Bác sĩ Huỳnh Văn Hưỡn
(hiện nay ở New York), giám đốc bệnh xá này lúc đó, đã khám nghiệm và chứng nhận rằng cả ông Diệm lẫn ông Nhu đã bị bắn từ sau ót ra trước. Xác ông Diệm có nhiều vết bầm, chứng tỏ đã bị đánh đập trước khi bắn. Xác ông Nhu bị đâm nhiều nhát, áo rách nát và đầy máu.

Vậy ông Diệm và ông Nhu đã bị trói, đánh đập và đâm lúc nào?

Một nhân chứng rất quan trọng hiện đang ở Melbourne, Úc Châu, cho biết ông là người đi trên chiết M113 chở ông Diệm và ông Nhu từ nhà thờ cha Tam về Bộ Tổng Tham Mưu, nên đã chứng kiến những sự việc xảy ra. Câu chuyện ông kể lại có vẻ hợp lý hơn cả.
***

Theo nhân chứng này, vào trưa 1 tháng 11, 1963, chi đoàn thiết giáp của ông được lệnh vào Sài Gòn để tăng cường bảo vệ thủ đô. Khi đến Sài Gòn, chi đội này được chia làm hai toán, một toán hợp lực với quân bạn bao vây Dinh Gia Long, một toán làm vòng đai an ninh cho Bộ Tổng Tham Mưu. Nhân chứng ở trong toán đóng tại Bộ Tổng Tham Mưu.

Sáng 2 tháng 11, 1963, khoảng 6 giờ 15 phút, toán ông được lệnh di chuyển ra khỏi Bộ Tổng Tham Mưu. Khi vừa ra khỏi cổng chính thì thấy có 3 chiếc xe Jeep đang chờ. Chiếc thứ nhất có Tướng Mai Hữu Xuân và 3 cận vệ. Chiếc thứ hai chở Đại Tá Dương Ngọc Lắm, Đại Úy Nguyễn Văn Nhung và Đại Úy Dương Hiếu Nghĩa. Chiếc thứ ba chở 4 người, trong đó có Đại Úy Phan Hòa Hiệp. Sau đó là hai chiếc M113. Nhân chứng ngồi ở chiếc thứ nhì. Cuối cùng là 2 chiếc GMC chở đầy lính có vũ trang đầy đủ.

Khi đến Chợ Lớn, gần một nhà thờ, xe chạy chậm lại, các binh sĩ trên hai chiếc GMC được lệnh nhảy xuống, một số bố trí xung quanh nhà thờ, số còn lại bố trí ở vòng ngoài. Xe Tướng Xuân chạy một vòng rồi đậu lại bên kia đường.

Sau cái phất tay của Đại Tá Dương Ngọc Lắm, ba đại úy Nhung, Nghĩa và Hiệp nhảy xuống xe. Đại Tá Lắm ngoắc chiếc M113 có nhân chứng ngồi trên đó đi theo. Nhân chứng cũng nhảy xuống xe. Khi cách Đại Tá Lắm khoảng 2 thước, nhân chứng thấy có 4 người từ trong nhà thờ đi ra. Người đi đầu là Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Người đi tiếp theo là ông Ngô Đình Nhu. Sau cùng là hai tùy viên
(Đại Úy Đỗ Thọ và ông Nguyễn Đắc Khá). Đại Tá Lắm đến chào ông Diệm:
- Thừa lệnh Trung Tướng Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, chúng tôi đến đón cụ và ông cố vấn.

Ông Diệm:

- Ông Đôn và ông Minh đâu hè?

Đại Tá Lắm:
- Thưa cụ, hai ông còn đang bận việc ở Tổng Tham Mưu.
- Thôi được. Thế tôi và ông cố vấn đi cùng xe kia với ông.

Đại Tá Lắm quay người lại chỉ vào chiếc M113 và nói:
- Thưa cụ, xin cụ lên xe này cho.

Ông Nhu khẽ nhíu mày lên tiếng:
- Không thể đón Tổng Thống bằng một chiếc xe như vậy. Để tôi liên lạc với ông Đôn, ông Đính coi xem.

Đại Tá Lắm khẽ nhún vai:
- Tôi không biết. Đây là lệnh của Trung Tướng Chủ Tịch.

Đại Úy Nhung liền oang oang:

- Xin mời hai ông lên xe ngay cho đi.

Mặt ông Nhu đỏ bừng, giọng rất quyết liệt:
- Không được. Để tôi hỏi lại ông Minh, ông Đôn. Tôi đi xe nào cũng được, nhưng còn Tổng Thống...

Đại Úy Nhung:
- Ở đây không còn Tổng Thống nào cả.

Ngay lập tức, Nhung bảo hai quân nhân chạy đến đẩy hai ông lên xe và hạ cửa xe xuống...

Xe đi hết đường Nguyễn Trãi, vào đường Võ Tánh đến trước Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia thì ngừng lại. Tổng Nha này đã bị chiếm từ ngày hôm trước nên không còn một cảnh sát nào lui tới. Chung quanh, các binh sĩ thuộc Sư Đoàn 5 của Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu canh gác rất cẩn mật.

Một Đại Tá từ trên xe Jeep nhảy xuống, bảo các binh sĩ trên xe M113 chở ông Diệm và ông Nhu xuống xe hết. Bảy người trên xe nhảy xuống, nhưng tài xế và anh hạ sĩ xạ thủ được ra lệnh ở lại. Xe được lệnh đi vào Tổng Nha.

Khoảng 20 phút sau, chiếc M113 lại từ Tổng Nha chạy ra. Các binh sĩ lúc nãy được lệnh leo lên xe lại. Xe chạy ngược đường Võ Tánh trở lại đường Cộng Hòa. Nhân chứng hỏi hạ sĩ xạ thủ:
- Ông Diệm và ông Nhu đâu?
- Ở dưới.
- Sao rồi?
- Ông Nhu bị tra tấn khủng khiếp rồi bị xiết cổ chết bằng dây điện. Người ta hỏi ông ta nhiều lần: Vàng, bạc, tiền của cất đâu? Ai giữ? Cơ sở kinh tài gồm những cơ sở nào? Ông Nhu trả lời không biết.
- Còn ông Diệm?
- Ông Diệm bị đè cổ ra trói thúc ké rồi ném vào hầm xe.
-
Chết hay sống?
- Không biết.

Xe qua khỏi trường Petrus Ký rồi quẹo phải vào đường Hồng Thập Tự thì gặp lại 2 xe Jeep và hai xe chở binh sĩ lúc xuất hành buổi sáng. Xe Đại Tá Dương Ngọc Lắm đi đầu, xe thứ hai có Đại Úy Nhung. Khi đến đường Cao Thắng, bên hông bệnh viện Từ Dũ, xe ngừng lại vì bên kia đang có xe của Tướng Xuân chạy ngược trở lại. Dân chúng ra xem rất đông. Tướng Xuân nhìn Đại Úy Nhung và đưa hai ngón tay trái lên hai lần. Sau đó, ông đưa ngón tay trỏ lên khỏi đầu và co vào duỗi ra đến 4 lần
(gióng như bóp cò). Đại Úy Nhung gật đầu rồi đưa tay lên chào.

Khi xe đến gần đường rầy xe lửa thì dừng lại trước cổng xe đã được đóng lại vì đang có đoàn xe lửa đi qua. Đại Úy Nhung từ chiếc xe Jeep nhảy qua chiến M113 có chở ông Diệm và ông Nhu và la lớn: “Xuống! Xuống!” Các binh sĩ trên xe M113 nhảy xuống hết. Nhân chứng vừa nhảy xuống đất thì nghe nhiều tiếng súng nổ...

***
Những lời tiết lộ của nhân chứng vừa nêu cho chúng ta thêm những yếu tố mới, nhất là đoạn 2 ông bị đưa vào Tổng Nha Cảnh Sát để tra tấn và khảo của. Trò khảo của này là một “sở trường” của Tướng Mai Hữu Xuân. Sự tiết lộ này đã giúp giải thích tại sao hai ông bị trói tay ra phía sau lưng, trên mặt ông Diệm có nhiều vết bầm và trên người ông Nhu có nhiều lát dao đâm. Nguyễn Văn Nhung chỉ leo lên xe M113 trong một thời gian ngắn, không thể gây ra tất cả những thứ đó được.

Sau khi thi hành xong lệnh của chủ và lãnh tiền công, “bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” cấu xé nhau về chức quyền và tiền bạc, đưa tới mất mất chủ quyền quốc gia, rồi đến mất nước.

Bây giờ ở nơi các địa tầng “naraca,”
Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim, Đỗ Mậu, Nguyễn Văn Thiệu, Dương Ngọc Lắm, Nguyễn Văn Quan, Nguyễn Văn Nhung... đang cùng với hai “ông thầy” Henry Cabot Lodge, Lucien Emile Conein nghiền ngẫm về lời nguyền rủa của Tổng Thống Johnson.

Nghe nói trong những năm cuối cùng, Mai Hữu Xuân đã phát điên, thỉnh thoảng quỳ quay vào tường, chắp tay van lạy,
“Xin cụ tha cho con!”

Nơi chốn luân hồi, Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang... không dám bước ra nhìn ánh sáng, Tôn Thất Đính thất thểu như một bóng ma...

Lữ Giang

Đẹp sững sờ kiến trúc của những “kiến trúc sư” động vật


TTO - Để ẩn náu và ngủ khi đêm xuống, có loài vật chỉ đơn giản là tìm một nơi trú an toàn nhưng cũng có loài tự xây ngôi nhà riêng hành tráng, ấn tượng cho mình.
Quá trình xây nhà của nhiều loài vật đã sản sinh những “kiến trúc sư” tài ba mà con người không thể ngờ tới được.
Dưới đây là chân dung và công trình của các "kiến trúc sư" này:



Chim sẻ Baya thường xây tổ treo ở những cành cây đầy gai hoặc treo lơ lửng trên mặt nước, khiến động vật ăn thịt khó tiếp cận chúng. Những cái tổ này được xây khá tỉ mỉ và có vẻ ngoài đẹp đẽ, thanh lịch.
Chim sẻ họ Ploceidae - sống ở Nam Phi, Namibia Botswana, xây tổ "tập thể" rất lớn có thể chứa hàng trăm con chim qua nhiều thế hệ. Tổ chim được dệt từ củi que và cỏ, có tuổi thọ rất dài, được chia thành nhiều "phòng", trong đó những "phòng" nằm sâu bên trong có nhiệt độ cao hơn vào ban đêm, giúp chim giữ ấm.
Kiến xanh Úc, sống ở Trung Phi và Đông Nam Á, làm tổ bằng cách kéo những chiếc lá xanh lại với nhau rồi dùng tơ ấu trùng để "dán" khít lại. Các tổ này có kích thước khác nhau, từ tổ làm từ một chiếc lá cho đến một chùm lá với chiều dài lên đến nửa mét
Chim Vogelkop - sống ở vùng núi bán đảo Vogelkop, Tây New Guinea, Indonesia. Chim Vogelkop trống xây "nhà" từ cỏ, cành cây nhỏ... để thu hút con mái. "Nhà" của chúng có thiết kế nội thất hoàn hảo nhất thế giới động vật, bên trong chứa các loại quả, hoa, bọ cánh cứng và những đồ trang trí đầy màu sắc bắt mắt và được sắp xếp có nghệ thuật để thu hút bạn tình. Điều trớ trêu là những ngôi nhà này lại không được chim mái dùng làm chỗ nuôi con.
Mối la bàn. Chúng xây các ụ lớn hình nêm để làm tổ, và thường các ụ này được xây theo hướng bắc-nam. Các nhàkhoa học tin rằng với hình nêm, nhiệt độ trong các ụ sẽ được giữ ở mức phù hợp với loài mối
Ong mật. Toàn bộ cuộc sống của ong mật xoay quanh tổ - được xây bằng sáp do chúng tiết ra. Trong các tổ này, ong mật chế biến mật hoa thành mật và nuôi con.
Kiến gỗ đỏ châu Âu xây các gò lớn trên nền rừng để làm nhà. Nhiều gò có thể được liên kết với nhau như gò mẹ và con, cho phép kiến ​​chuyển chỗ ở trong trường hợp có biến cố tại một trong các gò.
Chim sẻ lò đỏ xây tổ bằng đất sét và bùn. Những cái tổ khá vững chắc giúp chúng tránh bị kẻ thù ăn thịt, và một khi chúng rời đi, cái tổ vẫn có thể cung cấp nơi trú ẩn an toàn cho những con chim khác.
Tổ ong bắp cày
"Nhà" của hải ly với "cửa nhà" được xây chìm dưới nước để tránh kẻ thù
Tổ chim vàng anh Montezuma - trông như những chiếc túi trên cây
Tổ chim nhạn
Tổ của sâu bọ cánh lông

T.VY (Theo BoredPanda)

Ba cựu tù nhân chính trị ở Việt Nam bị đánh đập tra tấn dã man

RFA - 2014-10-31

Ba cựu tù nhân chính trị ở Việt Nam vừa bị theo dõi, đánh đập, câu lưu, khám xét và tra tấn trong hai ngày thứ tư và thứ năm vừa qua, sau khi Chủ tịch nước trình Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Công ước Chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người hôm 23 tháng 10..
Nạn nhân là các ông Phạm Bá Hải, Nguyễn Văn Sóc và Chu Mạnh Sơn.
Hai ông Phạm Bá Hải và Nguyễn Văn Sóc vào ngày 29 tháng 10 lên Đà Lạt thăm một cựu tù nhân chính trị khác là ông Dương Âu. An ninh đã vào tận nhà can thiệp; sau đó những người mà hai ông cho là lực lượng an ninh đã đi theo đến tận gần nhà trọ và việc hành hung xảy ra tại một ngõ vắng.
Ông Phạm Bá Hải, hiện là điều phối viên của Hội cựu tù nhân lương tâm Việt Nam, kể lại:
Họ đứng ngáng đường tôi đi và dùng thân đẩy vào người tôi họ kiếm chuyện, một anh trong số đó nói ‘vô đây thăm ai, làm gì’. Vừa nói dứt câu họ đấm ngay vào mặt tôi, vào mũi tôi. Khi bị đấm bất ngờ như vậy tôi bị xuống đường, ngay khi tôi té xuống đường, họ đá liên tục vào người tôi. Tôi dùng hay tay che đầu lại. Một anh nắm cổ áo tôi lôi lên không muốn cho tôi nằm xuống, chân thì đá...
Sau một lát đánh liên tục như vậy, có một người ở xa la lên ‘tôi là công an, tôi là công an’; bốn người lập tức nói ‘chạy, chạy, chạy’ bỏ tôi lại hiện trường nằm ở đỏ. Anh Sóc ở bên kia đường và anh (nói là công an) đến nói có muốn vào đồn trình báo gì hay không, Rõ ràng đây là một kịch bản mà họ dàn dựng ra vì gần đó vẫn có hai an ninh trinh sát đứng quan sát...
Sau đó hai ông đi ra Vinh bằng máy bay để gặp một số cựu tù nhân lương tâm khác ở đó. Tuy nhiên ngay khi mới xuống sân bay Vinh thì họ đã bị an ninh vây bắt đưa đi làm việc.  Ông Phạm Bá Hải thuật lại:
... họ dùng mọi hình thức tra tấn, khủng bố. Trong đó có một vị chỉ huy từ khi bắt tôi ở sân bay, ông này đã sỉ vả và dùng lời lẽ nặng nề. Khi tôi bất hợp tác, tôi tịnh khẩu và không trả lời thế là ông ta dùng hai ngón tay xỏ vào hai lỗ mũi của tôi và móc ngược lên trên khiến đầu tôi bật ra phía sau đánh vào thành ghế. Sau đó ông ta có hành động nữa là đang hút thuốc và dí vào cổ tay trái của tôi khi tôi ngồi khoanh tay, tịnh khẩu.
Cựu tù nhân lương tâm Chu Mạnh Sơn đi đón hai ông Phạm Bá Hải và Nguyễn Văn Sóc tại sân bay Vinh cũng bị bắt đưa đi làm việc và bị đấm đá dã man trong quá trình làm việc với cơ quan chức năng, có sự chứng kiến của các cấp chức chỉ huy  công an huyện Yên Thành và xã Phúc Thành. Anh Sơn nói:
... ông phó trưởng công an huyện Yên Thành nói với anh Chu Văn Phú ‘đánh chết nó đi’, ‘đánh cho nó không còn ăn được cơm, đánh cho nó ngu đần luôn thể’. Anh Chu Văn Phú còn bảo ‘mi chẳng là cái đ… gì đâu, đừng có ngoan cố’, ‘tao đánh và có khi tao giết không!’. Cũng tại phòng làm việc thi hành án hình sự của huyện Yên Thành, anh Nguyễn Văn Trung, trưởng công an xã Phúc Thành cũng nói ‘không muốn làm người, lại muốn làm chó’!
Vào ngày 23 tháng 10 vừa qua chủ tịch nước Việt Nam đã trình quốc hội phê chuẩn Công ước Chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc  trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người.
Ông Phạm Bá Hải hiện là điều phối viên của Hội cựu tù nhân lương tâm Việt Nam, ông Nguyễn Văn Sóc là một tín đồ Phật giáo Hòa Hảo, anh Chu Mạnh Sơn là một thanh niên Công giáo ở Vinh.
Powered By Blogger