Trần Đức Dũng
Lời dẫn nhập của Nguyệt San Việt Nam: Nếu
không dám (gạt bỏ chữ Trung Quốc), tức đã có nỗi lo sợ ẩn sâu trong
đầu. Bởi sợ mới không dám. Sợ điều gì? Sợ ai? Hoàn toàn tìm không ra dấu
vết. Đây chính là cái tác dụng của sự nô lệ và hèn nhược qua ảnh hưởng
của ngôn ngữ. Đây cũng là hậu quả của sự khống chế tư tưởng (mind
control) đã nêu ra ở trên. Có vài người, vì mặc cảm tự ti kém khuyết, để
tự gạt mình nhằm che dấu căn bệnh nô lệ ẩn sâu trong tư tưởng, họ bảo
rằng gọi như thế sẽ làm giảm giá trị trình độ trí thức và lịch sự của
họ. Vì thế họ chỉ dám dùng chữ Trung Quốc, Trung Hoa để chứng tỏ họ là
kẻ có học thức, là người lịch sự.
Khi
vua Quang Trung tuyên bố trước ba quân: “Phải đuổi hết lũ giặc phương
Bắc ra khỏi bờ cõi. Đánh cho chúng nó không còn manh giáp.” Ai dám bảo
vua Quang Trung là phường vô học?
Trong
cuộc hải chiến Hoàng Sa, tháng 1/1974, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra
lệnh cho Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa: “Các anh cứ đánh tụi nó thẳng tay
cho tôi.” Ai dám bảo tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là người thiếu lịch sự?
Để
giữ gìn nền độc lập và tinh thần tự chủ của dân tộc, mong rằng những
người Việt này cũng nên từ bỏ cái ảo giác có học thức và lịch sự của
mình.
****
Khởi
đầu, những bộ tộc nhỏ sống trên vùng đồng bằng giữa hai dòng sông;
Hoàng Hà phía bắc và Dương Tử phía nam, gọi nơi này là Trung Nguyên. Tức
vùng bình nguyên giữa hai con sông. Trung là ở giữa. Nguyên là cánh
đồng. Cho nên chữ Trung Nguyên chỉ có nghĩa là cánh đồng giữa hai dòng
sông.
Hai
chữ Trung Nguyên quá mơ hồ không rõ ràng, cho cả vùng rộng lớn. Trong
vùng này có một địa phương, khá đông dân cư, gọi là Hoa Âm (thuộc địa
phận tỉnh Hoa Nam hiện nay), nên còn được gọi là Trung Hoa. Từ đó hai
chữ Trung Nguyên hay Trung Hoa thường được dùng lẫn lộn. Để phân biệt
với Bắc Mạc, tức vùng sa mạc phía bắc sông Hoàng Hà, họ gọi là Trung
Nguyên. Để phân biệt với Lĩnh Nam, tức vùng đồng bằng phía nam sông
Dương Tử, họ gọi là Trung Hoa.
Thế
rồi, qua nhiều thời kỳ, các kẻ nắm quyền cai trị tự vẽ vời ra đủ điều
để sơn phết cho hai chữ Trung Hoa nhằm đánh bóng thân thế đối với các xứ
lân cận.
Lúc này, bọn cầm quyền bắt tên
bồi bút Khổng Khâu, mà người Việt thường gọi là Khổng Tử, vẽ vời cho
rằng Trung là ở giữa, Hoa là có văn hóa. Ý muốn tôn xưng rằng chỉ có nơi
đây mới là trung tâm văn hóa của con người. Một loại “đỉnh cao trí tuệ”
của thế giới vào thời bấy giờ. Vì thế họ gọi những dân tộc sống vùng
chung quanh là súc vật như: Nam Man (chó); Bắc Địch (sâu); Đông Di
(rắn); Tây Nhung (khỉ). Cũng bởi ngu si và đầu óc bán khai, kém tiến
hóa, nên họ không hề biết rằng gọi như thế tự chính họ còn thua cả súc
vật. Kẻ ngu si thường mắc phải căn bệnh hoang tưởng này để giải tỏa ẩn
ức tâm lý hèn kém, mà cho đến nay chúng ta vẫn còn nhận thấy.
Thật
ra, tên họ Khổng xứ Lỗ (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) nhận lệnh đi ăn cắp
văn hóa của phương Nam, tức của dân Bách Việt, rồi đem về xào nấu, nên
hắn ta chỉ dám gọi là đồ ăn cắp chứ không phải tự tay tạo ra (thuật nhi
bất tác). Bán khai đến độ, hắn ta cũng không hề biết và cho rằng trà và
lúa của dân Bách Việt phía nam sông Dương Tử đang dùng là kỳ lạ và chẳng
phải là những món ăn uống mà kẻ có văn hóa nên dùng. Thế nhưng sau khi
uống thử rồi thấy ngon thấy ghiền. Cái tài lưu manh của kẻ ăn cắp luôn
là tẩy xóa hết dấu vết cũ rồi cho là của mình. Để bây giờ cả thế giới,
ngay người Việt cũng tin chắc rằng trà phát xuất từ Tàu. Cũng theo lệnh
trên, tên
bồi bút họ Khổng này đưa ra những thuyết ma mỵ để đặt ách nô lệ lên đầu
người dân như; thuyết thìên mệnh, ngũ thường, và trung quân ái quốc,
vân vân.
Con
trời, gì mà bị kẻ khác soán ngôi tàn sát thẳng tay không chừa một mống.
Ngũ thường gì mà trong cung đình, con giết cha để cướp ngôi, hai cha
con cùng lấy một vợ, con cướp vợ của cha rồi loạn luân, chém giết, tàn
sát lẫn nhau đủ kiểu. Thế nhưng chúng bắt mọi người dân phải trung
thành với kẻ cai trị mới gọi là yêu nước. Điều này chẳng khác gì hiện
nay bọn giặc cộng cố tình nhét vào đầu người dân Việt câu “yêu nước là
yêu chủ nghĩa xã hội.”
Thật ra, tên Khổng Khâu này chỉ là một kẻ bồi bút cho bọn cầm quyền vào thời bấy giờ. Chẳng
khác nào Tố Hữu, Cù Huy Cận, Chế Lan Viên, Xuân Diệu sau này của Việt
cộng. Và hiện nay, để áp đặt ách nô lệ này, giặc Bắc ra lệnh cho bọn tay
sai Việt cộng thành lập viện Khổng Tử tại Hà Nội để bắt dân Việt thờ lạy như ngày trước trong thời đại phong kiến gọi là Văn Miếu.
Những
người Việt mang nặng tinh thần nô lệ nên cứ mãi bị giặc Bắc lừa gạt mà
tôn thờ tên bồi bút này là bậc thầy muôn đời (vạn thế sư biểu). Hãy để cho những người này thỏa mãn kiếp nô lệ và thờ Tàu của họ. Nhưng
chúng ta, những người Việt biết tự trọng và có tinh thần dân tộc, không
nên làm điều này. Không những thế, mỗi người nên có trách nhiệm đối với
dân tộc và tổ quốc. Nghĩa là khi nghe người khác hiểu sai nói sai,
chúng ta nên trình bày, giải thích cho họ hiểu rõ sự việc. Cùng giúp
nhau hiểu rõ vấn đề, thì không có gì phải ngần ngại, hay lo sợ cả. Mà
đây lại là vấn đề sống còn của cả một dân tộc. Đây là trách nhiệm của
mọi người Việt, không riêng gì ai cả. Mọi người dân đều hiểu rõ tức là
dân trí được nâng cao. Sự hiểu biết của người dân càng nhiều, bọn Việt
cộng càng lo sợ. Điều này ai cũng hiểu cả.
Để áp đặt tinh thần nô lệ và phong kiến trở lại, kẻ cầm quyền Việt cộng
đang âm thầm đem các từ ngữ mang nặng tính thần quan liêu phong kiến,
vào đầu người Việt như: quan chức, ngài. Người Việt sống tại
Miền Nam trước năm 1975 sẽ dễ dàng nhận ra điều này. Danh từ quan chức
hoàn toàn không có trong ngôn ngữ Miền Nam. Thay vào đó, là nhân viên,
hay viên chức chính quyền. Hoàn toàn không có chữ quan trong đầu người
dân sống dưới chế độ tự do dân chủ Việt Nam Cộng Hòa. Danh từ ngài, chỉ
dùng cho các đấng tối cao, giáo chủ trong tôn giáo. Trường hợp ngôi thứ
hai trong văn bản, thì chỉ là: “Thưa tổng thống.” Không bao giờ có hình
ảnh của kẻ nô lệ cúi đầu khuất phục như trong câu: “Kính thưa ngài thủ
tướng,” như hiện nay trong xã hội cộng sản. Nêu ra điều này để mọi người
cùng nhận ra rằng, qua ngôn ngữ, Việt cộng đã cố tình đưa người dân
Việt trở về thời kỳ quan liêu phong kiến và nô lệ cũ.
Từ
xưa, Trung Nguyên này là nơi tranh giành quyền lực tự do và được xem là
vườn hưu hoang không có chủ. Kẻ nào giành được thì mặc sức mà cai trị.
Và họ cũng chẳng có khái niệm gì về quốc gia dân tộc. Kẻ nắm quyền cai
trị luôn có tham vọng bành trướng và xâm chiếm các nước chung quanh.
Thời kỳ Chiến Quốc là một thí dụ điển hình lịch sử về sự tranh giành
quyền lực nơi vườn hưu hoang này. Với tinh thần đó, và nhằm trấn áp
người dân để cai trị nên kẻ nào lên nắm quyền cũng tự xưng mình là con
trời, là lớn, là đại. Như Đại Chu, Đại Tần, Đại Hán, Đại Đường, Đại
Tống, Đại Nguyên, Đại Minh, Đại Thanh. Đại sau thẳng tay tàn sát tiêu
diệt đại trước. Và đại cuối cùng thì bị tám cường quốc Tây phương cùng
nhau xẻ thịt. Nên thực tế chẳng có ma nào là đại cả.
Cho
nên người Tàu chỉ có khái niệm về triều đại chứ không biết thế nào là
dân tộc và tổ quốc. Điều này còn hiện rõ trong nếp sinh hoạt của người
Tàu hiện nay nơi hải ngoại. Thí dụ;
Tàu Hồng Kông, Tàu Singapore, Tàu Đài Loan, Tàu Phúc Kiến, Tàu Quảng
Đông, Tàu Mã Lai, vân vân. Không Tàu nào chịu chơi chung với Tàu khác
cả. Bởi điều dễ hiểu, trong đầu người dân đến cả kẻ nắm quyền cai trị,
không có dân tộc Tàu, không có dân tộc Trung Hoa, hay Trung Quốc. Bởi
thế, để thực hiện Bước Tiến Nhảy Vọt, dùng lương thực của Tàu đổi lấy kỹ
thuật của các nước cộng sản Đông Âu, Mao Trạch Đông sẵn sàng cho 17
triệu người Tàu chết đói mà chẳng hề bận tâm.
Chữ
triều có nghĩa là nhiều lượn sóng có ngọn gập đầu xuống cùng nhau chạy
về một hướng, là tấp vào bờ, như thủy triều, hải triều. Từ đó, bọn cai
trị dùng chữ triều mang ý nghĩa cùng khoanh tay cúi đầu chầu và hướng
về. Bởi vậy trên trang phục chúng luôn cho thêu nhiều lượn sóng cuốn gục
đầu trên áo quần các quan lại, hoặc các nơi như sảnh đường xử án. Và
khi gặp nhau, kẻ dưới phải khoanh tay và cúi đầu theo đúng hình ảnh của
chữ triều đã thêu trên quần áo, và hiện hữu khắp nơi qua tranh ảnh, chạm
khắc. Nói theo ngôn ngữ trong khoa Tâm Lý Học, đó là những kỹ thuật
khống chế tư tưởng (mind control) vô cùng tinh vi và ma quỷ.
Triều
cống nghĩa là cúi đầu dâng nộp phẩm vật quý giá lên cho ông chủ. Triều
đình là cái sân để cả đám quan lại đứng khoanh tay cúi đầu chầu về ông
vua ngồi trên cao. Triều đại có ý nghĩa nguyên thủy là khoanh tay cúi
đầu hướng về ông chủ lớn. Những chữ này, thể hiện tinh thần ngạo mạn,
tham vọng quyền lực, luôn bắt các nước nhỏ xung quanh phải quy phục kẻ
cai trị ngồi ở giữa. Các chữ Trung Hoa hay Trung Quốc cũng mang tinh thần ngu xuẩn
nhưng ngạo mạn này. Ngày nay với kiến thức về địa dư thế giới, mọi
người Việt đều biết rõ xứ này chẳng có gì để tự xưng là Nước Ở Giữa cả.
Thế nhưng nhiều người Việt vẫn đang chấp nhận điều này qua ngôn ngữ. Đây
là biểu hiện của một kiến thức kém cõi và nặng tinh thần nô lệ.
Người
Việt, sống trên vùng đất phía nam sông Dương Tử, từ vùng núi Ngũ Lĩnh
và hồ Động Đình trở về nam, nên gọi là xứ Lĩnh Nam. Họ vẫn luôn biết
mình là dân tộc Bách Việt. Để chống lại ý tưởng bá chủ, hống hách của
những kẻ phương Bắc, và quyết tâm giữ vững tinh thần tự chủ và độc lập,
người Việt luôn nêu cao tinh thần Đại Việt, Đại Nam qua mọi thời kỳ lịch
sử.
Lưu
Bang, một tên thôn trưởng lưu manh sống bên dòng sông Hán Thủy, cướp
công Hạng Võ, diệt Tần lên nắm quyền cai trị (256 trước TL). Để thành
lập triều đại, Lưu Bang lấy chữ Hán từ tên con sông rồi gọi là Triều
Hán, và tự xưng là Đại Hán. Sự cai trị của dòng họ lưu manh này kéo dài
suốt 400 năm, nên hai chữ đại hán đã ăn sâu vào đầu của nhiều thế hệ dân
cư trong vùng. Để sống còn, tránh cảnh bị tàn sát và tiêu diệt, dân tộc
hay bộ tộc nào trong vùng bị cai trị cũng tự gọi mình là người Hán.
Ngay cả chữ viết đã có trước đó từ lâu chúng cũng bắt mọi người gọi là
chữ Hán. Người Việt sau này, dưới sự áp đặt của Tàu mấy trăm năm trước
cũng mặc nhiên chấp nhận điều này. Cho đến nay, hầu hết người Việt cũng
vẫn còn gọi là chữ Hán. Không mấy ai dám gọi là chữ Tàu cả. Vì họ sợ. Sợ
điều gì họ cũng không rõ. Nhưng vẫn cứ sợ và gọi như thế là đủ an tâm.
Nêu điều này ra để chúng ta cùng nhận rõ cái tinh thần nô lệ này đã
truyền đời đến cả ngàn năm nay vẫn còn nhiều người Việt không chịu nhận
ra và quyết tâm tiêu trừ.
Sau
khi Mông Cổ diệt Đại Tống lập Đại Nguyên cai trị xứ này cả trăm năm.
Đến khi Trần Hữu Lượng (Lượng là con trai Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc –
qua việc thông đồng với giặc, vương bị anh là vua Trần Thánh Tông không
giết nhưng đuổi ra khỏi Việt Nam và qua Tàu sống ở vùng Trường Sa,
Quảng Đông ngày nay) đánh đuổi Mông Cổ chuẩn bị lên ngôi thì bị Chu
Nguyên Chương cướp công và lập nên Đại Minh. Dòng họ Ái Tân Giác La của
bộ tộc Mãn Châu (Nữ Chân, Kim sau đổi là Thanh) diệt Minh, rồi cũng gọi
là Đại Thanh. Thời kỳ nầy không còn ai dám nhận mình là Đại Hán hoặc Đại
Minh nữa cả. Và bọn đại hán (trong đầu người Việt) phải cạo đầu thắt
bính như người Mãn Châu. Nếu không sẽ bị chặt đầu ngay. Lúc bấy giờ,
trong dân gian, vì quen miệng họ vẫn gọi xứ này là Trung Nguyên hay
Trung Hoa. Tuy rằng biên giới đã vượt qua sông Dương Tử và tiến xa xuống
phương nam.
Sau
này một vài người Tây phương, vốn không biết nhiều về xứ này, nên cho
rằng người sống ở đây là dân Hán, nhưng họ lại gọi là nước Tần. Người Việt vốn nặng tinh thần nô lệ lại tôn thờ khoa học tây phương, nghe
người da trắng Âu Châu gọi thế nên vội vã cho là có tộc Hán. Đây là sự
di căn của căn bệnh nô lệ. Ngày trước họ thờ Tàu. Khi Tàu đi, Tây đến
thì họ đành phải thờ Tây. Đối với họ hễ người Tây phương nói là phải
đúng, và họ không hiểu rõ nghĩa chữ tộc trong tiếng Việt. Điều này cũng
ngây ngô chẳng khác nào hiện nay bảo những người sống tại Mỹ là dân tộc
Hoa Kỳ. Ai cũng biết chỉ có người Mỹ chứ không có dân tộc Hoa Kỳ. Xứ Tàu
cũng chỉ là một loại hợp chủng quốc ở Châu Á mà thôi. Hiện nay, ngoài
hàng trăm ngôn ngữ của những dân tộc thiểu số, Tàu vẫn còn xử dụng sáu
ngôn ngữ chính. Ngay cả Mao Trạch Đông vẫn nói tiếng Hồ Nam, khiến nhiều
người Tàu nghe không hiểu.
Không
có ngôn ngữ Tàu chính thống, tuy rằng phần lớn là tiếng Việt do dân
Bách Việt sống khá nhiều ở vùng phía Nam sông Dương Tử, mà còn giữ rõ âm
Việt nhất là tiếng Quảng Đông, Quảng Tây. Vì sự kiện này nhiều người
Việt Nam, không chịu tìm hiểu lịch sử của tộc Bách Việt, lại nặng tinh
thần nô lệ, nên cứ cho rằng tiếng Việt hiện nay là mượn từ tiếng Quảng
Đông của Tàu. Dù vẫn còn sáu ngôn ngữ chính, nhưng chữ viết chỉ một, do
Doanh Chính, tức Tần Thủy Hoàng, thống nhất chữ viết để dễ bề cai trị,
và gọi là quan thoại, tức ngôn ngữ của quan lại. Đến thời bạo chúa Mao
Trạch Đông, vốn xem Tần Thủy Hoàng là thần tượng, cũng bắt chước Doanh
Chinh bắt sửa lại chữ Tàu và gọi là chữ Tàu đơn giản. Ở đây chúng ta gọi
là chữ Tàu, nhưng sẽ còn vô số người Việt quyết tâm giữ chữ Hán trong
đầu cho đến chết, và truyền lại cho con cháu.
Dưới
áp lực xâm lăng của giặc Bắc, người Việt từ vùng Động Đình Hồ, dần dần
bị đẩy xa về phương nam. Qua thời gian, người Việt còn ở lại vùng
phía Nam sông Dương Tử đã quên mất nguồn gốc Bách Việt của mình. Nhưng
họ không hề bị đồng hóa, vì dân số Việt tộc ở những vùng này vẫn luôn
nhiều hơn những bộ tộc hỗn tạp nhỏ khác. Họ chỉ mất gốc. Một điển hình
trong lịch sử cận đại là Tôn Dật Tiên (Sun Yat Sen), sinh ở Quảng Đông,
người mà dân Tàu đang thờ phượng và suy tôn là cha đẻ của cuộc Cách Mạng
Tam Dân, vốn là người Việt. Ông ta biết rõ điều này. Tuy vậy, vì quá
lâu đời và vì sự nghiệp chính trị ông không dám nói rõ thân thế. Trong
khi đó dòng họ Lý của Việt Nam sống tại Đại Hàn gần ngàn năm nay vẫn
luôn tự hào mình là người gốc Việt. Nên khi vừa lên cầm quyền, tổng
thống Lý Thừa Vãng của Nam Hàn đã nhờ tổng thống Ngô Đình Diệm truy tìm gia phả của dòng họ Lý tại Việt Nam.
Chiến
thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789) mọi người Việt đều đã biết. Sau khi
đánh quân Thanh một trận nhớ đời và đuổi ra khỏi bờ cõi, Quang Trung
Hoàng Đế liền có kế hoạch lấy lại đất bị giặc Bắc cướp trước đó. Theo
chương trình, vua Quang Trung sẽ đuổi Mãn Thanh trở ngược về phía Bắc
sông Dương Tử, quyết lấy lại vùng Lĩnh Nam của dân Bách Việt ngày xưa.
Bước đầu, nhà vua bắt Càn Long phải gả con gái và trả lại hai vùng đất
Quảng Đông và Quảng Tây. Sau đó sẽ làm bàn đạp để bắc tiến và tây tiến.
Càn Long liền gởi chiếu mời vua Quang Trung sang Bắc Kinh để đàm phán.
Nhắm để phòng sự tráo trở của giặc Bắc cùng sẵn dịp hạ nhục Càn Long của
Đại Thanh, vị Hoàng Đế Đại Việt cho người giả trang dẫn phái đoàn sang
Tàu. Trên đường đi phái đoàn Việt cố tình hành hạ bọn quan lại Tàu đủ
điều, nhưng chúng cũng phải cúi đầu chịu nhục. Càn Long vẫn biết rõ
trưởng phái đoàn chỉ là vị vua giả. Nhưng mở miệng ra lại sợ nhục nhã,
nên hắn đành phải câm miệng và dùng đủ lễ nghi để tiếp đãi phái đoàn.
Đây cũng là một sự nhục nhã nặng nề mà Càn Long của Đại Thanh đành phải
nuốt sâu vào lòng.
Vua Quang Trung cho Càn Long biết, nếu không chịu trả đất, vua Việt sẽ giúp bọn phục Minh nổi dậy diệt Thanh.
Vừa
mới bị đánh một trận kinh hoàng, lại muốn giữ ngôi để tiếp tục cai trị
xứ Tàu, Càn Long đành phải nuốt nhục cúi đầu chấp nhận. Nhưng mọi việc
chưa xong thì vua Quang Trung băng hà. Thế là việc đòi lại đất của người
Việt xem như bất thành.
Nếu
vua Quang Trung không mất sớm và bắt Càn Long của Đại Thanh trả lại
Quảng Đông, Quảng Tây cho Đại Việt thì hôm nay đã không có Tôn Dật Tiên
cho dân Tàu thờ làm Quốc Phụ. Nêu ra điều này để người dân Việt thấy
được sự ngu ngốc của người Tàu. Đúng ra, mọi người Việt đều có bổn phận
phải nói rõ điều này cho người Tàu, và nhất là cho Tập Cận biết mỗi khi
hắn cúi đầu lạy Tôn Dật Tiên.
Chữ
Qin được Tàu phát âm là Ch’in, người Việt phát âm là Tần. Từ âm Ch’in
này người da trắng gọi xứ này là China hay Sino. Khi nắm quyền Doanh
Chính dùng chữ Đại Tần vì lấy tên địa phương của xứ Tần (hiện nay thuộc
tỉnh Giang Tô). Cho nên người Tây phương dùng chữ China, Sino, Chinois
là do sự diễn âm chữ Tần (Ch’in), để gọi xứ này. Hoàn toàn không có ý
nghĩa gì là Nước Ở Giữa cả. Xin người Việt không nên đem hình ảnh của hai chữ Trung Quốc trong đầu của mình mà áp đặt lên chữ China, Sino của người da trắng.
Người da trắng gọi họ là Tần. Tại sao chúng ta không dám gọi họ là Chệt hay Tàu ? Hỏi tức đã trả lời rồi vậy.
Mãi
đến thời kỳ Mãn Thanh vẫn chưa có hai chữ Trung Quốc. Năm 1927, Nhật
tiến chiếm vùng Mãn Châu, lập ra Mãn Châu Quốc, sau đó cai trị toàn xứ
Tàu. Tiếp theo xứ Tàu bị Hoa Kỳ chẻ ra làm hai thế lực chính trị vào
năm 1949. Ngay sau khi đánh bại Nhật, năm 1945, lúc đầu Mỹ tính giao cả
nước Tàu cho Tưởng Giới Thạch, để loại trừ Trương Học Lương, vốn gốc
Mãn Châu, lên năm quyền. Nhưng sau đó, năm 1948, Mỹ đổi ý, đem giao cả
đại lục cho Mao Trạch Đông, được gọi là People’s Republic of China. Đảo
Đài Loan thì Mỹ giao cho Tưởng Giới Thạch được gọi là Republic of China.
Để làm vui lòng kẻ bị bạc đãi vì chia đất cho quá ít, Mỹ cho Tưởng Giới
Thạch vào Liên Hiệp Quốc để xoa dịu tự ái. Đến năm 1972, sau thời gian
đủ lâu, Mỹ đuổi Tưởng ra khỏi Liên Hiệp Quốc, đem Mao Trạch Đông vào
thay thế. Và bắt Tưởng phải dẹp bỏ danh xưng Republic of China, mà từ đó
về sau chỉ được gọi là Taiwan, không có vị thế quốc gia trên chính
trường quốc tế.
Tưởng Giới Thạch & Mao Trạch Đông Hai
xứ này, lúc bấy giờ, nếu dịch sang tiếng Việt cho đúng nghĩa quốc tế, ở
đây chúng ta sẽ dựa trên tiếng Mỹ, phải là Cộng Hòa Nhân Dân Tàu (Tần),
và Cộng Hòa Tàu (Tần). Cũng như Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là
Socialist Republic of Vietnam, hay Việt Nam Cộng Hòa
là Republic of Vietnam.
Ở
đây, chúng ta nhận ra thêm một điều vô cùng quan trọng là, do bản chất
nô lệ giặc Bắc, Việt cộng đã âm thầm dùng tiếng Việt theo kiểu Tàu. Các
chữ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa đi trước hai chữ Việt Nam. Có nghĩa là
tính từ đi trước danh từ. Trong khi đó danh xưng Việt Nam Cộng Hòa, tính
từ phải đi sau danh từ. Người Việt chúng ta chỉ nói trái ổi xanh, hoặc
biển xanh. Chỉ có dân Tàu mới nói xanh trái ổi, và thương hải.Có người
sẽ cho rằng chỉ là thứ tự trước sau, ý nghĩa vẫn có đủ, việc gì mà phải
chẻ sợi tóc làm tư.
Xin
thưa. Một người đảng viên cộng sản, dù nói hay viết, mà dùng chữ nhân
dân, hay nhà nước trước chữ đảng, chắc chắn sẽ bị giết ngay. Thực tế,
không có người nào dám làm điều này. Bởi họ biết rõ nguyên tắc sinh tử
của băng đảng sắt máu côn đồ này là: Nói Bậy Là Chết.
Trở
lại hai chữ Trung Quốc. Người Tàu, bởi ngu si lại nặng tinh thần hống
hách luôn tự cho mình là lớn, là trung tâm của thế giới, nên họ tự gọi
là Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, và Cộng Hòa Trung Hoa, viết và hiểu theo
cách Tàu dùng tiếng Việt. Sau khi được Mỹ giao cho cai trị toàn miền
đại lục, Mao Trạch Đông vẫn tiếp tục truyền thống ngu si và bạo chúa nên
tự gọi là Trung Quốc. Thứ nhất; nhắm kích thích tinh thần ngông cuồng
của dân trong xứ. Thứ hai; bắt cộng sản Việt Nam phải tuân dùng theo, để
tròng ách nô lệ lên đầu người Việt, mà trước nhất là những kẻ tay sai
Việt cộng. Hiểu một cách rõ ràng, chữ Trung Quốc vẫn hoàn toàn không có ý
nghĩa gì là Nước Ở Giữa cả. Bởi chữ Trung vốn có gốc từ chữ Trung
Nguyên từ thời xa xưa. Tuy vậy, Tàu cộng vẫn mập mờ để bắt Việt cộng
phải áp đặt vào đầu những người Việt, kém hiểu biết lại nặng tinh thần
nô lệ phương Bắc, nên tự suy diễn ra là Nước Ở Giữa để nuôi trong đầu.
Xin
mở một dấu ngoặc. Trong hồi ký của mình, ông bác sĩ riêng của Mao Trạch
Đông cho biết; kể từ khi nắm quyền đến lúc chết (1949-1976), suốt 28
năm Mao không hề tắm, và nhất
định không chịu đánh răng súc miệng. Tên bạo chúa này tuyên bố hắn chỉ
cần “tắm” trong âm hộ của người đàn bà là đủ, và hắn không tin có loại
bệnh có thể truyền nhiễm qua đường tình dục. Để tránh tình trạng này,
ông bác sĩ riêng phải gạt hắn ta bảo là uống thuốc bổ tăng cường sinh
dục, nhằm tránh tình trạng Mao truyền bệnh giang mai cho cả ngàn người
đàn bà mà hắn xem là cung tần phi nữ. Một loại bạo chúa ngu si của thời
đại. Nêu điều này nơi đây để mọi người Việt biết sự ngu si và bệnh hoạn
của Mao, và cũng là của dân Tàu. Thế mà tên cáo họ Hồ bắt dân Việt
Nam phải học tập tư tưởng của Mao.
Vốn
là kẻ tôi tớ luôn cúi đầu phục tùng mệnh lệnh của ông chủ, lại sống
kiếp sống của kẻ vô tổ quốc, phi dân tộc, nên người cộng sản
Việt Nam không dám gọi là Tàu. Và họ bắt người dân phải gọi là Trung
Quốc để áp đặt và nhồi nhét tinh thần nô lệ vào đầu người Việt qua ngôn
ngữ.
Trước
năm 1975, người Việt tại Miền Nam thường gọi hai quốc gia này là Trung
Hoa Cộng Sản và Trung Hoa Quốc Gia để chỉ cho hai thể chế chính trị,
nhưng vẫn gọi chung là người Tàu. Như; Tàu Đài Loan, Tàu Chợ Lớn, Tàu
Hồng Kông, Tàu Đại Lục. Chính những người Tàu sống ở Việt Nam cũng tự
gọi họ là người Tàu. Từ
thời tổng thống Ngô Đình Diệm, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cấm không
cho người Tàu làm 11 nghề chính để bảo vệ kinh tế cho người dân Việt Nam.
Nguồn gốc phát xuất âm Tàu trong tiếng Việt, cho đến nay vẫn chưa rõ
ràng. Có thể là do nghe và nói lại một cách sai lạc âm của chữ Tần mà
người Tây Phương tại Việt Nam thường dùng vào thế kỷ 18, 19. Cả
Philippines, Thailand, Kampuchia, trongngôn ngữ của các quốc gia này, họ
cũng không gọi xứ này là Nước Ở Giữa. Riêng người Nhật dùng
chữ China với ý nghĩa khinh miệt là lũ người bệnh hoạn, ngu si, nhu
nhược, yếu hèn. Đến nay chỉ có người Tàu và dân Việt dùng chữ Trung
Quốc. Nêu điều này ra nơi đây, để mọi người cùng nhận thấy rõ sự nô lệ
trong tư tưởng, thể hiện qua ngôn ngữ của người Việt, do sự tiếp tay của
Việt cộng, đã bị Tàu cộng áp đặt sâu nặng đến thế nào.
Một
thí dụ điển hình cho căn bệnh nô lệ giặc Bắc, là cho đến hôm nay, trong
đầu khá nhiều người Việt vẫn tin chắc rằng võ thuật của Việt Nam thì
phải “bắt nguồn từ Trung Quốc.” Hỏi tiếp nữa thì họ chống chế rằng bởi
từ Thiếu Lâm Tự, và do Đạt Ma Sư Tổ truyền ra. Quả là khôi hài. Nếu vậy
thì phải bảo rằng võ thuật của Tàu vốn do Ấn Độ truyền sang. Khổ thật.
Kiến thức của họ đã kém, khả năng suy luận cũng không có, lại mang nặng
căn bệnh thờ Tàu. Từ thời Khổng Khâu xa xưa mãi cho đến hôm nay, bọn
người này chỉ có truyền thống chuyên nghiệp là đi ăn cắp và ăn cướp,
xong đem về bôi xóa dấu vết rồi cho là của mình.
Vì thế, để thể hiện tinh thần tự chủ và độc lập của dân tộc, người Việt nên ý thức rõ điều này. Và không nên dùng hai chữ Trung Quốc. Bởi đây là thâm ý của cộng sản Việt, theo lệnh ông chủ Bắc Kinh, cố tình nhồi nhét tinh thần nô lệ vào đầu người dân Việt Nam.
Do đó, để chống Tàu, trước hết mọi người Việt nên chống lại âm mưu áp đặt tinh thần nô lệ này, qua ngôn ngữ, của giặc Bắc.
Nếu
vẫn có người chưa chịu tin điều này, xin hãy nhớ lại chữ triều và hình
ảnh những lượn sóng cuộn đầu trên áo quần quan lại thời phong kiến của
Tàu ngày xưa. Xin nhắc lại, đây là kỹ thuật khống chế tư tưởng (mind
control) nhắm đánh sâu vào vô thức (subconcious, 88%), không nằm trên
bình diện ý thức (concious, 12%) nên khó lòng nhận biết.
Việc chống Tàu qua ngôn ngữ nô lệ và mất nước này sẽ không dễ dàng vì bọn
tay sai Việt cộng, theo lệnh chủ, đang tận sức phá nát ngôn ngữ Việt
chính thống nhắm thay thế và áp đặt ách nô lệ qua ngôn ngữ trong mọi
hoàn cảnh.
Người dân Việt vô tình, nhưng bọn Việt cộng lại quyết tâm. Tránh sao
khỏi cảnh này. Bao năm qua vì vô tình, không đế ý, nhiều người đã dùng
đến quen miệng. Bây giờ mở miệng ra nói khác đi chắc chắn sẽ khó làm
được ngay. Nếu không tin, mọi người hãy thử và sẽ thấy rõ tác dụng này.
Bảo
rằng do thói quen, thì nên tự hỏi mình có dám bỏ cái thói quen này hay
không? Dĩ nhiên, không mấy ai dám chấp nhận rằng vì sợ nên phải dùng hai
chữ Trung Quốc. Vẫn có nhiều người sẽ tìm đủ lý do để biện minh cho hai
chữ Trung Quốc nơi cửa miệng.
Chắc
chắn có người sẽ cho rằng Trung Hoa hay Trung Quốc cũng chỉ là danh
xưng, đâu có gì quan trọng. Những người này đang tự lừa dối chính mình
và cố tình dùng xảo ngôn để lấp liếm và che dấu căn bệnh nô lệ truyền
đời. Nếu chỉ là danh từ, và không có ý gì, thì tại sao không dám gọi là Tàu cộng?
Nhưng
xin hãy tự hỏi mình rằng; cô nữ sinh viên Nguyễn Phương Uyên dù đang
sống dưới sự cai trị của Việt cộng, vẫn dám gọi là Tàu khựa. Và chính họ
cũng gọi họ là Tàu. Vậy tại sao mình phải tìm đủ lý do để dùng hai chữ
Trung Quốc? Hãy cố gắng tự nhớ lại xem mình bắt đầu dùng từ lúc nào, để
bây giờ gọi là quen miệng? Và tại sao mình không dám gọi là Tàu cộng?
Nếu
không dám tức đã có nỗi lo sợ ẩn sâu trong đầu. Bởi sợ mới không dám.
Sợ điều gì? Sợ ai? Hoàn toàn tìm không ra dấu vết. Đây chính là cái tác
dụng của sự nô lệ và hèn nhược qua ảnh hưởng của ngôn ngữ. Đây cũng là
hậu quả của sự khống chế tư tưởng (mind control) đã nêu ra ở trên. Có
vài người, vì mặc cảm tự ti kém khuyết, để tự gạt mình nhằm che dấu căn
bệnh nô lệ ẩn sâu trong tư tưởng, họ bảo rằng gọi như thế sẽ làm giảm
giá trị trình độ trí thức và lịch sự của họ. Vì thế họ chỉ dám dùng chữ
Trung Quốc, Trung Hoa để chứng tỏ họ là kẻ có học thức, là người lịch
sự.
Khi
vua Quang Trung tuyên bố trước ba quân: “Phải đuổi hết lũ giặc phương
Bắc ra khỏi bờ cõi. Đánh cho chúng nó không còn manh giáp.” Ai dám bảo
vua Quang Trung là phường vô học?
Trong
cuộc hải chiến Hoàng Sa, tháng 1/1974, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra
lệnh cho Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa: “Các anh cứ đánh tụi nó thẳng tay
cho tôi.” Ai dám bảo tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là người thiếu lịch sự?
Để
giữ gìn nền độc lập và tinh thần tự chủ của dân tộc, mong rằng những
người Việt này cũng nên từ bỏ cái ảo giác có học thức và lịch sự của
mình.
Nên
hiểu rằng khi người Tây phương gọi những xứ này là China, Sino,
Chinois, qua ngôn ngữ của họ, trong đầu họ vẫn xem đó là xứ Tần. Qua
ngôn ngữ xử dụng, họ hoàn toàn không có khái niệm hay ý nghĩ gì về một
Nước Ở Giữa cả. Trong khi đó, người Việt nói đến hai chữ Trung Quốc,
chắc chắn cái hình ảnh Nước Ở Giữa đã thấp thoáng trong đầu. Xin mọi
người để ý đến điều này.
Nếu
người đọc vẫn tìm mọi cách để chống chế, vẫn chưa đồng ý, và chưa hiểu
rõ tác dụng của ngôn ngữ, xin nêu ra một thí dụ để chúng ta cùng nhận
xét.
Khi
nghe nói đến các chữ; cô ấy, bà ấy hay mụ ấy, trong đầu người nói và
người nghe đều có ba hình ảnh khác nhau. Một cô gái trẻ đẹp (cô ấy), một
người phụ nữ lớn tuổi (bà ấy) và một người phụ nữ xấu xí, lôì thôi lếch
thếch (mụ ấy). Khi nói và nghe chữ Trung Quốc hay Tàu cộng cũng có tác
dụng tương tự. Xin mọi người hãy tự suy nghiệm.
Ngôn ngữ thể hiện tâm lý là điều ai cũng hiểu và đồng ý. Nếu không thế, cô sinh viên Nguyễn Phương Uyên đã không nói: “Tàu khựa hãy chết đi.”
Và nếu không hiểu ý này, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã không bắt
cô ta. Thật ra, vì hiểu nên họ quá lo sợ bị ông chủ phương Bắc trừng
trị, nên họ phải bắt cô ta. Hãy thử tượng tượng cái tác dụng tâm lý khi
cô sinh viên này nói: “Trung Quốc khựa hãy chết đi.” Rõ ràng, câu này
hoàn toàn không có tác dụng. Bởi tự nó đã thể hiện cái tâm lý nhu nhược
hèn yếu và nô lệ qua hai chữ Trung Quốc trong câu. Hy vọng nhiều người
Việt sẽ nhận rõ điềư này.
Khi
đăng những bản tin ghe thuyền của Tàu cộng tấn công ngư dân Việt, báo
chí Việt cộng chỉ dám dùng hai chữ tàu lạ. Mọi người đều hiểu tại sao. Ở
đây chúng ta không cần diễn giải thêm. Rõ ràng là ngôn ngữ thể hiện tâm
lý của người xử dụng. Và ai cũng hiểu đó lá cái tâm lý hèn hạ nhu nhược
nô lệ của người cộng sản Việt Nam đối với bọn giặc phương Bắc.
Tương
tự như thế, bất kỳ ai, mở miệng dùng hai chữ Trung Quốc cũng không
thoát khỏi tâm lý này, dù họ có lớn tiếng hô to: “Đả đảo Trung Quốc xâm
lược.” Hãy tự hỏi chính mình, tại sao mình không mở miệng nói được câu: “Đả đảo Tàu cộng xâm lược.” Chẳng lẽ mình vẫn còn muốn chứng tỏ cho người khác biết mình là con người có học thức và lịch sự?
Đã
không xóa nổi hai chữ Trung Quốc ra khỏi đầu thì khoan nói đến chuyện
chống Việt cộng hay Tàu cộng. Nếu chỉ là danh từ, tại sao không dám gọi
là Tàu cộng? Không nên tiếp tục lừa dối chính mình nữa. Xin suy nghĩ kỹ
điều này.
Việt Nam cộng
sản gọi là Việt cộng. Trung Hoa cộng sản gọi là Trung cộng. Đâu có gì
là không học thức, không lịch sự ở đây. Mà đối với bọn giặc Bắc, trong
khi họ luôn tìm cách tiêu diệt mình, mà mình cứ mãi lịch sự với họ thì
quả là một tâm lý bệnh hoạn. Ở đây chúng ta không thể dùng chữ nhu
nhược, mà phải gọi là bệnh hoạn. Chúng ta thấy vẫn còn nhiều người Việt
mang nặng cái tâm lý bệnh hoạn này trong đầu.
Những
người đảng viên cộng sản Việt Nam chắc chắn sẽ không bao giờ dám mở
miệng nói đến chữ Tàu, dù là; ông Tàu vĩ đại, bác Tàu kính yêu. Chỉ nghe
đến cái âm Tàu họ cũng đã
hoảng
sợ đến kinh người. Vì quá kinh sợ họ trở nên tức giận điên cuồng. Đối
với họ, đó là loại ngôn ngữ phạm thượng. Quen sống kiếp nô lệ, họ không
thể nào chấp nhận loại ngôn ngữ phạm thượng này đối với ông chủ phương
Bắc được. Và cho đó là ngôn ngữ phản động. Bởi thế họ phải bắt ngay cô
sinh viên Nguyễn Phương Uyên.
Đến
hôm nay, chúng ta đều thấy rõ rằng; nhóm cầm quyền cộng sản Việt Nam
chỉ giỏi hèn với giặc, nhưng luôn ác với dân. Để chứng tỏ mình không hèn
với giặc, như bọn người đang sống kiếp nô lệ này, điều đầu tiên và dễ
dàng nhất là mọi người nên vất bỏ hai chữ Trung Quốc ra khỏi ngôn ngữ
của mình. Bảo là dễ dàng nhưng sẽ có rất nhiều người không làm nổi điều
này.
Tùy
theo thái độ tâm lý, mỗi người sẽ tự chọn cho mình một loại ngôn ngữ
thích hợp. Người nặng tinh thần nô lệ và bệnh hoạn sẽ có lý do để bảo vệ
và tiếp tục xử dụng hai chữ Trung Quốc. Người nặng tinh thần tự trọng,
hiểu rõ trách nhiệm trong việc giữ gìn nền độc lập và tinh thần tự chủ
của dân tộc sẽ có lý do để loại bỏ chữ Trung Quốc và thay vào đó là Tàu.
Tâm
lý tức giận sẽ dùng ngôn ngữ phẫn nộ. Tâm lý tự chủ sẽ dùng ngôn ngữ
độc lập. Tâm lý hèn nhược sẽ dùng ngôn ngữ nô lệ. Điều này không ai chối
cãi được. Và vì thế, xin mọi người Việt chúng ta nên loại bỏ hai chữ
Trung Quốc để thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và bất khuất ngay trong
ngôn ngữ xử dụng hằng ngày. Hy vọng nhiều người sẽ đồng ý với đề nghị
này. Nhưng đối với người đảng viên cộng sản Việt Nam thì vô phương. Họ
đã chọn
kiếp sống tay sai, nô lệ, vô tổ quốc, phi dân tộc từ thuở chào đời. Chúng ta không mong gì họ thay đổi được.
Đã
giúp mình và cũng giúp người. Mọi người Việt cùng nhau giữ nước qua
ngôn ngữ. Vô cùng quan trọng nhưng lại không hề tốn một giọt máu. Tại
sao chúng ta không chịu làm?
Đây là điều đầu tiên và căn bản, vô cùng quan trọng, trong tinh thần chống lại bọn giặc phương Bắc.
Xin nêu ra nơi đây một bài học lịch sử để mọi người cùng suy nghiệm.
Chọn
ngôn ngữ để làm quốc ngữ cho một quốc gia vừa mới khai sinh là điều vô
cùng quan trọng trong việc giữ gìn nền độc lập. Ngay sau khi Hoa Kỳ
giành độc lập từ tay đế quốc Anh, người Mỹ đã nghiên cứu cẩn thận trong
việc chọn tiếng Anh hay tiếng Đức dùng làm quốc ngữ. Họ không chọn tiếng
Tây Ban Nha vì lúc bấy giờ, ảnh hưởng của Tây Ban Nha đã tràn khắp Nam
Mỹ và phần đất phía tây Bắc Mỹ. Cuối cùng, do kết quả cuộc bầu phiếu,
tiếng Anh được chọn vì hơn tiếng Đức một lá phiếu.
Nhưng
ngay sau đó, ông Noah Webster đã bỏ ra 20 năm liên tục để thành lập
tiếng Mỹ, như trường hợp tiếng Nam dưới thời nhà Trần. Ngoài việc sửa
đổi cấu trúc văn phạm và ngữ pháp, ông còn thay đổi cả ngữ vựng, và
thành lập cuốn Tự Điển Di Sản Hoa Kỳ (American Heritage Dictionnary) cho
dân chúng Mỹ xử dụng. Điều đáng lưu ý, đáng khâm phục, và đáng để mọi
người Việt chúng ta học hỏi, là từ đó và mãi về sau, từ tổng thống đến
thường dân, mọi người Mỹ đồng lòng quyết không dùng tiếng Anh mà chỉ
dùng tiếng Mỹ. Đến hôm nay chúng ta đều nhận biết sự phổ thông của tiếng
Mỹ trên khắp thế giới mà hầu hết người Việt biết tiếng Mỹ đều quen
thuộc.
Xin
ghi ra nơi đây vài thí dụ để mọi người cùng nhận thấy tinh thần quyết
tâm giữ gìn độc lập và tự chủ của người dân Hoa Kỳ qua ngôn ngữ:
—-Anh—- —-Mỹ—-
colour color —-bỏ bớt giữa
programme program —bỏ bớt cuối
theatre theater —đảo chữ
randomise randomize — đổi chữ
water closet restroom — đặt danh từ mới
Hiểu
rõ sự quan trọng của ngôn ngữ đối với nền độc lập của một dân tộc, giặc
phương Bắc đã tìm mọi cách hủy diệt chữ Nam của người Việt ngay từ thời
nhà Trần. Chúng gọi một cách nhục mạ khinh bỉ là tiếng nôm na, hèn mạt
để gạt ngưởi Việt biết chữ không thèm dùng đến. Thế mà đến nay vẫn có
nhiều người trí thức học giả miệt mài gọi là chữ nôm. Điều này chẳng
khác nào có kẻ côn đồ bảo trẻ con nên về nhà gọi cha mẹ chúng bằng thằng
và nó. Vì ngu khờ kém suy nghĩ, đứa trẻ liền nghe theo và cứ thế mà
gọi.
Hiện
nay, Tàu cộng bắt Việt cộng phải du nhập tiếng Tàu, và bằng mọi cách
phải nhét vào đầu để nô lệ hóa người Việt qua ngôn ngữ. Xin nêu ra vài
chữ như: động thái, quan ngại, bức xúc, tham quan, hộ khẩu, cải tạo, sự
cố, hoành tráng, hiện trường, quan chức, đăng ký, hỗ trợ, đột xuất, và
còn nhiều nữa. Vì cùng hệ thống đơn âm, họ chỉ cần dùng mẫu tự Việt diễn
âm Tàu, và bắt mọi người Việt phải dùng, tức nghe và đọc trước rồi nói
sau. Lúc đầu quen tai, quen mắt. Sau quen miệng. Thế là xong.
Xin
mọi người, còn nghĩ đến dân tộc và chống cộng, hãy nhớ lại xem mình đã
bắt đầu dùng những từ ngữ này từ lúc nào. Và từ bây giờ trở đi mình có
dám loại bỏ ngôn ngữ này và quyết tâm không dùng nữa hay không. Tại sao
phải loại bỏ những ngôn ngữ này? Nếu hỏi người Mỹ, họ sẽ giải thích cho
chúng ta hiểu lý do tại sao.
Xin
thưa thêm. Vì đây là loại ngôn ngữ mà ông Nguyễn Văn Luận, một người
dân Hà Nội bị kẹt lại Miền Bắc từ năm 1954 đã nhận ra ngay là “ngoại ngữ
Việt cộng” do Tàu cộng đem sang. Suốt 28 năm, mãi cho đến khi vượt biển
tìm tự do và cuối cùng định cư tại Hoa Kỳ, ông Luận vẫn nhất định không
dùng đến loại ngoại ngữ nô lệ và mất nước này. Thế mà hiện nay vẫn có
nhiều người Việt, dù đang sống tại hải ngoại, hăng hái chống Tàu, chống
cộng, nhưng sẵn sàng xử dụng loại ngôn ngữ nô lệ này. Lại có nhiều người
dù không hiểu ý nghĩa nhưng vẫn dùng một cách hàm hồ và sai hoàn toàn ý
nghĩa gốc trong tiếng Tàu. Thí dụ; chữ đột xuất có nghĩa là sự nổi bật
(outstanding) hoàn toàn không có nghĩa của trạng từ chỉ thời gian như
các chữ bất thình lình hay bất ngờ, trong tiếng Việt. Thật ra, bọn giặc
Bắc đâu
cần
thắc mắc chuyện người Việt dùng đúng nghĩa hay sai nghĩa. Cứ nhét được
những loại ngôn ngữ này vào đầu dân Việt là chúng thành công. Một vài kẻ
đã không biết mình ngu và dại, lại còn lớn tiếng biện minh cho hành
động bệnh hoạn này. Vua Quang Trung mà còn sống, chắc chắn ngài sẽ phân
thây bọn người mất gốc này để diệt trừ mầm nô lệ cho dân tộc.
Báo
chí và truyền thông tại Việt Nam cộng sản hiện nay bắt buộc phải dùng
loại ngoại ngữ Việt cộng này. Với kiếp sống của kẻ tay sai và nô lệ, họ
không thể làm khác hơn được. Bởi đây là sách lược nô lệ của Tàu cộng đưa
ra và bắt Việt cộng phải thi hành.
Tuy
nhiên, trên nhiều diễn đàn ineternet của người Việt hải ngoại hiện nay
chúng ta vẫn thấy đầy dẫy loại ngoại ngữ nô lệ và mất nước này. Về quy
định ngôn từ, nơi nào cũng đưa ra những điều lệ căn bản là; không chấp
nhận ngôn ngữ thô tục, và ngôn ngữ ca tụng Việt cộng; để chứng tỏ đây là
nơi của những người có học thức, lịch sự, và quyết tâm chống cộng.
Nhưng
than ôi. Họ chấp nhận loại ngôn ngữ nô lệ ẩn chứa mầm hủy diệt tinh
thần dân tộc của giặc phương Bắc mà họ không hề bận tâm. Không những thế
loại ngôn ngữ này được truyền bá và phát huy khá mạnh mẽ.Đây là sự thể
hiện một trình độ dân trí quá thấp kém của người Việt chúng ta.
Bởi
chúng ta chưa nhận thức rõ được sự quan trọng của ngôn ngữ đối với sự
tồn vong của dân tộc. Hãy nhìn lại gương của dân chúng Hoa Kỳ trong việc
xử dụng tiếng Mỹ để giữ gìn độc lập, may ra mọi người sẽ hiểu rõ vấn đề
vô cùng quan trọng này cho dân tộc và đất nước.
Là
người Việt, hầu hết chúng ta ai cũng đã từng nghe và nói câu: “Tiếng
Việt còn, Người Việt còn.” Nhưng chúng ta quên một điều vô cùng quan
trọng là; tiếng Việt nô lệ, thì người Việt nô lệ. Và sự nô lệ này sẽ dẫn
đến mất gốc và dân tộc bị hủy dìệt là điều không tránh khỏi. Mất đất, mất đảo còn có cơ hội lấy lại được. Nhưng mất người thì lấy ai mà đòi lại đất, giành lại biển?
Chống cộng mà không chống nổi ngôn ngữ Việt cộng trong đầu thì vẫn là tự lừa dối chính mình.
Người cộng sản Việt Nam biết chắc chắn họ luôn luôn thành công trong
việc khống chế tư tưởng người dân Việt. Rõ ràng nhất là qua ngôn ngữ.
Xin mọi người hãy nhìn lại ngôn ngữ mình xử dụng để chứng minh điều này.
Có
nhiều người chống cộng cảm thấy hài lòng qua việc xử dụng những danh từ
miệt thị, khinh bỉ đối với những người cầm đầu cộng đảng Việt Nam hiện
tai như: Trọng Lú, Sang Ngu, Dũng Dốt. Những người này vẫn mãi say sưa,
tự thỏa mãn với câu: “Người khôn phải gọi thằng ngu bằng thầy!”
Xin thưa! Nếu chúng ta khôn hơn họ, thì đã không bị họ khống chế từ cái đầu đến cái miệng suốt bao năm qua.
Năm 1954, sau khi Việt cộng chiếm Miền Bắc, thi sĩ Trần Dần đã bàng hoàng thốt rằng:
“Tôi bước đi không thấy phố thấy nhà,
Chỉ thấy mưa sa trên nền cờ đỏ.”
Hai
câu thơ đã cho thấy hình ảnh thê lương tang tóc của đất nước dưới ách
cai trị của người cộng sản. Thế nhưng, từ năm 1954, người dân Miền Bắc
đã không chịu nhìn thấy điều này. Và người dân Miền Nam, năm 1975, cũng
không muốn nhìn thấy điều này. Như thế, dù âm thầm không ai hay biết,
nhưng số phận của đất nước Việt Nam đã được quyết định từ lâu.
Tiền
bạc là vật mà mọi người dân, dù không biết chữ, vẫn phải dùng đến hằng
ngày. Thế là từ thời kỳ tem phiếu, mãi cho đến hiện nay, không một tờ
giấy bạc nào không có hình của tên bán nước Hồ Chí Minh. Sau khi chết,
chúng vẫn đem cái xác cáo mục rữa trấn ngay thủ đô Miền Bắc và bắt mọi
người phải chiêm ngưỡng. Đến khi cướp Miền Nam, chúng liền xóa ngay địa
danh Sài Gòn, tên gọi thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa. Thay vào đó là tên
cáo Hồ đã chết. Rồi chúng xây con đường trên cao nguyên dọc Trường Sơn,
xương sống của bản đồ Việt Nam với tên đại lộ Hồ Chí Minh. Tất cả mọi
việc trên đều nhằm mục đích thực hiện kế hoạch to lớn và lâu dài. Đó là
khống chế tư tưởng toàn thể dân Việt qua những hình ảnh này. Hãy thử
tính xem trong một ngày, hình ảnh của tên cáo Hồ bán nước đánh vào đầu
người dân Việt bao nhiêu lần qua tờ giấy bạc. Đây là một kỹ thuật trấn
áp tư tưởng vô cùnghiệu quả trên bình diện vô thức mà khoa Tâm Lý Học
gọi là khống chế tư tưởng (mind control) vô cùng tinh xảo và thâm độc.
Xin được nêu ra ở đây để những người vẫn còn ngây thơ cho rằng Việt cộng
là những kẻ ngu ngốc nên suy nghĩ lại.
Là
một người Việt cộng nằm vùng tại Miền Nam trong thời kỳ chiến tranh,
nên lúc bấy giờ ông y tá Nguyễn Tấn Dũng bắt buộc phải dùng ngôn ngữ của
Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng ngay sau khi cộng sản cướp được Miền Nam ,
chắc chắn ông Dũng và bao nhiêu người cộng sản nằm vùng khác đã không
thèm dùng tiếng Việt của Miền Nam ngày trước. Năm 2010, trong buổi trả
lời trước quốc hội cộng sản, vì lúng túng, thủ tướng cộng sản họ Nguyễn
đã lỡ miệng phát ra hai chữ “bảo đảm” của Việt Nam Cộng Hòa. Biết bị hớ,
liền ngay sau đó ông ta vội vàng tìm mọi cách để chữa lại bằng hai chữ
“đảm bảo” của Việt cộng cho mọi người ngồi dưới kia cùng nghe thật rõ.
Chỉ bấy nhiêu cũng đủ để dạy cho nhiều người Việt trí thức chống cộng
cần học bài học về sự quan trọng của ngôn ngữ, cùng thái độ quyết tâm
của ông ta khi xử dụng ngôn ngữ. Có thể lỡ lời nói ra hai chữ bảo đảm.
Nhưng chắc chắn ông Dũng không bao giờ dám lỡ miệng đảo thứ tự để nói
nhà nước (trước) và đảng (sau) cả. Đến đây hy vọng nhiều người sẽ nhận
ra sự quan trọng cùng sự quyết liệt của những người cộng sản trong việc
xử dụng ngôn ngữ. Nói một cách khác, nhưng vô cùng thực tế, họ hiểu rõ
quy luật sinh tử là, đối với họ: Dùng Chữ Sai Là Chết.
Khi
dùng ngôn ngữ Việt cộng để chống cộng, chống Tàu, chúng ta có thể nghe
họ lớn tiếng cười mỉa mai khinh bỉ và bảo nhau rằng: “Cứ để cho bọn
người đang sống ở hải ngoại đó
chống
cộng. Ngôn ngữ, tức cái đầu của chúng, mà đảng ta đổi tới thay lui
chúng chẳng hề hay biết. Thế thì chúng chống cái chi. Ta vo tròn bóp méo
cái đầu của chúng như thế mà chúng chẳng hay biết. Thì chúng chống được
điều gì. Chúng đang sống nơi hải ngoại cách xa ngàn dặm, nhưng đảng ta
nhét vào đầu chúng điều gì cũng được, thì có chi mà lo ngại. Ha ha ha.
Chỉ cần mười năm nữa thì bọn người này sẽ nằm trong các nghĩa địa. Chẳng
có chi để chúng ta phải bận tâm cả.”
Chống
Tàu cộng xâm lược, mà không chống nổi ngôn ngữ nô lệ của chúng đang bám
chặt trong đầu, thì chỉ làm trò cười cho bọn tay sai Việt cộng là thế
đấy.
Nên hiểu rằng, Việt cộng không bao giờ lo ngại chuyện mìn bom súng đạn,
chúng chỉ sợ cái đầu của người dân. Mà thể hiện của cái đầu là qua ngôn
ngữ đang xử dụng. Mong mọi người nên suy nghĩ kỹ điều này.
Hãy
nhìn cô sinh viên trẻ tuổi Nguyễn Phương Uyên sẽ biết mình thế nào. Hãy
nhìn bài học quốc ngữ của người Mỹ, hy vọng, và may ra, có người sẽ
hiểu rõ sự quan trọng của ngôn ngữ trong việc giữ gìn nền độc lập và
tinh thần tự chủ của dân tộc.
Xin chuyển đến mọi người để cùng suy nghiệm và chọn loại ngôn ngữ thích hợp cho chính mình.
Trần Đức Dũng
0 comments:
Post a Comment