Nhân Tuấn Trương
Hoa Kỳ vừa gỡ đi một phần luật « cấm bán vũ khí sát thương » cho VN. Luật này do quốc hội Mỹ đặt ra từ 75.
(Sau 1975, hai bên có những vận động để thiết lập ngoại giao nhưng
đều thất bại. Mỹ ngõ ý muốn bình thường hóa với VN nhưng VN đặt điều
kiện bồi thường chiến tranh thì mới bang giao. Đến năm 1977, khi VN đồng
ý bang giao « vô điều kiện » thì đã quá trễ : Hoa Kỳ đã đi tắt với Bắc
Kinh để lập liên minh chống Liên Xô. Từ đó VN ngã vào vòng ảnh hưởng của
Liên Xô, cùng với Liên Xô thực hiện mưu đồ thôn tính vùng Nam Á : từ
Afghanistan qua Iran, Ấn Độ, nhằm khống chế eo biển Malacca. Cuối thập
niên 70, khi Liên Xô mở mặt trận Afghanistan thì Việt Nam mở cuộc chiến
Kampuchia. Các nước trong vùng, kể cả Mỹ và Trung Quốc, lo ngại thuyết
Domino được chứng nghiệm : chính quyền các nước Thái Lan, Mã Lai, Miến
Điện, Nam Dương… cho đến Ấn Độ, Iran… lần lượt sụp đổ, hay liên kết với
Liên Xô. Trước dư luận quốc tế, cuộc chiến Kampuchia là cuộc chiến ủy
nhiệm của hai thế lực XHCN đối nghịch : Liên Xô và Trung quốc (được sự
chống lưng của Mỹ). VN bị xem là một tên « xung kích sừng sỏ » được sự
ủy nhiệm của cộng sản quốc tế do Liên Xô cầm đầu. VN bị Hoa Kỳ cấm vận
và bị thế giới cô lập từ đó, cho đến đầu thập niên 90, khi mà khối cộng
sản Đông Âu bị phân rã và Liên Xô đang trên đường sụp đổ.)
Việc tháo gỡ lệnh cấm bán vũ khí sát thương hôm nay cho VN có phần tương
tự với trường hợp Đài Loan năm 1979. Cả hai bên đều cần vũ khí sát
thương của Mỹ để tự vệ trước sự gây hấn của Trung Quốc.
Trường hợp Đài Loan, sau khi bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi tại Liên Hiệp
Quốc năm 1971, trong chừng mực Đài Loan bị cô lập toàn diện. Trong buổi
họp Đại hội đồng LHQ 25-10-1971, do việc HK bỏ phiếu trắng, Đài Loan đã
bị trục xuất và chính quyền Bắc Kinh, được nhận vào ghế Hội đồng Bảo An
LHQ. Điều này gây phẫn nộ và đau đớn cho chính quyền Tưởng Giới Thạch
(cho là bị đồng minh đâm sau lưng). Tiếp theo sự sụp đổ của chính quyền
Sài Gòn 1975, số phận chính quyền Quốc dân đảng ở Đài Loan mong manh như
trứng để đầu cối đá. Mặc dầu HK còn bị ràng buộc bởi Hiệp định An ninh
hỗ tương, ký từ 1954, nhưng trên danh nghĩa pháp lý, lục địa có thể đem
quân « giải phóng » đảo quốc này bất kỳ lúc nào. Dân chúng đảo quốc,
cũng như kiều dân Hoa sống ở HK, lo ngại. Họ thành lập nhưng tổ chức
quyền lực tại HK nhằm vận động chính trị.
Điều tệ hại đến vài năm sau đó. Ngày 1-1-1979 hai bên HK và TQ tuyên
bố bình thường hóa bang giao. Hiệp ước An ninh giữa HK và Đài loan trở
thành « caduc – không còn hiệu lực ». Hoa Kỳ mặc nhiên nhìn nhận « vấn
đề Đài Loan » thuộc về « nội bộ » của Trung Quốc. Điều này cũng tương tự
tình trạng VNCH sau khi Hiệp định Paris 1973 được ký kết. Hoa kỳ « Việt
Nam hóa chiến tranh », nhìn nhận VN là một quốc gia thống nhất, độc lập
có chủ quyền. Cuộc chiến VN chỉ là một cuộc nội chiến. Chiến tranh của
VN trở thành « chuyện riêng » của VN, cũng như vấn đề Đài Loan là chuyện
riêng của TQ. Hoa Kỳ (và các nước trên thế giới) không còn lý do để can
thiệp vào. Đây là một nguyên tắc cơ bản của Hiến chương LHQ : một quốc
gia không được quyền can thiệp vào nội bộ một quốc gia khác.
Trước đe dọa bị « thống nhất » bằng vũ lực, Đài Loan mong muốn được
mua « vũ khí sát thương » của Hoa Kỳ để « tự vệ ». Dân chúng ở đảo quốc,
cũng như kiều dân Hoa ở HK đã sẵn sàng. Họ làm « lobby », tức vận động
chính trị hết mức lên các chính trị gia ở quốc hội Mỹ.
Trường hợp Việt Nam, sau khi Trung Quốc đặt giàn khoan 981 trên thềm
lục địa của VN vào tháng 5-2014, VN lâm vào thế « tiến thoái lưỡng nan »
: đánh thì không xong, mà hòa cũng không ổn. VN không có đủ sức mạnh
quốc phòng chống lại TQ để bảo vệ quyền lợi của mình. Trong khi việc «
hòa » là đồng nghĩa với việc từ bỏ chủ quyền của VN tại các đảo Hoàng Sa
đồng thời quyền chủ quyền trên thềm lục địa và hải phận của mình.
(Phía TQ chỉ rút giàn khoan, với lý do « tránh bão », nhưng thực ra
là để hạn chế hệ quả một sai lầm chiến lược. Đáng tiếc là VN đã không
khai thác được điều này. Bởi vì, trên quan điểm thuần túy chiến lược,
phía Trung Quốc, khi đặt giàn khoan 981, đã tính toán sai. Trong quan hệ
ngoại giao, sự do dự của VN về việc lựa chọn đồng minh chiến lược –
Trung Quốc hay Mỹ – sẽ sớm được quyết định. Trung Quốc sẽ mất một đồng
minh (đúng ra là đàn em) tin cậy đồng thời tạo ra một quốc gia thù địch
quan trọng ở trước cửa ngõ. Trong khi việc tranh chấp lãnh thổ với Trung
Quốc, về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, đã đông lạnh từ tháng giêng năm
1974 cho đến nay, thì được hâm nóng lại. Hoàng Sa và vùng biển chung
quanh, từ lâu đã được TQ xem là chủ quyền thuộc về TQ bất khả tranh
nghị. Qua dịp này, chủ quyền Hoàng Sa và vùng biển chung quanh có thể
được quốc tế nhìn nhận là vùng lãnh thổ có tranh chấp. Điều này dĩ nhiên
có lợi cho VN.)
Điều trở ngại cho cả hai bên, Đài Loan (năm 1979) và Việt Nam hôm nay
: Đài Loan (năm 1979) cũng như Hà Nội là những chế độ độc tài. Trường
hợp VN hôm nay còn tệ hại hơn, nơi đây một trong vài chế độ độc tài cộng
sản trên thế giới còn sót lại. Nhân quyền thường xuyên bị chà đạp. Ý
kiến của nhiều chính trị gia HK, khi mà VN chưa cải thiện về nhân quyền,
chưa dân chủ hóa chế độ, thì các quan hệ với Hoa Kỳ sẽ còn gặp nhiều
khó khăn.
Trường hợp Đài Loan, chính quyền Quốc dân đảng nhượng bộ đòi hỏi của
thành phần « đảng ngoại » (tức người ngoài đảng), đồng ý một lịch trình
dân chủ hóa chế độ. Hoa Kỳ đáp ứng bằng cách cho thông qua luật « Taiwan
Relations Act » ngày 10-4-1979. Dầu vậy luật này cũng là « tác phẩm »
của kiều dân Đài Loan sống tại Hoa Kỳ, qua các cuộc vận động chính trị
ráo riết từ nhiều năm trước. « Lobby » của kiều dân Hoa tại Mỹ rất mạnh.
Nhờ vận động hành lang chính trị, thuợng viện HK mới sớm thông qua dự
luật « Taiwan Relations Act », theo đó HK chủ trương việc giải quyết «
vấn đề Đài Loan » bằng phương tiện hòa bình (HK tôn trọng ý nguyện, tức
sự lựa chọn chính trị của dân Đài Loan), đồng thời cho phép chính quyền
Dân Quốc được mua các loại vũ khí của HK để tự vệ.
Quá trình dân chủ hóa Đài Loan bắt đầu từ thập niên 80, được sự giúp
đỡ quan trọng (làm chất xúc tác) của các học giả thuộc trường đại học
Harvard (như Samuel P. Huntington). Những người này đã tổ chức (trong
khuôn viên đại học Harvard) những cuộc « hội thảo », tiếp xúc giữa những
người ngoài đảng (đảng ngoại, tức không phải là đảng viên Quốc Dân
đảng) với các nhân vật lãnh đạo Dân Quốc. Quá trình dân chủ hóa kết thúc
vào những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3.
Nhờ các vũ khí tối tân mua từ Hoa Kỳ, Đài Loan hiện nay mặc dầu bị cô
lập (hầu như) toàn diện, họ vẫn không sợ viễn ảnh bị lục địa « thống
nhất » bằng vũ lực.
Trường hợp Việt Nam, chính quyền Obama vừa tháo gỡ một phần lệnh cấm
bán vũ khí sát thuơng, đổi lại, VN phóng thích một vài tù nhân lương
tâm. VN vẫn hoàn toàn im lặng về « hồ sơ nhân quyền » trước dư luận quốc
tế, trong khi việc « dân chủ hóa » chế độ chỉ là điều trong mơ.
Hoa Kỳ bán vũ khí sát thuơng (hạn chế) cho VN do vậy đến từ một cấp
bách về chiến lược (bao vây TQ) chứ không do một động lực nào khác.
Người ta không thể trách được Hoa Kỳ. Lực lượng người Việt sinh sống
tại Hoa Kỳ rất là đông đảo, không kém kiều dân Hoa ngày trước. Nếu kiều
dân Hoa ngày xưa một lòng ủng hộ Đài Loan, thì hôm nay kiều dân Việt
phần lớn chống lại chế độ độc tài toàn trị của Hà Nội. Những người Việt
này có lý do chính đáng, vì phần lớn họ là nạn nhân trực tiếp của chính
sách trả thù ác độc, cũng như sự cai trị hà khắc của nhà cầm quyền Hà
Nội.
(Nếu không có một chính sách hòa giải dân tộc đứng đắn, những hận thù
này sẽ còn tồn tại mãi, sẽ luôn chống lại phía cộng sản cầm quyền. Phía
thiệt hại dĩ nhiên là đất nước và dân tộc VN. Đó là ta chưa nói đến
những tác hại của các thành phần dân tộc thiểu số Khmer Krom và các dân
tộc ở Tây nguyên, Tây bắc. Chính quyền suy yếu, hay đất nước kém phát
triển, khuynh hướng ly khai sẽ phát triển. Việc giữ toàn vẹn lãnh thổ
trở thành khó khăn. Mà giải quyết các mâu thuẩn này hiệu quả không phải
do đàn áp, mà cũng phải là một chính sách hòa giải dân tộc đúng đắn).
Trong khi các « lực lượng dân chủ » của VN thì tản mác, không có
những trí thức lớn như trường hợp Đài Loan (năm 1979). Từ khi những trí
thức lớn và có uy tín như ông Trần Xuân Bách bị khai trừ năm 1990, thì
đảng VN ngày càng rập khuôn theo kiểu mẫu của Trung Quốc. (Ông Trần Xuân
Bách là nạn nhân của cánh cực đoan duy ý chí trong đảng, là những người
có gốc miền Trung. Phe miền Trung do thua kém miền Nam và miền Bắc về
kinh tế, do đó thiên về hướng bảo thủ nhằm giữ lấy quyền. Vô hình chung,
thái độ này đã « đóng đinh » VN trên cây thánh giá XHCN từ năm 1990.
Nếu không thì VN đã theo mô hình dân chủ tự do từ đó, với những người CS
tiến bộ như Võ Văn Kiệt, Nguyễn Cơ Thạch, Trần Xuân Bách…).
Giả sử bây giờ Mỹ muốn giúp dân chủ VN thì cũng không biết giúp ai ?
Có đảng phái, tổ chức dân chủ nào có trọng lượng hiện nay để mà Mỹ giúp ?
Việc Mỹ bán (giới hạn) vũ khí sát thuơng cho VN dầu vậy cũng để dành
một cơ hội để phe dân chủ VN và những người tiến bộ trong đảng CSVN nắm
bắt. Nội tình đảng CSVN phân chia ra sao, Hoa Kỳ nắm vững. Họ không hề
xem VN là một nước đáng tin cậy. Bởi vì lực lượng đảng viên theo TQ vẫn
chiếm đa số trong đảng.
Biến cố dàn khoan 981 trên thềm lục địa của VN đã khơi dậy lòng yêu
nước nơi mọi người Việt, bất kể quá khứ cũng như lập trường chính trị.
Lẽ ra, từ điểm tựa này, nếu có một « chất xúc tác » hữu hiệu, thì rất có
thể lực lượng người Việt tại Hoa Kỳ có thể vận động hành lang để chính
giới nước này thông qua một luật tương tự « Taiwan Relations Act ». HK
sẽ ủng hộ VN, bán vũ khí để VN « tự vệ » và tranh chấp Biển Đông phải
được giải quyết bằng (các phương tiện) hòa bình.
(Ta không nên đánh giá thấp tiềm năng kinh tế của lớp người Việt hải
ngoại. Lớp người này gởi về VN hàng năm trên 10 tỉ đô la. Số tiền này VN
có thể mua bất kỳ loại vũ khí tối tân nào của Hoa Kỳ.)
Biến cố giàn khoan 981 cũng đã tạo ra cho VN nhiều cơ hội để đạt được
mục đích của mình, phía chính quyền cũng như phe dân chủ. Đáng tiếc là
cơ hội đã đi qua. Phía TQ đã thấy được sai lầm của họ và đang cố gắng
sửa chữa. Ngoại giao con thoi, qua lại giữa các viên chức VN và TQ gần
đây cho thấy hai bên dường như đã « quên » quá khứ. Mọi việc đi vào « nề
nếp » như trước. Lãnh đạo CSVN đã bỏ qua một dịp may bằng vàng để giải
quyết tranh chấp Hoàng Sa (và Trường Sa) với TQ bằng phương pháp hòa
bình, rất thông dụng là Tòa quốc tế. VN cũng bỏ mất dịp may để đưa vùng
biển Hoàng Sa trở lại thành vùng VN có tranh chấp với TQ.
Còn phe dân chủ VN thì sao ? Bất lực vì không thể lấy hứng từ « cách
mạng dù » của sinh viên học sinh Hồng Kông. Vì giáo dục của VN chỉ có
khả năng đào tạo ra « con cừu » chứ không có khả năng đào tạo thành ra
con người tự chủ, hữu dụng. Các cuộc cách mạng màu, cách mạng hoa hòe
cũng qua đi mà dân chủ VN chỉ « ngóng », không lấy « hứng » được điều gì
! Xã hội VN nó vậy thì phải bó tay thôi.
Chỉ còn con đường của trí thức Đài Loan đã đi. Việc này tôi đã nói đi
nói lại nhiều lần trong quá khứ. Trí thức VN nên học tập trí thức «
đảng ngoại » của Đài Loan vào thập niên 70, 80, sinh hoạt dưới sự bảo vệ
của pháp luật hiện hành, trưởng thành lên từ đó. Bối cảnh VN hôm nay
khá giống với Đài Loan thập nên 80. Đài Loan cần Mỹ, cũng như VN cần Mỹ.
Mỹ thỏa mãn ý nguyện của Quốc dân đảng với điều kiện dân chủ hoá chế
độ. Dân chủ VN cũng có đến bằng con đường tương tự. Vấn đề là dân chủ VN
chưa xây dựng được lực lượng.
Phải bắt đầu ở điểm bắt đầu thì mới có thể đi hết con đường.
0 comments:
Post a Comment