VRNs (26.04.2014) -
Sài Gòn - Phóng viên Anna Huyền Trang đã gởi đơn khởi kiện ông Võ Xuân
Ái, cán bộ an ninh cửa khẩu sân bay Tân Sơn Nhất, chỉ huy và các công
an, các an ninh sân bay Tân Sơn Nhất khác có hành vi ngăn chặn cô xuất
cảnh, tịch thu hộ chiếu mà không xuất trình được lệnh, quyết định cấm
xuất cảnh của người, cơ quan có thẩm quyền. Ông Ái cũng không giao Biên
Bản tịch thu hộ chiếu cho cô Trang.
Và gởi đơn tố cáo ông Vũ Xuân Ái chỉ huy và các Công an, an ninh sân bay
Tân Sơn Nhất và một số người khác không biết tên do họ không giới thiệu
tên, đã ngăn chặn cô Trang xuất cảnh, tịch thu hộ chiếu, giam giữ, đánh
và lăng nhục, kè cổ như một tên tội phạm... mà không xuất trình được
lệnh, quyết định cấm xuất cảnh, hủy bỏ hiệu lực hộ chiếu, giam giữ...
của người, cơ quan có thẩm quyền, cũng như không giao bất kỳ biên bản
nào theo đúng qui định pháp luật.
Ngày 25 tháng 04 năm 2014
ĐƠN KHỞI KIỆN
V/v:Hành vi hành chính ngăn cản trái phép công dân xuất cảnh
Kính gửi: TÒA ÁN NHÂN DÂN TP.HCM
Họ và tên người khởi kiện: Nguyễn Thị Huyền Trang
CMND số 271885453 cấp ngày 29.06.2004 tại công an Đồng Nai
Địa chỉ liên lạc: 38 Kỳ Đồng, phường 9, Quận 3, Sài Gòn
Họ và tên người bị kiện: Vũ Xuân Ái
Cấp bậc : Thượng tá
Đơn vị : Công an cửa khẩu sân bay Tân Sơn Nhất- Bộ Công An
Nay Người khởi kiện trình bày với Quý Tòa Đơn khởi kiện nội dung sau:
Nguyên ngày 13.04.2014 tôi, công dân Nguyễn Thị Huyền Trang, có hộ chiếu
số B7395142 do Cục Quản lý xuất nhập cảnh cấp ngày12.11.2012, làm thủ
tục xuất cảnh đi Hoa Kỳ tại cửa khẩu sân bay Tân Sơn Nhất.
Nhưng đã bị Ông Vũ Xuân Ái chỉ huy và các công an, các an ninh sân bay
Tân Sơn Nhất khác có hành vi ngăn chặn tôi xuất cảnh, tịch thu hộ chiếu
của tôi mà không xuất trình được lệnh, quyết định cấm xuất cảnh của
người, cơ quan có thẩm quyền. Ông Ái cũng không giao cho tôi Biên Bản
tịch thu hộ chiếu theo như tôi yêu cầu.
Hành vi ngăn cản tôi xuất cảnh và tịch thu hộ chiếu của tôi của Ông Ái
như kể trên là trái pháp luật. Bởi lẽ, cho rằng tôi “thuộc đối tượng
chưa được xuất cảnh” vì lý do “an ninh…” thì phải có quyết định của ông
Bộ trưởng Bộ Công an, theo qui định tại khoản 6 Điều 21 và điểm d khoản 1
Điều 22 Nghị định số 137/2006/NĐ-CP); đồng thời, việc “hủy giá trị sử
dụng hộ chiếu” của tôi phải thuộc thẩm quyền Cục Quản lý xuất nhập cảnh –
Bộ Công an, theo qui định tại Điều 24 Nghị định số 137/2006/NĐ-CP.
Việc làm trái pháp luật của Ông Ái và những công an, an ninh sân bay này
xâm phạm “quyền tự do ra nước ngoài” của công dân, xúc phạm danh dự,
nhân phẩm của tôi khi xếp tôi vào các trường hợp tội phạm, và gây thiệt
hại nghiêm trọng tinh thần, vật chất của tôi.
KIẾN NGHỊ
Qua trình bày trên, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho tôi, đảm
bảo tôn trọng pháp luật, kính đề nghị Quý Tòa xem xét giải quyết tuyên
buộc Người bị kiện phải công khai xin lỗi, trả lại hộ chiếu số B7395142
cho tôi, bồi thường mọi thiệt hại, tạm tính là:
1. Vé máy bay (1375 USD x 21150 VNĐ) 29,081,250 VNĐ
2. Tiền taxi đi lại từ nhà ra sân bay và ngược lại: 150,000 VNĐ
3. Thiệt hại về tinh thần:
60 tháng lương tối thiểu chung (1.150.000 VNĐ) 69,000,000 VNĐ
Tổng cộng: 98,231,250 VNĐ
(Chín mươi tám triệu hai trăm ba mươi mốt ngàn hai trăm năm mươi đồng)
Chào trân trọng,
Nguyễn Thị Huyền Trang
*
Ngày 25 tháng 04 năm 2014
ĐƠN TỐ CÁO
V/v: Thượng tá Vũ Xuân Ái- Công an cửa khẩu sân bay Tân sơn Nhất-
lạm quyền, lợi dụng chức vụ quyềnhạn giữ người trái pháp luật và làm
nhục người khác.
Kính gởi: - CÔNG AN TP.HCM
- VIỆN KIỂM SÁT ND TP.HCM
- THANH TRA CÔNG AN TP.HCM
Tôi tên : Nguyễn Thị Huyền Trang sinh năm 1988
CMND số : 271885453
Địa chỉ cư trú : 86/3 khu phố 4, phường Tân Biên, Biên Hòa, Đồng Nai
Trân trọng trình bày,
Nguyên ngày 13.04.2014 tôi, công dân Nugyễn Thị Huyền Trang, có hộ chiếu
số B7395142 do Cục Quản lý xuất nhập cảnh cấp ngày12.11.2012, làm thủ
tục xuất cảnh đi Hoa Kỳ
Nhưng đã bị Ông Vũ Xuân Ái chỉ huy và các Công an, an ninh sân bay Tân
Sơn Nhất và một số người khác không biết tên do họ không giới thiệu tên,
đã ngăn chặn tôi xuất cảnh, tịch thu hộ chiếu, giam giữ, đánh và lăng
nhục, kè cổ như một tên tội phạm... mà không xuất trình được lệnh, quyết
định cấm xuất cảnh, hủy bỏ hiệu lực hộ chiếu, giam giữ... của người, cơ
quan có thẩm quyền. Cũng không giao bất kỳ Biên bản nào cho tôi theo
đúng qui định pháp luật.
Tôi biết, theo qui định, nếu tôi “thuộc đối tượng chưa được xuất cảnh”
vì lý do “an ninh…” thì phải có quyết định của ông Bộ trưởng Bộ Công an,
theo qui định tại khoản 6 Điều 21 và điểm d khoản 1 Điều 22 Nghị định
số 137/2006/NĐ-CP; đồng thời, việc “hủy giá trị sử dụng hộ chiếu” của
tôi phải thuộc thẩm quyền Cục Quản lý xuất nhập cảnh – Bộ Công an, theo
qui định tại Điều 24 Nghị định số 137/2006/NĐ-CP; việc giữ tôi phải có
lệnh hoặc quyết định giữ người theo qui định tố tụng hình sự hoặc hành
chính.
Như vậy, Ông Ái và những công an, các an ninh sân bay này đã có dấu hiệu
tội phạm hình sự: “lạm quyền trong khi thi hành công vụ” (Điều 282 Bộ
luật Hình sự); “giữ người trái pháp luật” (Điều 123 hoặc Điều 303 Bộ
luật Hình sự); và “làm nhục người khác” (Điều 121 Bộ luật Hình sự).
Việc làm vi phạm pháp luật của những công an, an ninh sân bay này đã xâm
phạm “quyền tự do ra nước ngoài” của công dân, xúc phạm danh dự, nhân
phẩm của tôi khi xếp tôi vào các trường hợp tội phạm, và gây thiệt hại
nghiêm trọng tinh thần, vật chất của tôi.
KIẾN NGHỊ
Qua trình bày trên, để đảm bảo tôn trọng pháp luật, kính đề nghị Quý Cơ
quan xem xét, xử lý các đối tượng vi phạm pháp luật kể trên theo đúng
qui định pháp luật; đồng thời buộc họ phải liên đới chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại dân sự cho tôi các phí tổn vật chất (vé máy bay, xe đi
lại...) và thiệt hại tinh thần.
Trân trọng,
Nguyễn Thị Huyền Trang
0 comments:
Post a Comment