Lời giới thiệu: Tạp chí World Affairs (Thế giới Vụ)
ra đời từ thế kỷ XIX, năm 1837, hiện là tạp chí của giới trí thức và
chính trị gia Hoa Kỳ. Khách mua báo giấy dài hạn, ngoài số độc giả bình
thường còn là Toà Bạch Ốc và Quốc hội Hoa Kỳ dành cho các Viên chức,
Thượng Nghị sĩ và Dân biểu. Chưa kể 12 nghìn độc giả mua bản điện tử
Email, 100 nghìn người đọc qua Facebook, và 40 nghìn người theo dõi qua
Twitter của World Affairs.
Bài viết “Đảo Ánh Sáng, Nhìn lại phong trào Người Vượt Biển và giới Tả khuynh Châu Âu”- Isle of Light: A Look Back at the Boat People and the European Left, đăng trên số tháng Ba và Tư năm 2014 của World Affairs, được ông James S. Denton, Chủ nhiệm phát hành, giới thiệu trong Lá Thư Người Biên tập như sau:
“Thêm vào số bài về những diễn biến quốc tế, chúng ta có một tiểu
luận như món quà thưởng ban thêm của nhà văn Việt Nam Võ Văn Ái đưa
chúng ta về lại kinh đô Paris năm 1978, khi tin tức xuất hiện chuyện
chiếc tàu của khoảng hai trăm năm mươi người tị nạn Việt Nam chết đói và
mất nước bị mắc cạn trên bờ biển Mã Lai mà chẳng có quốc gia nào đón
nhận. Họ trốn khỏi triều đại khủng bố của Cộng sản Bắc Việt ngự trị lên
Miền Nam trước đó ba năm, sau cuộc rút quân nhục nhã của Hoa Kỳ. Thời
ấy, nửa triệu người tị nạn chết chìm trên biển khi tìm cách trốn khỏi
ngục tù gulag của Hà Nội vừa thiết lập, và đã giết nửa triệu người khác
trong quãng thời gian 1975 đến 1985. Nhưng chủ đề của Võ Văn Ái là một
tia sáng, bị lịch sử bỏ quên, chiếu rực vào tấn thảm kịch. Vào lúc những
người tị nạn vô vọng trong dòng nước chết, một nhóm trí thức Pháp có
gốc rễ tả khuynh tung chiến dịch vận động quốc tế để đi vớt và tái định
cư hàng nghìn những “thuyền nhân” này, một từ ngữ được phổ biến. Họ vận
động giới tả khuynh Pháp và Châu Âu, không những tham gia nỗ lực nhân
đạo này, mà còn xác nhận và tố cáo sự tàn bạo của những kẻ mà trước đây
họ hậu thuẫn mạnh mẽ. Điều suy nghĩ can đảm thứ hai này đã gây tác động -
không riêng trong nghĩa cứu sống người, mà trong nghĩa khẳng định tư
cách và ứng xử của người trí thức”.
Những chú thích trong bài viết, bản dịch Việt ngữ hôm nay, nhằm cho độc
giả người Việt biết thêm các nhân vật quốc tế, vốn không có trong bài
đăng trên World Affairs.
*
Thi Vũ - Võ Văn Ái
- Một ngày tháng 11 năm 1978, đang ngồi trong quán Cà phê bên bờ tả
ngạn sông Seine, bỗng nghe tin loan 2564 người vượt biển cập bờ Mã Lai
trên con tàu han gỉ Hải Hồng. Họ đã trốn khỏi Việt Nam trong niềm tuyệt
vọng đi tìm tự do và tị nạn ở nước ngoài. Sau mười sáu ngày lênh đênh
trên Biển Đông, vùi dập trong bão tố, khi thì nóng cháy nung người,
không thức ăn nước uống, họ cập bờ Nam Dương rồi Mã Lai, nơi nào cũng bị
lính gác biển xua đuổi. Họ không còn đất sống, và tàu không thể đi xa
hơn. Kẹt lối không người cứu, đói cồn cào và cơ thể mất nước, họ đang
chết trước mắt chúng ta khi giăng tấm biển viết bằng tiếng Anh bên hông
tàu: “LHQ ơi! Hãy cứu vớt chúng tôi.”.
Họ không phải là những người đầu tiên làm cuộc hải trình vô vọng thoát
khỏi Việt Nam. Từ năm 1975, khi Hà Nội “giải phóng” Miền Nam và chấm dứt
cuộc chiến dai dẳng, hơn một triệu người liều chết trên những chiếc
thuyền đổ nát để thoát xa cuộc khủng bố. Nửa số người trong họ đã bỏ
thân — vì chết đuối, vào bụng cá mập, hay bị hải tặc hãm giết trong vịnh
Thái Lan. Lúc ấy, truyền thông quốc tế chẳng chú ý bao lăm chuyến hải
hành hoảng hốt này, ai ai cũng chỉ muốn phủi tay với vấn đề Việt Nam.
Nhưng con tàu Hải Hồng lại hình tượng lên tấn thảm kịch nhân sinh nơi
phòng khách mỗi nhà. Uyển ngữ “thuyền nhân” trở thành chuyện đầu môi.
Lẽ ra những người Việt Nam này đã phải thoát đi trong những ngày cuồng
động khi Hoa Kỳ rút quân. Nhưng họ đã ở lại. Nhiều người chống chính thể
quân đội của Tướng Thiệu ở miền Nam, đặt niềm tin trong hy vọng họ có
thể góp tay tái thiết và làm lại đất nước. Nói cho cùng, thì chiến tranh
đã chấm dứt, cộng sản cũng là người Việt Nam thôi. Hà Nội đã ký kết Hoà
ước Paris hứa hẹn kiềm chế mọi cuộc trả thù. Người cộng sản có thể đối
đãi hung ác không khoan nhượng với kẻ thù, nhưng chắc hẵn sẽ có cái nhìn
khác với anh chị em đồng chủng?
Thế nhưng, những ai mắc mình vào ảo tượng này, những ai còn tin rằng có
chỗ đứng cho mình trên đất nước thống nhất dưới mái nhà Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam theo đường lối cai trị của Hà Nội, thì chẳng có sai lầm nào
sai lầm hơn. Tức khắc nhà cầm quyền Cộng sản phân loại dân chúng Miền
Nam thành ba thành phần: bọn ngụỵ quân phản động, bọn nguỵ quyền phản
động, và nhân dân phản động. Nói tóm, toàn dân miền Nam đều “phản động”.
Những tháng kế tiếp cuộc cưỡng chiếm, một mạng lưới rộng lớn “trại cải
tạo” phủ trùm khắp lãnh thổ miền Nam, mà kỳ thật chỉ là những trại tập
trung lao động khổ sai, giống như hệ thống Lao cải bên Tàu. Khởi
sự lùa đi những sĩ quan rồi binh lính Việt Nam Cộng hoà, tiếp đến là các
nhà văn, nghệ sĩ, giáo sư đại học, nhà báo, nhà hoạt động công đoàn,
nhà giáo, sinh viên, nông gia, tất cả mọi thành phần xã hội đoàn lớp kéo
nhau vào “trại cải tạo”. Thoạt đầu họ được lệnh mang áo quần và lương
thực đủ dùng cho hai tuần lễ. Nhưng biết bao người chẳng trở về. Có
những kẻ mút mùa hai mươi năm trong những trại này, hay được trả tự do
khi sức khoẻ kiệt cùng, và nhắm mắt khi tới nhà[1].
Dù chẳng có bản thống kê nào được công bố, nhưng Hà Nội đã thú nhận có
hai triệu rưởi người bị giam giữ trong các trại cải tạo từ năm 1975 đến
1985[2]. Khoảng một trăm năm mươi nghìn người bị xử tử hình[3],
với hàng trăm nghìn người chết vì đói, kiệt sức, hay đau ốm không thuốc
men trong hệ thống tù ngục Gulag Việt Nam. Cùng thời gian, hàng trăm
nghìn dân chúng bị đưa đi Kinh tế mới làm vật trái độn dọc biên giới
Việt Trung và Kampuchia. Ai chống đối sẽ bị bỏ tù vì tội phá rối an ninh
quốc gia[4].
Trong quán cà phê một buổi tối năm 1978 ấy, các bạn Việt và tôi đều nghĩ
rằng con tàu Hải Hồng không chở đi những người tị nạn kinh tế, mà là
những người đi tìm tự do thoát khỏi chế độ độc tài toàn trị, và đây là
chuyến hải trình không tiền khoáng hậu. Trải qua lịch sử bốn nghìn năm,
vào những giai đoạn bi thảm nhất vì nạn đói hay chiến tranh, người Việt
chúng tôi chưa bao giờ rời bỏ mảnh đất chôn nhau cắt rốn của cha ông.
Thế mà nay Người Vượt Biển đã bỏ phiếu bằng đôi chân đổi lấy sự sống.
Trong nhóm bạn chúng tôi thời ấy có chị Claudie và anh Jacques Broyelle,
những nhà Hán học và cựu Mao-ít mới trở về từ Trung quốc, với nỗi thất
vọng tràn trề về chế độ Bắc Kinh; Alain Geismar, cựu lãnh tụ sinh viên
nổi dậy năm 1968 từng làm lung lay chính phủ De Gaulle tại Pháp; và
André Glucksmann[5],
nhà văn được xem như khuôn mặt tân triết gia của thời đại. Những người
bạn nung nấu trong nhiệt tình lý tưởng, tất cả mang nặng quá khứ tả
khuynh, nhưng chẳng ai còn ảo tượng về đời sống con người dưới chế độ
Cộng sản. Chúng tôi họp nhau và quyết định phải làm một cái gì cho lớp
Người Vượt Biển.
Thập niên 1970, Paris là bến đổ ẩn náu cho các nhà ly khai Liên xô và
Đông Âu. Đầu năm 1976, tôi xuất bản tạp chí Quê Mẹ bằng tiếng Việt, một
thứ samizdat cổ võ cho phong trào dân chủ và nhân quyền, các nhà ly khai
này là kẻ hậu thuẫn đầu tiên cho chúng tôi. Nữ thi sĩ Nga Natalya
Gorbanevskaya[6], nhà toán học Leonid Plyushch[7], người xứ Ukraine, và Vladimir Bukovsky[8]
tham gia cuộc vận động của chúng tôi mà chẳng cần chúng tôi mời gọi.
Nhà văn Lỗ Mã Ni, Paul Goma, viết trên tạp chí Quê Mẹ số Quốc Kháng 30
tháng Tư năm 1978 rằng: “Ngay cả những người phu quét đường ở thủ đô
Bucharest còn thấu tỏ hơn các chính trị gia Tây phương về những chi đang
xẩy ra tại Việt Nam, và họ có chánh kiến. Chỉ trong vòng bốn năm mà
Cộng sản Việt Nam trả thù và tàn phá hơn ba mươi năm chiến tranh”.
Trong khi các nhà ly khai khắn khít bảo bọc mục tiêu chiến đấu của chúng
tôi, thì việc thuyết phục công chúng Tây phương vô cùng khó khăn, đặc
biệt trong giới tả khuynh. Thời chiến tranh Việt Nam, hàng nghìn người
đổ xuống các đường phố ở Paris, Berlin, Washington, Tokyo… và nhiều nơi
khác để tố cáo xâm lược Mỹ vào Việt Nam, hô gào chấm dứt sự chém giết.
Thế nhưng ngày nay, cùng những người xuống đường biểu tình mấy năm xưa
ấy, lại im lặng thin thít khi hàng nghìn người Việt Nam chết âm thầm
trong các trại cải tạo hay chết đuối trên Biển Đông. Giới phản chiến tả
khuynh chẳng sao chấp nhận chuyện các “anh hùng liệt sĩ” chiến đấu cho
tự do thời trước, nay trở thành kẻ bạo ngược, và những kẻ “tay sai của
đế quốc Mỹ” đang hoá thành nạn dân.
Đáp ứng cuộc vận động cho Người Vượt Biển của chúng tôi, đông đảo trí
thức Pháp toàn tâm và tự nguyện hậu thuẫn, không những cứu sống hàng
nghìn người lâm nạn, mà còn phá vỡ lối nhìn rập khuôn tác động sâu sắc
quan điểm giới tả khuynh Châu Âu và Pháp.
Cuộc họp đầu tiên vào tháng 11 năm 1978 tại Paris, chúng tôi tập trung
việc xây dựng phong trào nhắm mục tiêu cứu sống Người Vượt Biển. Tối hôm
sau chúng tôi gặp sử gia Ilios Yannakakis trong một căn hộ ở đại lộ
Saint Michel, chuyển đề án thành sự thực. Ban đầu chúng tôi quyết định
ra tuyên cáo khẩn về vụ Hải Hồng để lấy tối đa chữ ký hậu thuẫn. Nhưng
tôi thúc đẩy các bạn phải tiến xa hơn vụ Hải Hồng, bởi vì Hải Hồng không
là sự cố riêng biệt nhất thời. Đang có hàng nghìn trường hợp như thế
trên Biển Đông, và người Vượt biển lâm nạn mỗi ngày. Lúc ấy, nhà văn
Bernard-Henri Levy đề nghị làm cuộc biểu tình lớn tấn công Toà Đại sứ
Việt Cộng tại Paris. Chợt một ý kiến bật ra - tại sao không đưa tàu ra
Biển Đông vớt Người Vượt Biển? Thế là một Uỷ ban thành lập ngay, cử nhà
văn nữ Claudie Broyelle làm chủ tịch, dự án “Một Chiếc Tàu Cho Việt Nam” nổi lên trên mặt nước nhân tình.
Ngày 17 tháng 11 năm ấy, 1978, chúng gửi đi lời kêu gọi đến các cơ quan báo chí truyền thông:
SOS - Một Chiếc Tàu Cho Việt Nam
2564 người tị nạn trên con tàu Hài Hồng. Họ vừa rời khỏi Việt Nam
trước bao hiểm nguy tính mạng. Chúng ta phải giúp đỡ họ tìm đất sống
tiếp đón. Phải tức khắc cứu họ ra khỏi cảnh lênh đênh trôi nổi. Chính
phủ Pháp vừa tuyên bố đón tiếp họ, ta hãy tin lời đó đi. Và hãy cùng
nhau tới Kuala-Lumpur đón những nạn nhân trên tàu Hài Hồng. Tuy nhiên,
không riêng gì nước Pháp phải lo chuyện này. Và con tàu Hải Hồng không
là con tàu độc nhất.
Mỗi lần có những chuyến vượt biển chênh vênh trên bão táp giữa Thái
Bình dương, hàng nghìn người Việt Nam đang đi tìm lẽ sống. Một nửa bị
chết chìm, bị cưỡng bức, bị bọn hải tặc cướp giết... Chúng ta hãy tìm
cho ra những quốc gia đón tiếp họ tại Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Á. Và hãy
làm hơn nữa: Hãy tới tận nơi cứu sống họ. Một chiếc tàu thường trực hoạt
động trên Biển Đông để tìm và vớt họ - những người Việt Nam hy sinh
thân mạng rời nước ra đi.
Không riêng gì các chính quyền phải lo lắng, dù nhiều nước đã tích
cực cứu trợ. Đây là trách vụ mà chúng ta phải lo toan cứu cấp tức thì.
Nhu cầu cấp thiết: Một chiếc tàu, một đoàn thuỷ thủ và tiền bạc. Đó
chính là chiếc phao cứu mạng, mẩu đất nương tựa phò nguy. Để sau đó đưa
tới các xứ sở tiếp thu.
Chúng tôi ký tên dưới đây ngày hôm nay, xin đem thân quy hợp những cơ
hội và phương tiện cần thiết để thể hiện cuộc cứu sống cấp kỳ này.
Paris, ngày 17 tháng 11 năm 1978
Vào lúc Uỷ ban “Một Chiếc Tàu Cho Việt Nam” chính thức ra đời
ngày 27 tháng 11 năm 1978, chúng tôi thu nhận được 160 chữ ký của các
nhân vật nổi danh hậu thuẫn chiến dịch. Danh sách bao gồm các siêu sao
điện ảnh, nghệ sĩ, nhà văn, nhạc sĩ, nhà báo, nhà hoạt động công đoàn,
và chính giới đủ mọi khuynh hướng - đọc lên như cẩm nang Who’s Who
các nhà văn hoá Paris: Yves Montand, Brigitte Bardot, Simone Signoret,
Simone de Beauvoir, Mstislav Rostropovich, Eugene Ionesco, Lionel
Jospin, Michel Rocard, Jean Lacouture (nhà văn viết tiểu sử Hồ Chí
Minh), Michel Foucault, Claude Mauriac, Olivier Todd, Jean François
Revel, Bernard Kouchner…
Lần đầu tiên, kể từ năm 1945, hai triết gia đại thụ của Pháp, nhưng thù
nghịch không đội trời chung, người phóng khoáng Raymond Aron và
Jean-Paul Sartre, có thời biện hộ cho Staline - gặp nhau nơi lời kêu gọi
cứu sống những nạn dân của chế độ độc tài toàn trị Hà Nội. Vài tháng
sau, trong cuộc họp báo do Uỷ ban Con Tàu tổ chức, hai người ngồi cạnh
bên nhau - lần đầu tiên trên ba mươi năm trời họ mới cùng nhau ngồi
chung trong một căn phòng ở Paris. Sartre, kẻ địch thủ cuồng hung chống
Mỹ can thiệp vào Việt Nam, và hậu thuẫn cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng
Miền Nam do Cộng sản giật dây, đã tuyên bố rằng vì “nghĩa vụ đạo đức” và
“nhân quyền cấp bách phải cứu sống những con người lâm nạn”, dù rằng họ
không bạn hữu với chúng ta. Lời tuyên bố của Sartre mang tác động khổng
lồ. Với tiếng tăm uy tín của Sartre, người dám từ khước Giải Nobel Văn
chương, được làm thước đo cho một lời phát biểu thời thượng trong giới
tả khuynh Paris thời bấy giờ: “Thà sai lầm với Sartre còn hơn là có lý với Aron”. Thế là “Con Tàu Cho Việt Nam” mớm cho mọi người chuyện khả thể, là chúng ta đều có lý với cả hai người.
Mối khẩn nguy hiện hình trong thực tế. Lúc chúng tôi họp nhau vào tháng
11 năm 1978, mỗi giờ có 55 người vượt biển cập bờ biển Mã Lai, số lượng
này ngày càng tăng. Theo Cao uỷ Tị nạn LHQ, đã có một triệu rưởi người
Vượt Biển rời Việt Nam thời gian ấy, nhưng một nửa chết trên đại dương.
Các trại tiếp cư ở Mã Lai, Phi Luật Tân, Nam Dương, và Hồng Kông đầy ắp
như muốn vỡ ra. Bỗng nhiên, ông Phó Tổng thống Mã Lai, Mahatir Mohamad,
tuyên bố không chấp nhận người Vượt biển, và xuống lệnh đuổi bảy mươi
sáu nghìn thuyền nhân ra biển. Một sắc luật ban hành cho phép bắn vào
bất cứ ai quay lại vào bờ. Những ai tự phá huỷ thuyền của mình trong
niềm tuyệt vọng mong được tị nạn đều bị lâm lụy.
Chống lại bối cảnh ấy, chúng tôi quyết gia tăng nỗ lực đưa con tàu đi
vớt bằng bất cứ giá nào. Hồi đó Olivier Todd làm Chủ bút tuần báo
Express, đã ráo riết vận động giới truyền thông. Hầu hết các báo chí lớn
của Pháp đều cho đăng miễn phí lời kêu gọi của chúng tôi, kể cả tuần
báo bình dân Télé 7 Jours, có số lượng phát hành bảy triệu bản mỗi tuần.
Tiền đóng góp bắt đầu gửi tới, cùng với những hứa hẹn cho nhà ở, công
ăn việc làm, áo quần, thực phẩm, đủ thứ không thiếu thứ nào. Mổi buổi
sáng toà soạn Quê Mẹ ở Gennevilliers, ngoại ô bắc Paris, nhận được năm
trăm bức thư hậu thuẫn như thế.
Do thị xã Gennevilliers nằm dưới sự cai quản của đảng Cộng sản Pháp,
trong vòng “đai đỏ” bao quanh thành phố Paris, ông thị trưởng không mấy
vui có một cơ sở như chúng tôi, nên nhiều lần hăm doạ tống xuất cơ sở
Quê Mẹ khỏi thị xã. Song với tình thế lúc bấy giờ, ông ta đành cúi đầu
trước sự liên đới hậu thuẫn lời kêu gọi vang ra rộng rãi của chúng tôi.
Phải nói một trong những người đầu tiên ủng hộ chiến dịch của chúng tôi
là Irving Brown, Trưởng phòng Châu âu của Công đoàn Hoa Kỳ AFL-CIO.
Chúng tôi tiếp xúc ông một năm trước đó, 1977, khi chúng tôi tổ chức
cuộc họp báo quốc tế đầu tiên tại Paris để công bố hệ thống tù cải tạo
tại Việt Nam với bản Chúc thư đầu tay của các tù nhân chính trị Việt Nam
do Đoàn Văn Toại, một trong những lãnh tụ sinh viên đấu tranh, vừa
thoát khỏi Việt Nam mang tới. Đó đã là lần đầu tiên tiếng nói của giới
tù nhân chống kháng thuộc miền Nam cũ tố cáo những ghê tởm độc địa của
hệ thống trại cải tạo. Brown thấy ngay ý nghĩa của bản Chúc thư, và tức
khắc ra tay giúp đỡ.
Không những ký tên hậu thuẫn chúng tôi, ông còn lấy thêm chữ ký của Chủ
tịch Công đoàn AFL-CIO, George Meany, và Paul Hall, Chủ tịch Liên đoàn
Thuỷ thủ Hoa Kỳ, đang có mặt tại Paris. Trước đây tôi chưa hề quen biết
giới thuỷ thủ, nhưng Hall ứng vào mắt tôi hình ảnh một thuỷ thủ lão
luyện. Mái tóc bạc, cử chỉ nghiêm nghị, cứng rắn, chắc hẳn ông phải ở
cấp chỉ huy. Trong mắt ông, chúng tôi là bọn tài tử. Ông ngắt lời tôi
với vẻ khó chịu: “Các anh nói tàu - ship, chứ đâu phải thuyền - boat,
phải không”. Nhưng rồi ông cũng chào đón mục tiêu chúng tôi nhắm. Sau
buổi nói chuyện, tôi mừng rỡ gọi điện cho các bạn trong Uỷ ban Con Tàu
thông báo tin bất ngờ: “Chúng ta chưa thể có một con tàu, nhưng Công
đoàn AFL-CIO hứa giúp chúng ta một thuỷ thủ đoàn điều hành tàu không lấy
lương”.
Irving Brown đề nghị phát huy chiến dịch bằng một cuộc họp báo quốc tế
tại Paris về phong trào Người Vượt Biển. Nhấc vài cú điện thoại, Brown
đã nhận được lời hứa của những nhân vật đầy biểu tượng như Leo Cherne[9], Chủ tịch Uỷ ban Cứu trợ Quốc tế, và nhà hoạt động dân sự Bayard Rustin[10]
tham gia họp báo. Tiếc thay cuộc họp báo chẳng bao giờ xẩy ra. Nguyên
do vì có tranh chấp ý kiến trong nội bộ Uỷ ban. Bernard Kouchner và vài
người không ưa Công đoàn AFL-CIO nhúng tay, e ngại sự dấn thân mạnh mẽ
chống Cộng làm dao động phong trào. Nhóm người này nại cớ “Con Tàu Cho Việt Nam” phải thuần tuý phi chính trị.
Không thể là một con tàu cứu người khỏi chế độ Cộng sản, mà là “chiếc
xe cứu thương” trên biển, một thứ bệnh viện nổi bỏ neo bồng bềnh trên
mép biển Đông Nam Á. Với chúng tôi, hay những bạn như Alain Geismar, thì
vị trí chính trị là chính yếu. Người Vượt Biển hy sinh thân xác mang
lại thông điệp cho thế giới về bản chất chế độ Cộng sản. Nghĩa vụ của
chúng tôi không những phải cứu họ, mà còn phải vọng âm tiếng nói họ. Mãi
lâu sau, bị công luận tác động, Kouchner mới chịu thay đổi quan điểm.
Nhưng Irving Brown nhận thức ra sự bất hoà nên bỏ dự tính ban đầu.
Mặc dù tiền được gửi tới, chúng tôi phải chi trả hai mươi nghìn quan
Pháp (khoảng hai nghìn Mỹ kim) mỗi ngày cho việc ăn uống và cung cấp y
tế, nhưng ngân qũy chưa đủ cho Con Tàu lên đường. Đang cơn bối rối, một
sự kiện làm đảo lộn hoàn cảnh. Đài Truyền hình Hoà Lan đến toà soạn Quê
Mẹ xin phỏng vấn tôi. Ông ký giả thuộc đảng Xã hội, tâm tư ông giống như
đa số người Hoà Lan ủng hộ cho phong trào Hoà bình trong cuộc chiến
Việt Nam. Tôi đang giải thích chiến dịch cứu Người Vượt Biển, thì đột
nhiên ông ta hỏi: “Vì sao ông cứu những người miền Nam này? Bọn này
nối giáo cho chế độ quân phiệt tham nhũng, chúng là bọn ma cô, đầu cơ
trục lợi, rất đáng để cho chúng lâm nạn ngày nay. Vì sao ông - vì sao
chúng tôi, phải cứu giúp họ?”. Tôi nhẹ nhàng đáp: “Nếu ông đang
đi cạnh những con lạch ở thành phố Amsterdam và thấy có người đang chết
chìm trong nước, phản ứng ông lúc ấy ra sao? Ông ngừng lại và lên tiếng
hỏi “Người chết chìm kia khuynh tả hay khuynh hữu?” - hay ông nhảy ngay
xuống nước cứu người ấy?”.
Cuộc phỏng vấn trước lễ Giáng Sinh năm 1978, đem về chiếu tại Hoà Lan
mấy lần. Chỉ trong một tuần lễ nhân dân Hoà Lan gửi tặng 8 triệu quan
Pháp (tương đương một triệu Mỹ kim thời ấy) đáp ứng lời kêu gọi của
chúng tôi (tôi nhớ mãi khi Truyền hình Hoà Lan gọi sang thông báo, tôi
đã bàng hoảng hỏi “Mấy con zeros sau số 8?”). Một sự tăng cường tài
chính khích lệ tuyệt vời, đưa chiến dịch vào quỹ đạo quốc tế. (Vào thời
điểm chúng tôi đưa tàu ra biển, có thêm hàng chục tàu khác cứu trợ trên
Biển Đông do những uỷ ban nối gót ra đời tại Na Uy, Đức, Ý Đại Lợi, vân
vân).
Tiền có đó, nhưng vấn nạn khôn giải khác hiện ra - kiếm không ra tàu cho
thuê. Chúng tôi cần thuê loại tàu cắm cờ Pháp để đoan chắc có thể cứu
người Vượt biển nhập cảnh Pháp. Tất cả tàu cho thuê ở Pháp nằm dưới sự
bảo trợ tập trung của một Công đoàn. Bất hạnh cho chúng tôi, Công đoàn
này nằm trong tay Đảng Cộng sản Pháp, Confédération Générale du Travail (CGT,
Tổng Liên đoàn Lao động). Thời gian ấy Đảng Cộng sản rất mạnh - một
phần tư cử tri Pháp bỏ phiếu cho phe Cộng sản tại Pháp, và Tổng Liên
đoàn Lao động rất thế lực, một thứ quốc gia trong quốc gia, có khả năng
đình công làm tê liệt toàn quốc trong chớp nhoáng. Khi Tổng Liên đoàn
Lao động biết rằng chúng tôi thuê tàu đi vớt Người Vượt Biển Việt Nam,
họ liền phá bĩnh các nỗ lực điều đình thuê mướn. Tuần này sang tuần khác
kéo lê, chiến dịch trên báo chí Pháp khựng lại. Tuần báo cực hữu Minute chạy hàng tít lớn “Con Tàu Ma”, nhật báo Cộng sản Pháp L’Humanité (Nhân loại) tung những bài mạ lỵ chiến dịch con tàu.
Bỗng nhiên từ trời xanh hiện ra sự cứu thoát. Nửa khuya tiếng điện thoại
của một nữ độc giả tạp chí Quê Mẹ gọi tôi từ Nouméa, thủ phủ xứ New
Caledonia, quần đảo nằm trên Thái bình dương giữa Úc châu và Fiji. Chồng
bà là người Pháp, có con tàu dài tám mươi lăm thước cho thuê. Tàu
thượng cờ Pháp. Bà kể cho chồng nghe chuyện Việt Nam, các trại cải tạo,
những khổ đau nguy biến của người vượt biển đi tìm tự do. Ông liền đồng
tình giúp đỡ. Chiếc tàu mang tên kỳ diệu - Île de Lumière - Đảo Ánh sáng. Dường như định mệnh đặt để. Chiếc tàu như hòn đảo ánh sáng nổi trên đại dương đi vào vũng tối tuyệt vọng của Người Vượt biển.
Tàu Đảo Ánh Sáng nhổ neo vào tháng Tư năm 1979 với đoàn thiện nguyện gồm
những y sĩ và y tá. Tàu vào đảo Pulau Bidong ở Mã Lai cung cấp thuốc
men và chữa bệnh cho khoảng ba mươi sáu nghìn thuyền nhân sống chen chúc
trên dải đất chỉ có thể chứa hai nghìn người. Tháng sáu năm ấy, chính
quyền Mã Lai xuống lệnh đuổi người vượt biển ra khơi, Đảo Ánh Sáng ra
khơi vớt người, cứu sống hàng nghìn kẻ lâm nạn. Chúng tôi được chính phủ
Pháp hứa cho nhập cư vào Pháp tị nạn tất cả những ai được tàu vớt.
Những tháng tiếp đấy, lượng người vượt biển đến trời Âu kể lại thảm cảnh
họ cho báo chí truyền thông Âu Mỹ. Lời kể xoá nhoà hình ảnh và thành
kiến gán lên họ như những tướng tá, chính trị gia tham nhũng hay tội
phạm chiến tranh: những kẻ đã rời nước trước khi Saigon thất thủ, ra đi
với hai túi đầy vàng. Không. Họ là những dân thường, mà thảm nạn rơi lên
đầu họ qua từng câu chuyện làm mủi lòng dân Pháp. Các thầy giáo nói lên
nỗi lăng nhục phải đi bán hủ tiếu cho con cái cán bộ giàu sang để nuôi
thân. Tăng sĩ Phật giáo, Linh mục Thiên chúa giáo, Tin Lành, chức sắc
hay tín đồ Hoà Hào, Cao Đài bị bắt tù vì thực hành tín ngưỡng đạo mình.
Những bà vợ của tù nhân cải tạo bươn chãi nuôi con trong khốn cùng, chắt
chiu những món quà nhỏ đi thăm nuôi chồng. Nỗi khốn cùng của những nhà
văn bị đóng vai kiểm duyệt nơi văn phòng, chụp mũ “tác giả phản động
quốc tế” cho những nhà văn như Pearl S. Buck hay Victor Hugo, hoặc bị
bắt giam vì trích dẫn những tác giả kia trong tác phẩm mình.
Cảnh trạng các trại cải tạo vô cùng khủng khiếp. Những ai cứng đầu “học
tập” không chuyên sẽ bị biệt giam trong thùng sắt, hay “connex”, ban
ngày nóng như lò lửa, đêm về lạnh thấu xương, cốt cho họ phải thú khai
tội lỗi mình không phạm. Tất cả tù cải tạo đều bị đói, lằn ranh giữa
sống còn và chết đói mảnh như tơ. “Những chi động đậy đều chứa protein”, họ nói như thế và tranh nhau một con gián, con nhện, con chuột nhắt...
Các chuyện kể thương tâm như thế tác động công luận mà ít bài diễn văn
chính trị nào đạt tới. Chính Người Vượt Biển đã thay đổi lối suy nghĩ
của giới tả khuynh Châu Âu, và phá vỡ xung lượng của các đảng Cộng sản
Pháp, Ý, cùng các nước Châu Âu khác. (Riêng tại Pháp, cử tri bầu cho
Đảng Công sản rơi từ 25% xuống còn 6, 7% thôi),
Chiến dịch “Một Chiếc Tàu Cho Việt Nam” là cuộc mạo hiểm kỳ dị
cho tất cả chúng tôi. Có chăng trong tôi là một điều tiếc nuối.
Jean-Paul Sartre đề nghị làm một cuộc hội thoại. Ông đã tỏ ra khó khăn
phải dẹp bỏ tình cảm ủng hộ cách mạng, và vô cùng bối rối đối với chế độ
ở Hà Nội, mà ông đánh giá cao cuộc chiến đấu anh dũng cho nền độc lập,
nay bỗng trở thành những tên đao phủ cho nhân dân họ. Vì sao như thế? Là
Phật tử, tôi từng bị bắt, bị tra tấn năm mười một tuổi vì tham gia cuộc
kháng chiến chống Pháp, tôi đã quá biết rõ về Cộng sản Việt Nam trước
khi tôi rời nước ra đi để vận động cho một giải pháp thứ ba
không-cộng-sản trong thời chiến tranh Việt Nam, cuối cùng phải lưu vong ở
Paris.
Thực tình tôi muốn được thảo luận về vấn nạn cộng sản và “cách mạng” với
con người khác thường này. Buồn thay, Sartre đến tham dự cuộc họp báo
của chúng tôi năm 1979 là lần ông xuất hiện cuối cùng trước công chúng.
Ông gần như mù hẳn, và qua đời ngày 15.4.1980 vì chứng phù phổi.
04.2014
___________________________________
[1]
Như trường hợp xẩy ra rất sớm cho thi hào Vũ Hoàng Chương, và trường
hợp Nhà văn Hồ Hữu Tường bị bệnh ở trại Hàm Tân, sắp chết thì được cho
đưa về nhà. Nhưng chỉ còn khoảng 100 mét quanh qua góc đường Trần Quang
Khải là đến nhà, thì Hồ Hữu Tường tắt thở trên xe.
[2] Lời tuyên bố với báo chí của Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch năm 1985 nhân 10 năm chiến thắng (chiếm Saigon).
[3]
Xem Repression in the Socialist Republic of Vietnam: Executions and
Population Relocation, by Jacqueline Desbarats, The Vietnam debate
edited by John Norton Moore, 1990 and "Vietnam 1975-1982: The Cruel
Peace", Desbarats and Jackson, 8 Wash. Q. 4 (Fall 1985). Cơ sở Quê Mẹ đã
cộng tác với bà Jacquelines Debarats và nhóm nghiên cứu tại Đại học
Berkeley, Hoa Kỳ, về số liệu điều tra tù nhân Trại Cải tạo thời ấy.
[4]
Trên báo Saigon Giải phóng ngày 2.6.1975 ông Lê Đức Thọ viết rằng:
“Chúng ta phải đưa chế độ cũ vào hồ sơ. Chúng ta không thể xoá đi món nợ
máu đối với đế quốc Mỹ và bọn tay sai. Nhân dân ta phải vạch trần và
xác định những tội ác của chế độ cũ, để càng thấy rõ xấu xa của chúng,
ta càng quyết tâm… quét sạch những tàn dư [chế độ cũ] để xây dựng đời
sống mới tốt đẹp. Chúng ta phải tiếp tục chiến đấu chống bọn thù địch
trong thành phố, đồng thời xây dựng đời sống tốt đẹp”.
[5]
André Glucksmann xúc động vụ tàu Hải Hồng, vì gia đình người Do Thái
của anh sống sót sau vụ Đức Quốc xã tàn sát dân Do Thái, được tàu SS
Exodus chở đi năm 1947, nhưng đã bị các quốc gia từ khước, nên cuối cùng
bị đưa về Đức để chấm dứt sinh mạng trong các trại tập trưng.
[6]
Khi Hồng quân Xô viết đưa quân xâm lược Tiệp Khắc năm 1968, ngày
25.8.1068 chị Natalya Gorbanevskaya đẩy chiếc nôi con mới sinh 3 tháng
cùng với bốn người bạn biểu tình phản đối trên Công trường Đỏ mênh mông ở
Mạc Tư Khoa.
[7]
Nhà toán học ly khai nổi danh xứ Ukraine nhờ áp lực của công luận quốc
tế đã được cứu thoát khỏi Nhà thương điên Xô Viết đưa sang Pháp. Năm
1981, khi Nhà in Quê Mẹ bị phá sản do vận động cho con tàu Đảo Ánh Sáng
ra khơi vớt người vượt biển, và bị ba bên bốn bề đánh phá, Plyush kêu
gọi các bạn ly khai Liên Xô và Đông Âu thành lập “Hội Những Người Bạn
Của Quê Mẹ” để cứu sống Cơ sở đấu tranh Quê Mẹ, đăng lòi kêu gọi trên
báo chí Pháp và tthe New York Review of Books (xem sách “Nguoi Tri Thức
Hành Động và Dẫn đường” của Võ Văn Ái, NXB Quê Mẹ, Paris 2010, trang
279).
[8]
Vladimir Boukovsky nhà văn ly khai Liên Xô nổi danh, nhờ áp lực của
công luận thế giới được trả tự do năm 1976 trao đổi với một tù nhân
chính trị Chili, sau 12 năm giam trong nhà tù và nhà thương điên. Hiện
là Giáo sư Đại học Cambridge Anh quốc.
[9]
Leo Cherne nhà nhân bản lớn, Chủ tịch Uỷ ban Cứu Cấp Quốc tế thành lập
để cứu sống những nạn nhân Đức Quốc Xã ở Châu Âu. Sau này, Uỷ ban cứu
cấp và giúp đỡ định cư cho những người tị nạn trong thế giới. Ông đã cứu
giúp đông đảo các nạn nhân tại Cuba và Cam Bốt.
[10]
Bayard Rustin, người Mỹ da màu, lãnh đạo phong trào dân sự Hoa Kỳ, và
là người tổ chức cuộc biểu tình khổng lồ “Tiến về Hoa Thịnh Đốn” năm
1963 nơi Mục sư Martin Luther King thốt bài diễn văn nổi tiếng “Tôi có
một giấc mơ - I have a dream”. Ông cũng không ngừng lên tiếng ủng hộ
Việt Nam trong thời chiến.
*
Các bài liên hệ:
- Bài 1: “Người trí thức Hoa Kỳ và Tù ngục Việt Nam” Eugène Ionesco, Kịch tác gia Hàn Lâm viện Pháp
Bài 2: “Tự do của bạn là tự do của chúng tôi”, Nữ thi sĩ Nga Natalya Gorbanevskaya
Bài 3: “Chúng tôi… những Kẻ Đau Xương”, nhà văn Lỗ Mã Ni Paul Goma
Bài 4: “Đập vỡ những hình thái nô lệ mới”, nhà văn Pháp Pierre Daix
0 comments:
Post a Comment