Tuesday, August 7, 2012

Bát quái trận và cuộc chiến trên Biển Đông hôm nay

Bát quái
Bát quái theo ngôn ngữ cổ có nghĩa là hình tám cạnh treo cao.
Từ trước đến nay, bát quái thường cho ta liên tưởng: Bát quái là sản phẩm văn hóa của Trung Quốc và được liệt vào chủng loại văn hóa thần bí Trung Hoa.
Những văn hóa thần bí này chứa đựng bao nhiêu điều bí ẩn, nhưng không có gì bí ẩn hơn bát quái.
Vậy bí ẩn ở loại văn hóa này là những gì?
Để gạn đục, khơi trong, ta hãy loại bỏ đi các mầu sắc mê tín, những dị đoan tà thuyết, những ẩn sĩ tiên nhân, những thiên nhân cảm ứng, những đạo sĩ luyện đơn,…thì sẽ còn trơ lại nội dung chính, logic chính của loại văn hóa này.
Sau khi có được nội dung chính, ý tưởng chính mà trên đó, bát quái ra đời, ta hiểu được rõ ràng tại sao bát quái trở thành bí ẩn trong văn học Trung Quốc.
Đây là sự rời rạc, không logic, chắp vá, cứ dường như người Trung Quốc không hiểu được bát quái là gì.
Do sự bất hiểu của mình, họ tô vẽ tính thần bí cho bát quái.
Bát quái trở thành một môn bí thuật, chỉ dành riêng cho những người được lụa chọn, những cao nhân, những ẩn sĩ, mà hình như không có gì kiểm chứng về kiến thức của họ về bát quái.
Một thí dụ đơn giản, về nhận định trên, là trường hợp trận đồ bát quái của Khổng Minh.
Tuy Khổng Minh không phải là ẩn sĩ trong rừng thẳm, núi cao mà là thừa tướng của nước Thục, nhưng trận đồ bát quái, mà Tam quốc của La Quán Trung mô tả tại hồi 84, được gán cho 2 chữ : Thất truyền.
Gần đây, 1 công trình tiên phong, năm 2006, của Trần Quang Bình đăng tại http://vietsciences.free.fr/vietnam/vanhoa/kinhdich/loinoidau.htm.
Nội dung của công trình này cho ta 1 gợi ý rất rõ ràng, đồng thời có nhiều chứng minh: Bát quái là sản phẩm của Việt Nam.
Hôm nay, trên kinh nghiệm mà nhà Minh chiếm đoạt “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” của Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo, trên kinh nghiệm mà Trung Quốc đang xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam, với sự bịa đặt thô bỉ các bằng chứng lịch sử, ta có thể sơ bộ kết luận rằng : Nếu ngày mai, Việt Nam không đòi ngay lại Hoàng Sa, Trường Sa thì dăm chục năm sau, vài trăm năm sau, người Trung Quốc sẽ biến 2 quần đảo này là của Trung Quốc với các câu chuyện huyền thoại về nó có từ hơn 2000 năm về trước.
Tôi, ở đây, thêm vào 1 gợi ý để lý giải tính thần bí của các môn học thuật mà người trung quốc thích tự nhận vơ là do họ sáng tạo ra.
Lịch sử của TQ là lịch sử chinh phạt, cướp bóc các lãnh thổ của các bộ lạc nằm ngoài biên giới TQ cổ.
Ngoài việc cướp bóc lãnh thổ, người trung hoa cổ đại còn biết cướp cả văn hóa của các dân tộc bị chinh phục.

Họ không những du nhập văn hóa đặc sắc của các dân tộc bị chinh phục, mà họ còn cướp bóc, mà còn biến các nền văn hóa ấy trở thành của riêng mình.
Đầu tiên là họ cưỡng chiếm, thu về TQ tất cả những gì liên quan đến đặc sắc dân tộc như các văn tự cổ, các phát kiến văn hóa cổ như chữ viết, các cách bói toán, gieo quẻ, các kinh nghiệm dân gian dự đoán về thời tiết…
Thứ đến là họ xóa sạch mọi dấu vết của đặc sắc vắc văn hóa ấy, tại chính dân tộc vừa bị chinh phục.
Cuối cùng thì đội ngũ trí thức TQ vào cuộc, và biến các đặc sắc văn hóa này trở thành của Trung Quốc.
Thế nhưng cái sự học vẹt, cái sự không hiểu thấu đáo của người Trung Quốc đã lòi đuôi ra, khi họ không hiểu hết bản chất, nguồn gốc của những đặc sắc văn hóa ấy.
Thế cho nên, họ không thể gắn những hiểu biết của họ vào được trong 1 logic.
Điều này đã được Trần Quang Bình phát hiện và tiên phong nghiên cứu.
1. Bát quái trận đồ trong văn học Trung Quốc.
Bát quái trận đồ nổi tiếng nhất là bát quái trận đồ của Khổng Minh.
Trận đồ này còn gọi là bát quái trận thạch, do Khổng Minh sai quân lính đắp đá thành 8, 9 đống đá cao mà thành thế trận. /xem Tam Quốc diễn nghĩa.La Quán Trung, hồi 84/.
Đại tướng quân Đông Ngô Lục Tốn, khi đuổi Lưu Bị đến gần thành Bạch Đế, gặp phải bát quái trận thạch này mà sợ hãi lui quân.
Nhà thơ Đỗ Phủ có thơ khen Khổng Minh rằng:
“Công trùm lên Tam Quốc,
Danh nổi bát trận đồ.”

Gần đây, bát quái trận còn được nổi tiếng thêm, bởi nhà văn chuyên viết thể loại kiếm hiệp Kim Dung.
Trong cặp chuyện kiếm hiệp “Anh hùng xạ điêu” -”Thần điêu đại hiệp”, bát quái trận đồ nằm ở tình tiết: Lão đảo chủ đảo Đào hoa Đông tà, Hoàng Dược Sư, đã giam Lão ngoan Đồng Châu Bá Thông gần 10 năm trong vườn hoa, bằng trận đồ bát quái, mà những cây hoa đào lập nên trận đồ bát quái.
2. Bát quái trận đồ và Quốc công tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
Người anh hùng lỗi lạc của lịch sử VN, 3 lần lãnh đạo quân đội nhà Trần đánh bại các tướng lừng danh của đế quốc Nguyên-Mông, Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo, là 1 người rất giỏi về trận pháp.
Điều này ta có thể suy đoán được. Lịch sử ghi nhận rằng, khi Người viết xong cuốn “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” và khi ban hành, chính Đại vương Trần Hưng Đạo căn dặn:
“Sau này, con cháu và bồi thần của ta, ai học được bí thuật này phải sáng suốt mà thi hành, bày xếp thế trận; không được ngu dốt mà trao chữ truyền lời. Nếu không thế thì mình chịu tai ương mà vạ lây đến con cháu. Thế gọi là tiết lộ thiên cơ đó.’/Đại Việt sử ký toàn thư/
Vạn Kiếp tông bí truyền thư cùng với Hịch tướng sĩ và Binh thư yếu lược là những tác phẩm binh pháp của Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo viết ra, truyền cho đời sau.
Tiếc thay, đến nay, binh pháp Vạn Kiếp tông bí truyền thư đã bị thất truyền.
Tinh hoa quân sự của dân tộc Việt Nam, do vị tướng tài vô địch Trần Hưng Đạo tổng kết đã bị giặc nhà Minh cướp hết các quyển sách đã xuất bản và mang về Trung Quốc.
Nhờ có đoạn mở đầu của Vạn Kiếp tông bí truyền thư do Đại tướng quân, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư viết, lưu lại trong Đại Việt Sử ký toàn thư, mà hôm nay, ta biết: đây là một tác phẩm của Trần Hưng Đạo về nghệ thuật quân sự, có lẽ chủ yếu là bày binh bố trận, nhưng đến nay đã bị thất lạc. Ông sưu tập binh pháp các nhà, làm thành bát quái cửu cung đồ, và đặt tên tác phẩm như vậy./Wikipedia- Vạn Kiếp Tông bí truyền thư/.
Người giỏi cầm quân thì không cần bày trận, người giỏi bày trận thì không cần phải đánh, người giỏi đánh thì không thua, người khéo thua thì không chết.
Ngày xưa Cao Dao làm sĩ sư mà không ai dám trái mệnh, đến Vũ Vương, Thành Vương nhà Chu làm tướng cho Văn Vương, Vũ Vương, ngầm lo sửa đức, để lật đổ nhà Thương mà dấy nên vương nghiệp, thế là người giỏi cầm quân thì không cần phải bày trận vậy. Vua Thuấn múa mộc và múa lông trĩ mà họ Hữu Miêu đến chầu, Tôn Vũ nước Ngô đem ngươi đẹp trong cung thử tập trận mà phía tây phá nước Sở mạnh, phía bắc uy hiếp nước Tấn, nước Tần, nổi tiếng chư hầu, thế là người khéo bày trận không cần phải đánh vậy. Đến Mã Ngập nước Tấn theo bát trận đồ, đánh vận động hàng ngàn dặm, phá được Thụ Cơ Năng để thu phục Lương Châu. Thế gọi là người đánh giỏi không bao giờ thua vậy.
Cho nên trận nghĩa là “trần”, là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa, Hoàng Đế lập phép tỉnh điền để đặt binh chế. Gia Cát xếp đá sông làm bát trận đồ, Vệ Công sửa lại làm thành Lục hoa trận. Hoàn Ôn lập ra Xà thế trận có vẽ các thế trận hay, trình bày thứ tự, rõ ràng, trở thành khuôn phép. Nhưng người đương thời ít ai hiểu được, thấy muôn đầu ngàn mối, cho là rối rắm, chưa từng biến đổi. Như Lý Thuyên có soạn những điều suy diễn của mình, những người đời sau cũng không hiểu ý nghĩa. Cho nên Quốc công ta[2] mới hiệu đính, biên tập đồ pháp của các nhà, soạn thành một sách, tuy ghi cả những việc nhỏ nhặt, nhưng người dùng thì nên bỏ bớt chỗ rườm rà, tóm lược lấy chất thực.
Sách gồm đủ ngũ hành tương ứng, cửu cung suy nhau, phối hợp cương nhu, tuần hoàn chẵn lẻ. Không lẫn lộn âm với dương, thần với sát, phương với lợi, sao lành, hung thần, ác tướng, tam cát, ngũ hung, đều rất rõ ràng, ngang với Tam Đại, trăm đánh trăm thắng. Cho nên, đương thời có thể phía bắc trấn ngự Hung Nô, phía nam uy hiếp Lâm Ấp.”/Trần Khánh Dư/
3. Trận thế là gì?
Quân đội dùng để đánh nhau.
Ngày xưa vũ khí chủ yếu là gươm, giáo.
Khi hai bên lâm trận, thường là giao chiến trực tiếp mà hôm nay ta gọi là đánh giáp lá cà. Như vậy trong trường hợp dùng binh như thế này, các yếu tố sau là quyết định trận đánh :
- Quân phải tinh, nghĩa là quân sĩ đã qua huấn luyện, đã thành thục các kỹ năng, hiểu biết và thực hiện lệnh của chỉ huy.
- Sĩ khí: tinh thần binh lính.
- Số lượng quân lính.
- Trang bị vũ khí : gươm phải sắc, mới. Giáo phải nhọn, mới. Áo giáp đầy đủ…
- Thể lực quân sĩ: phải khỏe, đã nghỉ ngơi đủ, không mỏi mệt.

Những yếu tố này thuộc vào phụ thuộc vào người lính.
Người làm tướng giỏi, ngoài nắm thiên văn, địa lý, nhân hòa, còn phải biết điều quân, điều khiển các tướng dưới quyền, thông thạo binh pháp.
Một trong các kỹ năng điều khiển trận chiến là cách bầy và phá các trận thế.
Trận thế, nói đơn giản, là các bố trí 1 nhóm quân sĩ theo 1 mô hình nhất định, khác với bố trí hàng ngũ thông thường. Cách dịch chuyển của những nhóm nhỏ của nhóm này phải tuân thủ ngặt nghèo theo những qui luật đã định của trận pháp.
Thí dụ sau là 1 mô tả đơn giản nhất của điều binh, khiển tướng trong trận pháp đơn giản.
Giả sử có 2 đội quân kình địch nhau, cùng có số lượng quân sĩ là 50 người, và quân sĩ cùng khỏe như nhau.
Đội A đi từ bắc xuống nam theo 1 con hẻm chứa đủ để 10 người lính dàn hàng ngang và có thể tác chiến.
Bất ngờ đội B xuất hiện, hướng hành quân của B là nam lên bắc.
Tướng của B là 1 tướng giỏi, ông ta đã tập luyện cho binh sĩ biết nghe hiệu lệnh trong trận pháp này.
Ta giả sử thêm rằng 1 người lính của cả 2 đội chỉ thua trận khi gặp 1 đối thủ sung sức hơn, khỏe hơn mà thôi.
Nếu tướng của đội quân A không biết trận thế, chỉ cậy khỏe mà đánh tràn đi, thì sẽ thua đội quân B sau vài chục phút.
Ta mô tả trận này như sau: Đầu tiên, 10 người lính của đội A chiến đấu với 10 người lính của đội B.
Lúc này 2 bên tương đương nhau.
Sau 10 phút giao đấu, vị tướng của đội B hạ lệnh 10 người lính đang chiến đấu ở hàng đầu rút xuống và thay vào các vị trí chiến đấu là các binh sĩ thuộc hàng số 2.
Vị tướng đội A do không biết binh pháp, vẫn xua 10 người lính của hàng 1 xông vào trận.
Rõ ràng 10 người lính của B là sung sức do chưa phải chiến đấu. Theo điều kiện cuộc chiến, 10 người lính của đội A thua trận, bị phạt mất đầu.

Tướng của A tức khí, xua 10 người của hàng thứ 2 lên.
Vị tướng đội B lại thay hàng 2 bằng hàng 3.
Từ bây giờ tình huống trở lại như ban đầu: 10 người lính sung sức của đội A chiến đấu với 10 người lính sung sức của đội B.
Nhưng lúc này, đã có 1 sự khác biệt cơ bản: đội A chỉ còn 40 quân sĩ, trong khi đội B vẫn còn nguyên 50 quân sĩ. Các quân sĩ ở hàng 1 bây giờ xuống hàng dưới cùng tranh thủ nghỉ ngơi trước khi lại trở lại vị trí tác chiến.
Ở đội A sĩ khí đã nao núng, do quân số sụt giảm. Đội B thì sĩ khí tăng cao do thành công ban đầu chém được nhiều địch.
Rõ ràng kết quả cuộc chiến đã được định đoạt.
Đội B sẽ thắng, tiêu diệt hoàn toàn đội A.
Như vậy, từ tương quan lực lượng như nhau, do nắm vững thế trận và cách điều binh của trận thế mà đội B thắng.
Thí dụ đơn giản trên cho ta 1 chân lý: Trận thế là 1 bộ phận tri thức quan trọng của binh pháp, người làm tướng không thể không nắm vững tri thức này.
4. Một vài trận Bát quái đơn giản.
Giả sử hôm nay, trên vùng lãnh hải của Việt Nam tại Trường Sa, Biển Đông, có 45 thuyền đánh cá VN đang đánh bắt cá.
Bất ngờ xuất hiện 1 số đông các thuyền đánh cá TQ, không rõ số lượng, có vẻ đông hơn số thuyền VN.
Chiến thuật hôm nay của các thuyền cá VN là thế thủ, bảo toàn lực lượng.
Ta mô tả một số trận đồ bát quái đơn giản, thích hợp cho trường hợp này.
Dẫy số tự nhiên từ 1 đến 9, sắp xếp thứ tự như sau: 1,2,3,4,5,6,7,8,9.
Có tổng 1+2+3+..+9= 45.
Dãy số tự nhiên trên, ta có thể sắp lại theo hình vẽ sau:

|4 | 9 | 2|
|3 | 5 |7 | (4.1)
|8 | 1 |6 | .
Cách xắp xếp theo hàng ngang và hàng dọc thế này, cho ta 1 tính chất đặc biệt:
“Tổng tất cả các số thuộc cùng 1 hàng ngang, hay cùng 1 hàng dọc, hay cùng trên 1 đường chéo đều cho 1 tổng như nhau và bằng 15″.

Dựa trên tính chất này, ta có thể sắp 45 quân thành 1 trận đồ bát quái đơn giản, nhằm thủ thế, giữ vững trân địa, với sức mạnh mọi phương, mọi hướng như nhau và bằng sức mạnh của ít nhất 15 quân.
Các cửa của các số vòng quanh trung tâm/số 5/ được gọi theo các tên đặt là Hưu, Sinh, Thương, Đỗ, Cảnh, Tử, Kinh, Khai.
Như vậy ta đã có 1 cách bố trân bát quái đơn giản.
Nếu coi đây là 1 kiểu sắp quân và đặt ra luật lệ di chuyển là: bao giờ cũng chỉ di chuyển cả hàng hay cả cột không chứa số 5. Nghĩa là số 5 luôn là trung tâm.
Cũng có thể đặt thêm luật lệ là: các quân sĩ đứng im, trung tâm chỉ huy ở số 5. Số lượng 5 quân sĩ của trung tâm có thể di chuyển, bổ xung cho quân lính ở 8 ô số kia.
Cách dich chuyển quân theo hàng:

| 8 | 1 | 6 |
| 3 | 5 | 7 | (4.2)
| 4 | 9 | 2 |
hay theo cột :
| 2 | 9 | 4 |
| 7 | 5 | 3 | (4.3)
| 6 | 1 | 8 |
sẽ cho ta thêm 2 cách bố trận đơn giản khác của bát quấi trận đồ.
Các trân này vẫn đảm bảo đặc tính thế thủ: Tại các hướng, lực lượng phòng thủ vẫn không thay đổi, có tổng bằng 15.
Thêm vào cách điều quân linh động, các nhà quân sự cổ đã nói: thế trận của trận đồ bát quái là linh hoạt, ảo diệu vô cùng, là như vậy.
Cũng như đã mô tả ở trên, số lượng các ô số không trung tâm là 8. Các ô này còn gọi là 8 cửa, có tên là Hưu, Sinh, Thương, Đỗ, Cảnh, Tử, Kinh, Khai.

Thế là ta đã có những trận đồ bát quái đơn giản.
Một tướng giỏi, khi quan sát trận đồ này, phải nhận ra cửa nào là cửa Sinh, cửa Khai, cửa Tủ…
Nếu đánh vào cửa Tử, coi như thất bại.
Nếu vào cửa Khai, thì an toàn tính mệnh.
Nhưng phải tìm được cửa Sinh mà ra thì mới gọi là biết phá trận.
5. Một giải thích cho Hà đồ và Lạc thư.
Lạc thư là xắp xếp các số tự nhiên từ 1 đến 9 theo ma trận (4.1). Ta viết lại:
|4 | 9 | 2|
|3 | 5 | 7|
|8 | 1 |6 | .


Bây giờ, ở vị trí người Lạc Việt cổ đại, ta chọn vị trí khi mặt trời đứng trên đỉnh đầu là vị trí đặc biệt( hôm nay, đây là vị trí của giờ thứ 12 trong ngày).
Nghĩa là, từ số 9, ta có thể chọn các cặp đôi gồm 2 số, sao cho không cặp đôi nào có 2 số tự nhiên liên tiếp.
Ta sẽ thu được các cặp đôi sau: (9,4)-(3.8)-(1,6)-(7,2). Xắp xếp lại các cặp đôi này sao cho số bé đứng trước, số to đứng sau, ta có các căp đôi :(4,9)-(3,8)-(1,6)-(2,7).
Lấy 1 ô làm trung tâm, trong ô này ta viết số 5/10. Tức là: ô này là ô kép, biểu thị bằng số 5 và 10.
Phía trên ô này, ta viết số 1 và đóng nó vào 1 ô vuông.
Trên ô vuông này ta viết số 6 và cũng đóng trong ô vuông.
Phía dưới ô 5/10, ta viết số 2, đóng ô vuông. Dưới ô số 2, ta đóng ô vuông cho số 7.
Phía bên phải ô 5/10, ta đóng ô số 3 và ô số 8.
Phía bên trái ô 5/10, ta lần lượt đóng các ô vuông cho số 4 rồi số 9.
Ta thu được kết quả:
| 6 |
| 1 |
|9|4|5,10|3|8|
| 2 |
| 7 |

Hình đồ trên chính là bố trí các số từ 1 đến 10 nổi tiếng có tên gọi là Hà đồ.
Nó được các nhà “bác học” TQ gắn với 1 truyện hoang đường là năm nọ, năm kia, xuất hiện trâu trắng có các xoáy bố trí như Hà đồ.
Mối liên hệ giữa Hà đồ và Lạc thư trong các sách cổ là không có.
Tác giả Trần Quang Bình trong nghiên cứu mô tả ở mở đầu bài này, cũng không nêu ra mối liên hệ giữa Hà đồ và Lạc thư.
Thậm chí Trần Quang Bình còn cho rằng Hà đồ khó giải thích hơn Lạc thư.
Hôm nay, tôi đã chỉ ra 1 biến đổi đơn giản từ Lạc thư sang Hà đồ.
Như vậy Lạc thư là gốc, biểu diễn các số từ 1 đến 9, còn Hà đồ là 1 biểu diễn các số từ 1 đến 10.
Cho đến hôm nay, ứng dụng của Lạc thư nhiều hơn Hà đồ.
Có phải chăng: Lạc thư là văn thư của dân tộc Lạc Việt. Một nhận biết về qui luật của dãy số từ 1 đến 9.
6. Kết luận.
Cái gì của Cezar sẽ phải trả cho Cezar.
Để khẳng định bát quái có nguồn gốc từ Việt Nam, chắc chắn còn phải có đóng góp của nhiều trí thức Việt Nam hơn nữa.
Thế nhưng cái gì của Việt Nam sẽ phải trả lại cho Việt Nam.
Tri thức là của chung nhân loại.
Ai cũng có thể dùng định lý: “Trong 1 tam giác vuông, tổng bình phương 2 cạnh kề góc vuống bằng bình phương cạnh huyền”.
Nhưng mỗi khi dùng, xin bạn nhắc rõ: đây là định lý Pitago.
Kinh nghiệm trên đây cho ta 1 bài học: Hôm nay, lúc này phải giữ cho được Hoàng Sa, Trường Sa.
Để lâu, Hoàng Sa, Trương Sa sẽ bị TQ đồng hóa.
Bài học Vạn Kiếp tông bí truyền thư sẽ lặp lại, bài học bát quái sẽ lại lặp lại.
Vài chục, vài trăm năm nữa, con cháu VN sẽ phải học lịch sử rằng HS, TS là của TQ, do TQ phát hiện từ thời nhà Hán.
Nắm vững kiến thức số học của bát quái, sẽ giúp ích cho cuộc chiến trên Biển Đông, khi Trung Quốc đang dùng chiến thuật “mộc ngư dân”.
© Nguyễn Nghĩa.

0 comments:

Powered By Blogger