_Lê Duy San.
Cuộc chiến Việt Nam mặc dầu đã được kết thúc
trên ba chục năm nay, nhưng nhiều người vẫn còn tự hỏi: “Quân đội của
chúng ta hùng mạnh như vậy, tinh thần chiến đấu của quân đội chúng ta
anh dũng như vậy, nhiều quân nhân còn xâm chữ “Sát Cộng” vào cánh tay,
còn đồng bào ta thì sợ Việt Cộng như cùi, như hủi, bọn chúng tới đâu là
đồng bào ta bỏ chạy tới đó, vậy mà tại sao chúng ta lại thua Cộng Sản ?”
Đành rằng nguyên nhân gần và trực tiếp là vì
chúng ta bị đồng minh tức Hoa Kỳ bỏ rơi Nhưng còn nguyên nhân sâu xa là
gì ? Tại sao người Mỹ lại bỏ Việt Nam? Đã có rất nhiều chính trị gia,
chiến lược gia, sử gia Việt Nam cũng như ngoại quốc phân tích và đã đưa
ra rất nhiều lý do, chủ quan cũng có, khách quan cũng có, nhưng chưa
thấy tác gỉa nào nói tới lý do đạo đức, luật pháp và vì sự thiếu hiểu
biết của các chính trị gia miền Nam Việt Nam.
1/ Vì đạo đức.
Vì đạo đức, chúng ta không thể bắt chước Cộng
Sản, “thà giết lầm còn hơn tha lầm”. Bắt được những tên Cộng Sản, những
tên Việt Gian, những tên ăn cơm Quốc Gia, thờ ma Cộng Sản, chúng ta vẫn
đối xử nhận đạo. Hẳn chúng ta còn nhớ, vào năm 1955-1956, một phong trào
mang tên là Phong Trào Hòa Bình do các ông Phạm Huy Thông, Lưu Văn
Lang, Trần Kim Quan v.v…thành lập. Đây là một phong trào thiên Cộng
họạt động với mục đích hỗ trợ cho Việt Cộng và đòi Tổng Tuyển Cử theo
Hiệp định Geneve 1954, chính phủ Ngô Đình Diệm cũng chỉ tống xuất một
vài tên qua cầu Hiền Lương ra Bắc.
Đến đầu năm 1965 một phong trào
khác mang tên tương tự là “Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Hòa Bình” do
những tên Việt Gian, ăn cơm Quốc Gia, thờ ma Cộng Sản thành lập như
Thượng Tọa Thích Quảng Liên, Bác Sỉ Thú Y Phạm Văn Huyến, Nhà Báo Phi
Bằng tức Cao Minh Chiến, Giáo Sư Tôn Thất Dương Kỵ, Bác Sĩ Lê Khắc Quyến
v.v. Gần 30 thành viên của phong trào này đã bị bắt giữ, trong đó có
Cao Minh Chiến, Tôn Thất Dương Kỵ và Phạm Văn Huyến. Tướng Nguyễn Chánh
Thi đã đề nghị thả dù bọn này ra bắc vỹ tuyến 17 tức bên kia cầu Hiền
Lương cho Việt Cộng. Nhưng Thủ Tướng Phan Huy Quát cũng chỉ vì lý do
nhân đạo, sợ làm như vậy bọn chúng có thể gẫy chân, què tay vì bọn chúng
đâu biết nhẩy dù, nên đã lấy cớ rằng làm như vậy, quốc tế sẽ chỉ trích,
và chỉ đồng ý giải giao bọn chúng cho Việt Cộng bằng đường bộ qua cầu
Hiền Lương.
Ngày nay, ở hải ngoại cũng vậy. Những người
chống Cộng luôn luôn bị một số người vin vào lý do đạo đức, văn hóa để
chỉ trích người khác. Nếu chống Cộng hăng say qúa thì bị chỉ trích là
qúa khích. Nếu dùng danh từ mạnh mẽ qúa hay bình dân qúa thì bị phê
bình, chỉ trích là ấu trĩ, là thiếu văn hóa, là phản tuyên truyền có khi
còn bị nhục mạ là hạ cấp, là vô học.
Bọn Việt Cộng mở miệng ra nói là thấy tuyền
tuyên truyền giả dối, đối đáp thì ngụy biện, vô học, nếp sống thì tàn
ác, vô đạo đức. Vậy mà chẳng thấy ai nói gì. Trái lại, nếu có ai
vì chống Cộng nói sai một chút, nói qúa lời một câu, mà đâu có phải nói
họ mà chỉ là nói bọn Việt Cộng hoăc bọn Việt Gian Cộng Sản là bị chỉ
trích, bị phê bình liền, có khi còn bị mạ lỵ. Bọn người này,
không biết họ thuộc loại nào ? Có thể họ là bọn Việt Cộng nằm vùng, có
thể họ là bọn Việt Gian Cộng Sản, nhưng cũng có thể chỉ vì cảm tình cá
nhân nên bênh vực nhau. Nói ra họ lại la làng là bị chụp mũ này, mũ nọ.
Có điều chắc chắn là không bao giờ thấy họ viết một bài nào chống Cộng.
Hoặc nếu có thì cũng chỉ hời hợt hoặc vô thưởng, vô phạt để chứng tỏ ta
đây cũng là người chống Cộng. Còn những bài viết chỉ trích những người
chống Cộng thì họ phê bình chỉ trích tới nơi, tới chốn.
2/ Vì luật pháp.
Vì luật pháp, chúng ta cũng không thể cho chúng
mò tôm, bắt ốc như bọn Cộng Sản đã làm đối với những người quốc gia
trong thời chiến tranh. Chúng ta phải đưa chúng ra tòa để xét xử theo
luật pháp. Dù chúng có tội thì cũng chỉ giam giữ ít lâu rồi lại thả ra.
Trường hợp phạt chúng tội tử hình, thật là hiếm. Thường thì chúng ta
cũng rất nhẹ tay với chúng. Không những thế, nhiều khi còn để tình cảm
lấn áp. Do đó có những trường hợp kẻ bị bắt có thế lực hoặc có liên hệ
với các ông lớn trong chính quyền Việt Nam Cộng Hòa được can thiệp và
cho tại ngoại ngay từ lúc mới bị bắt hoặc được cho biết trước để mà chạy
trốn hoặc phi tang chứng cớ.
Trường hợp điển hình là trường hợp của Nguyễn Đình Ngọc, giáo
sư trường Đại Học Khoa Học Saigon. Ông này có hoạt động cho Việt Cộng
nên bị bắt. Ông Nguyễn Chung Tú, Khoa Trưởng Trường Đại Học Khoa Học
Saigon đã lấy tư cách và uy tín của mình để bảo lãnh cho ông ta. Vì thế,
ông Ngọc không những đã được tại ngoại mà cũng chẳng phải ra toà lãnh
án.
Trường hợp thứ 2 là Trần Đình Minh, cán bộ xã
Hải Nhuận thuộc quận Hương Điền Tỉnh Thừa Thiên, một Việt Cộng nằm vùng.
Tháng 5 năm 1972 (mùa hè đỏ lửa), để ngăn chận cuộc tổng nổi dậy của
Cộng quân tại Huế, Thiếu Tá Liên Thành, Trưởng Ty Cảnh Sát Thừa Thiên đã
mở cuộc hành quân gọi là Chiến Dịch Bình Minh và đã bắt giữ khoảng
1,500 Việt cộng và nội tuyến trong đó có Trần Đình Minh. Chỉ mấy ngày
sau khi Trần Đình Minh bị bắt, Thiếu Tá Liên Thành đã nhận được điện
thoại của Đại Tá Dương Quang Tiếp Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Vùng
I, ra lệnh thả Trần Đình Minh. Lý do là vì Ủy Viên Chính Phủ Tòa án Quân
Sự Mặt Trận Vùng I Chiến Thuật, Trung Tá Cao Chánh Hựu là bạn thân của
Đại Tá Dương Quang Tiếp đứng ra làm giấy bảo lãnh cho Trần Đình Minh.
Trường hợp điển hình thứ ba là Nguyễn Ngọc Lương. Ông
Tạ Quang Khôi cho biết: “Lương là một cán bộ cộng sản được gài vào Nam
theo cuộc di cư năm 1954. Sau Lương được nhận vào đài phát thanh Saigon
làm biên tập viên phòng bình luận. Lương bị công an bắt, không phải một
lần mà nhiều lần. Nhưng không hiểu sao công an bắt rồi thả mà không giam
giữ luôn trong tù hoặc đưa ra tòa xét xử dù biết chắc ông hoạt động cho
cộng sản? Không những thế, ông Tổng Giám Đốc Nha Vô Tuyến Truyền Thanh
còn vào khám thăm Lương mỗi khi y bị bắt.
Trường hợp thứ tư là nhà văn Vũ Hạnh, tên
thật là Nguyễn Đức Dũng sinh năm 1926 tại Quảng Nam. Ông là cán bộ văn
hoá khu ủy Sài Gòn-Gia Định. Ông Hạnh bị bắt 5 lần, nhưng lần nào cũng
có người bảo lãnh cho tại ngọai. Người bảo lãnh sau cùng cho Vũ Hạnh là
Linh Mục Thanh Lãng, Chủ tịch Hội Văn Bút.
|
Tên Bảy Lớp không bắn bỏ cũng uổng
Những người như hắn đã giết gần 60 ngàn lính Mỹ. Bênh vực cho hắn là đại ngu ! |
Vụ Têt Mậu Thân 1968, không
thiếu gì những tên Việt Cộng giết người một cách dã man, giết người một
cách vô tội vạ, giết người hàng loạt. Vậy mà bọn chúng đâu có bị đưa ai
ra tòa? Còn chúng ta, nếu vì qúa tức giận trước những hành động qúa độc
ác, dã man của bọn chúng mà tự ý giết một tên Việt Cộng nào đó, thì dù
có lý do chính đáng đến đâu cũng vẫn bị kết tội là dã man, là vô nhân
đạo. Nếu không bị đưa ra tòa thì cũng bị nhiều người phê bình và thế
giới nguyền rủa. Đó là trường hợp của tướng Nguyễn Ngọc Loan đã xử tử
tên Việt Cộng Nguyễn Văn Lém tự Bẩy Lớp, kẻ đã sát hại cả gia đình một
sĩ quan cảnh sát vào Tết Mậu Thân 1968.
3/ Vì thiếu ý thức.
Ngày 24-9-1954, Thủ Tướng Ngô
Đình Diệm, thừa ủy nhiệm Quốc trưởng Bảo Đại, ký Sắc lệnh số 94-CP cải
tổ nội các. Nhiều chính trị gia tên tuổi đã tham gia như Trần Văn Đỗ
Tổng trưởng Bộ Ngoại giao, Bùi Văn Thinh Tổng trưởng Bộ Tư pháp, Phạm
Xuân Thái Tổng trưởng Bộ Thông tin và Chiến tranh tâm lý, Trần Hữu
Phương Tổng trưởng Bộ Tài chính, Lương Trọng Tường, Tổng trưởng Bộ Kinh
tế, Nguyễn Công Hầu, Tổng trưởng Bộ Canh nông, Trần Văn Bạch, Tổng
trưởng Bộ Công chính, Nguyễn Văn Thoại Tổng trưởng Bộ Kế hoạch và Kiến
thiết, Huỳnh Kim Hữu Tổng trưởng Bộ Y tế, Nguyễn Dương Đôn, Tổng trưởng
Bộ Quốc gia giáo dục, Nguyễn Mạnh Bảo Tổng trưởng Bộ Xã Lao, Nguyễn Đức
Thuận Tổng trưởng Bộ Cải Cách, Nguyễn Tăng Nguyên, Tổng trưởng Bộ Lao
động và Thanh niên, Hồ Thông Minh Tổng trường phụ tá Quốc phòng, Trần
Ngọc Liên, Bộ trưởng ở Phủ Thủ tướng, đặc nhiệm Công vụ, Phạm Duy Khiêm
Bộ trưởng đặc nhiệm tại Phủ Thủ tướng, Bùi Kiện Tín, Bộ trưởng đặc nhiệm
tại Phủ Thủ tướng,Huỳnh Văn Nhiệm, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Nguyễn Văn Cát
Thứ trưởng Bộ Nội vụ.
Khi biết tướng Nguyễn văn Hinh (thân Pháp) muốn
lật đổ Thủ Tướng Ngô Đình Diệm, họ sợ ông Diệm mất chức nên một số người
đã từ chức gây điêu đứng cho TT Ngô Đình Diệm. Sau khi Thủ Tướng Ngô
Đình Diệm vượt qua được cơn sóng gió và tống cổ được Nguyễn văn Hinh ra
khỏi nước và thiết lập nền đệ nhất Cộng Hòa thì cũng lúc các đảng phái
quốc gia nói riêng, giới chính trị gia miền Nam nói chung, vì thiếu ý
thức, vì quyền lợi phe nhóm và nhất là vì ngu dốt, đã đặt quyền lợi của
đảng phái, của phe nhóm lên trên quyền lợi của quốc gia dân tộc tìm cách
đả phá, chỉ trích chính quyền và đòi hỏi những điều chính quyền không
thể thỏa mãi họ được.
Họ đã gây ra cuộc đảo chính bất thành ngày
11/11/1960 mà trong đó nhóm Tự Do Tiến Bộ còn gọi là Nhóm Caravelle chủ
xướng, vụ 2 phi công VNCH Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc ném bom Dinh
Độc Lập ngày 27/2/1962 do Đại Việt Quốc Dân Đảng chủ mưu làm cho người
Mỹ hết tin tưởng vào chính quyền của TT Ngô Đình Diệm dẫn tới cuộc đảo
chính ngày 1/11/1963.
Tranh đấu như vậy năm 63 rồi 65 chưa
đủ, năm 1975 còn kéo cả đoàn lũ đi rước quân cướp VC vào thành phố nữa
mới “đáng khen” chứ !
Nếu cho rằng trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa, các
chính trị gia, các đảng phái quốc gia đã không có cơ hội để thi thố tài
năng. Nhưng trong thời Đệ Nhị Cộng Hòa, họ đã có cơ hội, nhưng họ đã làm
được gì? Hết nội các Nguyễn Ngọc Thơ (11/63 - 1/64), các Trần Văn Hương
(8/64 - 10/64, đến nội các Phan Huy Quát (2/65 – 6/65), không nội các
nào thọ được hơn 4 tháng và dĩ nhiên cũng chẳng ai làm được trò trống gì. Để
rồi lại phải trao quyền cho quân đội để trở lại vai trò chỉ trích và
quậy phá. Không biết bao nhiêu là cuộc biểu tình, xuống đường để gây rối
cho miền Nam. Nào là Phong trào đấu tranh của ký giả miền Nam Việt Nam
tục gọi là Phong Trào ký giả đi ăn mày, Phong trào đòi quyền sống của
Luật Sư Ngô Bá Thành, Phong trào bài trừ tham nhũng của Linh Mục Trần
Hữu Thanh, Ủy Ban Bảo Vệ quyền lợi lao động của Linh Mục Linh mục hốt
rác LM Phan Khắc Từ, LM Trương Bá Cần, LM Trần Thế Luân và LM Nguyền
Ngọc Lan, và hơn 140 vụ xuống đường khác của bọn Việt Cộng đội lốt sư
sãi súi dục học sinh sinh viên biểu tình “chống Mỹ cứu nước”. Đó là chưa
kẻ một số người miền Nam khác đã nuôi Việt Cộng trong nhà hay đóng thuế
cho Việt Cộng.
Trong cuộc chiến Nam Bắc Hàn, có lúc Nam Hàn chỉ
còn một vùng đất nhỏ bằng tỉnh Cà-Mâu của miền Nam, vậy mà nhờ sự quyết
tâm hỗ trợ của Mỹ, Nam Hàn vẫn phản công lấy lại toàn lãnh thổ đã mất.
Miền Nam Việt Nam còn Thủ Đô, còn vùng 4 và hơn một nửa vùng 3, nếu Mỹ
không quyết tâm ngưng viện trợ cho miền Nam Việt Nam thì dĩ nhiên quân
đội VNCH cũng sẽ tiến chiếm lại được những vùng đã mất như đã chiếm lại
được Quảng Trị trong mùa hè đỏ lửa 1972. Nhưng tiếc rằng chính
chúng ta, hay nói cho đúng hơn, chính bọn tướng lãnh côn đồ đã làm xụp
đổ nền đệ nhất VNCH, chính bọn chính trị gia ngu dốt, chính bọn sư sãi,
linh mục thân Cộng, chính bọn trí thức ăn cơm quốc gia, thờ ma Cộng Sản,
đã làm cho người Mỹ thất vọng, không còn muốn giúp chúng ta nữa. Đó là những nguyên do khiến cho miền Nam Việt Nam phải mất vào tay Cộng Sản.
Lê Duy San