Bảo vệ chủ quyền biển đảo là trách nhiệm của mọi người Việt Nam. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, mỗi khi có giặc ngoại xâm đe doạ, xâm chiếm lãnh thổ, không phân biệt lứa tuổi, thành phần, nghề nghiệp, đảng phái, tôn giáo…trăm người như một, đoàn kết một lòng, nhất tề đứng lên đánh đuổi ngoại xâm, bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc, trong đó hải quân là một trong những lực lượng chủ lực, thường trực của nhà nước đóng vai trò là lực lượng nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.
Việc xây dựng một lực lượng hải quân mạnh, đủ sức làm tròn nhiệm vụ nòng cốt, giữ vững chủ quyền biển đảo, được đặt ra khá sớm, ngay từ giai đoạn mở rộng bờ cõi ra hướng biển. Đặc biệt khi chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở Đàng Trong và sau này đến thời các vua Nguyễn cho lập các Đội Hoàng Sa, Đội Bắc Hải ra khai thác, dựng bia, cắm mốc, làm nhà, xây miếu, trồng cây, thực hiện nhiều việc xác định chủ quyền của nhà nước Việt Nam đối với các đảo trong vùng biển thiêng liêng của Tổ Quốc. Việc tổ chức lực lượng biển đảo như vậy, được tiến hành thường xuyên, liên tục, thành quy định luân phiên nhau thực hiện từ năm này qua năm khác. Những người được giao trọng trách luôn có ý thức, trách nhiệm làm tròn nhiệm vụ trong mỗi chuyến đi.
Kế tục sự nghiệp của các đội Hoàng Sa, Bắc Hải thời các Chúa Nguyễn và Vua Nguyễn, ngay sau khi Pháp rút quân theo Hiệp Định Giơ Ne Vơ tháng 7 năm 1954, năm 1956 chính quyền Sài Gòn cho các đơn vị hải quân ra tiếp quản quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ các đơn vị quân đội Pháp.
Đối với quần đảo Hoàng Sa, do hạn chế về nhiều mặt nhất là tầu thuyền cả về số lượng, chất lượng nên hải quân Việt Nam Cộng Hòa chỉ kịp triển khai đóng giữ phần phía Tây, chưa kịp ra phía Đông nên phần này bị Trung Quốc chiếm mất. Trên các đảo mới tiếp quản, tuy lúc này còn nhiều khó khăn, nhưng các đơn vị nhanh chóng triển khai lực lượng dựng bia, chòi canh, xây dựng, củng cố trận địa, bố trí các đơn vị chiến đấu, tổ chức tuần tra, canh gác, quan sát, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống nên chủ quyền lãnh thổ phần phía Tây Hoàng Sa được giữ vững liên tục 18 năm từ 1956 đến 1974.
Đối với quần đảo Trường Sa, đề phòng Trung Quốc nhân cơ hội chiếm Hoàng Sa sẽ liều lĩnh đưa quân xuống, chiếm đóng xen kẽ, gây nên tình hình phức tạp trong khu vực, ngày 22 – 8 – 1956, chính quyền Sài Gòn cho một đơn vị hải quân ra cắm cờ, dựng bia tại đảo Trường Sa Lớn.
Năm 1958, trong bối cảnh Mỹ bắt đầu can thiệp vào Việt Nam, coi Trung Quốc, Liên Xô là kẻ thù, tăng cường lực lượng quân sự trong khu vực Thái Bình Dương, tầu hải quân Mỹ đi lại, tuần tra dọc eo biển Đài Loan; Trung Quốc đơn phương tuyên bố lãnh hải 12 hải lý, nhằm đối phó với tình hình có thể xẩy ra tranh chấp từ nhiều phía. Thủ Tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng nhanh chóng ra công hàm công nhận Tuyên Bố này của Trung Quốc. Việt Nam Cộng Hòa lúc đó là chủ sở hữu hợp pháp phần biển đảo Nam vĩ tuyến 17 đã tăng cường quân số, bổ sung vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, cơ sở vật chất nhằm bảo đảm khả năng chiến đấu lâu dài cho các căn cứ đồn trú trên Hoàng Sa và Trường Sa.
Năm 1965, khi Mỹ đưa quân vào miền Nam, thực hiện chiến lược chiến tranh cục bộ, leo thang đánh phá miền Bắc, phân chia các vùng chiến thuật trên toàn miền Nam, các đơn vị hải quân Sài Gòn trên mỗi đảo được tổ chức biên chế thành các tiểu đội, trung đội, đại đội; bố trí quân số, trang bị vũ khí, cơ số đạn theo phương án tác chiến phù hợp với quy mô, vị trí từng đảo. Viên chỉ huy trung đội, đại đội được chỉ định làm đảo trưởng để quản lý cả nhân viên khí tượng, thuỷ văn làm việc trên đảo.
Đầu năm 1974, tình hình khu vực Hoàng Sa diễn biến rất nhanh chóng, căng thẳng khi ngày 11-1-1974 Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa do chính quyền Sài Gòn quản lý là một phần lãnh thổ của CHND Trung Hoa. Ngay sau khi tuyên bố, Trung Quốc cho nhiều chiến hạm và tầu cá vũ trang xâm nhập hải phận Hoàng Sa. Bốn ngày sau 15-1-1974 Trung Quốc bất ngờ cho máy bay ném bom và đưa quân đổ bộ chiếm các đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc, Duy Mộng, Quang Hoà thuộc phần phía Tây quần đảo Hoàng Sa do lực lương hải quân VNCH đóng giữ. Sau khi đổ bộ Trung Quốc cho quân dựng trại, cắm cờ và rút lên tầu nghe ngóng, xem phản ứng của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Trước hành động ngang ngược của Trung Quốc, Bộ Tư Lệnh hải quân chính quyền Sài Gòn cho chiến hạm Trần Khánh Dư mang ký hiệu HQ-4, khu trục hạm tối tân nhất của hải quân VNCH và cả khu vực Đông Nam Á lúc bấy giờ, do Trung Tá hải quân Vũ Hữu San làm Hạm Trưởng ra giữ Hoàng Sa (sau ngày 30 - 4 -1975 chiến hạm Trần Khánh Dư thuộc biên chế của hải quân nhân dân Việt Nam với ký hiệu HQ- 01 do Đỗ Xuân Công làm Thuyền Trưởng). Đi theo HQ- 4 lúc đó là một trung đội biệt hải để sẵn sàng đổ bộ tái chiếm đảo. Để tăng cường khả năng tái chiếm đảo, cùng ngày, Bộ Tư Lệnh hải quân VNCH cho tuần dương hạm Lý Thường Kiệt, do Trung Tá hải quân Lê Văn Thư làm Hạm Trưởng ra phối hợp với chiến hạm Trần Khánh Dư.
Trung Tá hải quân Vũ Hữu San và khu trục hạm Trần Khánh Dư
Rạng sáng ngày 18-1, 2 tầu cá vũ trang Trung Quốc tiến vào Hoàng Sa. Khu trục hạm Trần Khánh Dư và tuần dương hạm Lý Thường Kiệt đồng loạt dùng tín hiệu cảnh báo: Đây là lãnh hải Việt Nam, các ông phải rời khỏi ngay. Nhưng tầu cá Trung Quốc vẫn ngoan cố tiến vào. Trước thái độ ngang ngược của đối phương, khu trục hạm Trần Khánh Dư dùng mũi tầu đâm thẳng vào tầu địch, làm gẫy lan can phía trước và cong cửa buồng lái, buộc địch phải lui, nhưng vẫn lởn vởn xung quanh Hoàng Sa, không chịu quay về.
Trước tình hình tranh chấp quyết liệt, để tăng cường khả năng tái chiếm đảo, trưa ngày 18-1, Bộ Tư Lệnh hải quân Sài Gòn cho thêm tuần dương hạm Trần Bình Trọng, ký hiệu HQ-5, do Trung Tá hải quân Phạm Trọng Quỳnh làm Hạm Trưởng xuất phát đi Hoàng Sa. Cùng đi có Đại Tá hải quân Hà Văn Ngạc được cử làm chỉ huy trưởng lực lượng chiến đấu bảo vệ Hoàng Sa. Trên tuần dương hạm Trần Bình Trọng ngoài sỹ quan, thuỷ thủ của tầu, có thêm một trung đội người nhái, có nhiệm vụ sẵn sàng đổ bộ tái chiếm đảo khi thời cơ đến. Với quyết tâm chiếm lại đảo, nửa đêm 18 – 1, Bộ Tư Lệnh hải quân VNCH lại cho hộ tống hạm Nhật Tảo, ký hiệu HQ – 10 do Trung Tá hải quân Nguỵ Văn Thà làm Hạm Trưởng ra chi viện cho lực lượng đang có mặt tại khu vực đảo. Như vậy lúc này, tại khu vực Hoàng Sa có 4 tầu lớn của Hải Quân VNCH gồm 1 khu trục hạm, 2 tuần dương hạm, 1 hộ tống hạm đều sẵn sàng cho trận tái chiếm, bảo vệ biển đảo.
Trung Tá hải quân Phạm Trọng Quỳnh và tuần dương hạm Trần Bình Trọng
Rạng sáng ngày 19- 1, Trung Quốc cho tầu chiến và tầu cá vũ trang tiếp tục khiêu khích, tiến sát vào Hoàng Sa. Trước sự ngoan cố, liều lĩnh của Trung Quốc, 6 h 30’ khu trục hạm Trần Khánh Dư tiến sát vào phía Tây Bắc đảo Quang Hoà và trung đội biệt hải được lệnh đổ bộ. Đến gần đảo, phát hiện một doanh trại mới và cột cờ Trung Quốc, trung đội biệt hải đổ bộ lên phần phía Đông Nam của đảo và cắm cờ VNCH lên bờ cát và hốc đá, không thể đổ bộ lên toàn đảo. Trong khi đó, do tầu đối phương còn lởn vởn quanh đảo nên tuần dương hạm Trần Bình Trọng cũng không thể đến gần, buộc phải dừng từ xa, thả xuồng cao su để đưa lực lượng người nhái lên đảo, song ngay việc đổ bộ bằng xuồng cũng gặp khó khăn, do ngược chiều gió, xuồng đi rất chậm, nên không chi viện kịp. Trong lúc lực lượng hải quân VNCH chưa kịp triển khai, tận dụng lợi thế xuôi gió, Trung Quốc cho quân đổ bộ ở phía Bắc, từ đó tiến sâu vào bên trong, chiếm đảo Quang Hoà, rồi lần lượt chiếm đóng các đảo khác.
Việc 2 trung đội biệt hải và người nhái đổ bộ tái chiếm đảo không thể thực hiện, Đại Tá Ngạc ra lệnh cho 4 chiến hạm đi theo đội hình một hàng dọc và đồng loạt khai hoả nghênh chiến với tầu Trung quốc đông gấp 2 lần. Tuy nhiên do chênh lệch về lực lượng, các tầu của hải quân VNCH lại cũ, máy yếu nên không thắng được tầu hải quân Trung Quốc đông hơn, nhiều hơn về lực lượng, vũ khí, trang bị. Phía VNCH… cái bị chìm, cái bị thương, một số binh sĩ bị thương và hy sinh.
8h 30’ tuần dương hạm Trần Bình Trọng bị đại liên và cối 82 bắn vào đội hình người nhái, trúng vào bệ pháo 127 ly làm 3 quân nhân hy sinh, 2 bị thương. Tình hình chiến sự diễn ra mỗi lúc một căng thẳng, quyết liệt. Anh em rất muốn nổ súng trả thù cho đồng đội, nhưng Hạm Trưởng Quỳnh không thể ra lệnh điểm hoả vì lực lượng người nhái đang rơi vào tình thế cực kỳ nguy hiểm, nếu nổ súng, khả năng thương vong sẽ rất lớn. Tình thế không cho phép, binh sĩ trên tầu đành nuốt hận, nén đau thương, băng bó, cấp cứu cho người bị thương, bó thi hài cho người hy sinh, đưa vào khoang thuỷ thủ, đồng thời vừa sửa chữa, khắc phục hỏng hóc, vừa cho tầu lết theo đội hình chiến đấu.
Cùng thời điểm này, tầu Nhật Tảo bị 2 quả 100 ly bắn trọng thương, Hạm Trưởng Nguỵ Văn Thà hy sinh tại chỗ, Hạm Phó Nguyễn Thanh Trí bị thương nặng, tầu chìm, 28 quân nhân dìu nhau xuống bè và được một tầu dầu của hãng Sell mang quốc tịch Hà Lan là Konionella cứu, đưa về Đà Nẵng. Hộ tống hạm Nhật Tảo bị loại ra khỏi trận chiến. Lúc này tuần dương hạm Lý Thường Kiệt trúng đạn, bị thương rớt lại phía sau, tuần dương hạm Trần Bình Trọng bị hư hỏng nặng, chỉ còn khu trục hạm Trần Khánh Dư một mình đơn độc chiến đấu.
Hạm trưởng Ngụy Văn Thà và hạm Nhật Tảo
16h 30’ chiến hạm Trần Khánh Dư được lệnh ủi thẳng lên đảo Quang Hoà, 130 thuỷ thủ bám sát vị trí sẵn sàng chiến đấu chiếm lại đảo, song các khẩu đại bác đều trục trặc, không khắc phục kịp sự cố kỹ thuật, cơ số đạn không đủ để tác chiến trong thời gian dài, lúc mà quân Trung Quốc đã đổ bộ chiếm đảo từ sáng sớm. Biết khả năng tái chiếm đảo là khó thực hiện, Hạm Trưởng San báo cáo trực tiếp với Tư Lệnh hải quân VNCH là HQ – 4 không còn khả năng đánh chiếm đảo. Trước tình hình đó, lệnh từ đất liền: Các tầu quay về, huỷ lệnh tái chiếm Hoàng Sa.
17h chiều 19-1-1974, trận hải chiến giữa hải quân VNCH và hải quân Trung Quốc kết thúc với phần thắng thuộc về đối phương. Hải quân Trung Quốc đã chiếm đảo Quang Hoà và các đảo còn lại thuộc phần phía Tây của quần đảo Hoàng Sa do Việt Nam chiếm giữ từ trước. 5h 30’ ngày 20-1-1974 (Tức ngày 30 tháng chạp năm Quý Sửu, tức ngày 30 tết) khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4) về đến cảng Tiên Sa – Đà Nẵng; 9 giờ tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ- 5) vào cảng. 12 giờ cùng ngày, tuần dương hạm Lý Thường Kiệt từ từ tiến vào vịnh Đà Nẵng với sự hộ tống của 2 tầu lai dắt.
Bị mất Hoàng Sa, đề phòng Trung Quốc lợi thế đánh chiếm Trường Sa, ngày 1-2-1974, Bộ Tư Lệnh hải quân Sài Gòn cho quân đồn trú đồng loạt trên các đảo Trường Sa Lớn, Nam Yết, Song Tử Tây, Sơn Ca, Sinh Tồn, tổ chức tuần tra, canh gác bảo vệ đảo. Tháng 4 – 1975, Hải Quân ND VN thu hồi các đảo trên từ Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà. Nhờ hải quân VNCH đã bảo vệ thành công 5 đảo quan trọng kể trên mà hải quân NDVN có điều kiện mở rộng quyền kiểm soát trên 21 hòn đảo khác trong vùng biển Trường Sa.
Hiện nay, Việt Nam là quốc gia kiểm soát nhiều đảo nhất trong vùng biển này, kế đến Trung Quốc 7, Đài Loan 1, Philippine 9, Malaisia 5 đảo.
Bản đồ “Lưỡi Bò” của Trung Quốc quét gần hết Biển Đông
Biển đảo của tổ tiên dù trong tay các vua chúa phong kiến ngày xưa, trong tay những người thuộc thời đệ nhất hay đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa hay đang trong tay nhà nước CHXHCN Việt Nam… đều thấm đẫm biết bao mồ hôi, nước mắt và cả xương máu của biết bao người con đất Việt đã đổ ra vì sự toàn vẹn và trường tồn của những vùng biển đảo thiêng liêng đó.
Phủ nhận những hy sinh to lớn của những người này, những người nọ là có tội với tiền nhân, có tội với lịch sử, là trái với đạo lý uống nước nhớ nguồn. Rẻ rúng những gì mà những người đồng bào của mình đã dâng hiến, chúng ta không hề đẹp thêm trong con mắt của những dân tộc văn minh và giàu lòng tự trọng, không hề mạnh thêm trong con mắt của những thế lực đang muốn thôn tính vùng biển đảo thiêng liêng này.
Thái độ đúng đắn, hợp đạo lý, hợp lòng người nhất là hãy cùng nhau xoá bỏ hận thù, cùng đốt lên nén hương tôn vinh bất cứ ai đã không tiếc thân mình cho sự toàn vẹn và trường tồn của những vùng biển đảo thiêng liêng đó, dù họ là ai. Dòng máu của Nguỵ Văn Thà Trung Tá Hạm Trưởng hộ tống hạm Nhật Tảo cùng các chiến hữu trong hải quân VNCH khác đã ngã xuống trong trận hải chiến Hoàng Sa 1974, có khác gì đâu dòng máu của các liệt sĩ hải quân quân đội NDVN đã đổ ra trên đảo Gạc Ma 1988. Nước mắt và nỗi đau của người vợ, người mẹ ông Nguỵ Văn Thà và các chiến hữu của ông, có khác gì đâu nước mắt và nỗi đau của những người vợ liệt sĩ, những mẹ Việt Nam anh hùng có người thân đã bỏ mình vì đất nước.
Bà quả phụ Nguỵ Văn Thà trong một hội thảo về Biển Đông tại Sài Gòn 2011
Biết đến bao giờ ban lãnh đạo Việt Nam mới ngộ được chân lý hết sức giản dị là: “Tổ quốc là vĩnh hằng, mọi thể chế trên đó chỉ là tạm thời và hữu hạn mà thôi”.
Hà Đông một sớm đầu đông 11 – 2011.
0 comments:
Post a Comment