Mường Giang
Từ đầu năm 2014 tới nay,Trung Công công khai sử dụng vũ lực tại Biển
Đông với ý đồ cưởng đoạt gần như toàn bộ biển đảo trong vúng, được đánh
giá là có nhiều dầu hỏa và khí đốt. Ngang ngược nhất là việc hải tặc Tàu
đem giàn khoan khổng lồ HD-981 vào tận lãnh hải của Việt Nam, từ ngày 2
tháng 5 để tìm dầu, trước thái độ hèn nhục gần như đầu hàng giặc của CS
Hà Nội, khiến cho người Việt trong và ngoài nước ai cũng căm hận và tủi
nhục.
Rồi như muốn thị uy với thế giới rằng là ta muốn làm gì thì làm nên
từ đầu năm 2014, Trung Cộng đã ra lệnh cấm đánh bắt cá hết sức phi lý ở
biển Đông. Tiếp theo lại ồ ạt đưa hơn 44.000 tàu đánh cá đủ loại, chẳng
khác nào một đoàn hải tặc, tung hoành vơ vét cưởng đoat gần hết tài
nguyên, hải sản của ngư dân các nước trong vùng, mà thiệt hại nặng nề
nhất về sinh mạng, vật chát vẫn là các ngư dân VN.
..
Việc Trung Cộng đưa giàn khoan vào hoạt động ngay trong hải phận VN,
sau đó bất ngờ rút giàn khoan về đảo Hải Nam trước thời gian ấn định,
thật sự chẳng làm ai ngạc nhiên, nhất là những người hằng theo dõi tin
tức thời sự có liên quan tới cái gọi là “ chuyện cười giàn khoan HD-981
của TC & VC “. Điều mà người VN trong và ngoài nước lo lắng là việc
TC đưa giàn khoan HD-981 vào Biển Đông là bước đầu trong việc xác nhận
chủ quyền của giặc trên vùng lãnh hải VN theo những giao kết bí mật giữa
hai đảng đã bí mật ký kết tại hội nghị Thành Đô năm 1990. Do đó TC đã
nắm được tử huyệt của bọn lãnh đạo đảng tại Hà Nội, nên mới dám ngang
ngược tung hoành, những chuyện lạ này chỉ có ở VN mà chẳng bao giờ có
thể xãy ra tại vùng biển Nhật, Nam Hàn, Phi Luật Tận, Mã Lai, hay bất cứ
một quốc gia nào có chủ quyền trên thế giới.
Làm mưa làm gió, làm nhục CSVN tại biển Đông TC còn chưa thấy đủ, nên
lại sai tên Ủy viên Quốc vụ viện Dương Khiết Trì tới VN chỉ dạy đàn em
trong chính trị bộ suốt hai ngày 17-18.6.2014. Lần này, tên thái thú
Tàu họ Dương đã không tiếc lời sĩ vã đám thuộc hạ, qua vụ dám để người
dân VN chống lại thiên triều tại các khu công nghệ Bình Dương, Biên Hòa,
Vũng Tàu, Hà Tỉnh, đồng thời ra lệnh VC phải chấm dứt những hành động
quấy rôi và phản đối giàn khoan của Trung Cộng hoạt động tại biển Đông
sắp tới, cũng như cấm VC liên minh quân sự với Mỹ-Nhật-Úc để chống lại
Tàu. Cuối cùng phải bỏ ý định theo các nước khác kiện TC ra Tòa An QT về
những hành động bá quyền, côn đồ, hải tặc trên biển Đông.
Đó là lý do, Phạm Bình Minh, bộ trưởng ngoại giao VC bị đảng cấm đi
Mỹ, dù có lời mời của Ngoại trưởng Hoa kỳ John Kerry. Đồng thời Bí thư
thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị thuộc phe giáo điều và bợ Tàu, được thay
thế sang Mỹ để kết tình giao hảo giữa hai đảng CSVN và hai đảng chính
trị Mỹ Quốc. Những ngày tại Hoa Kỳ, Nghị chẳng hề hé răng nhắc chuyện VN
đang bị Tàu đỏ xâm lăng. Màn đấu đá nội bộ lại tiếp diễn, mặc kệ cho
đất nước sắp mất vào tay giặc Tàu.
Ngày thứ bảy, 31 tháng 5, 2014 đài BBC đã phổ biến lời phát biểu
của Phùng Quốc Thanh, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Cộng. Thanh nói “ quan
hệ Việt-Trung vẫn phát triển tốt đẹp và so sánh xung đột hiện nay trên Biển Đông với ‘mâu thuẫn gia đình’ “
Suy cho cùng, chúng ta mới hiểu nổi những lời ví von thâm thúy của
tên bộ trưởng quốc phòng đã sớm đầu hàng giặc Tàu từ lâu. Thanh nói đúng
ví cuộc tranh chấp mà thực chất là cuộc xâm lăng của giặc Tàu vào lảnh
thổ VN hiện nay, được bọn lãnh đạo CS Hà Nội xem như mâu thuẩn trong một
gia đình. Về mâu thuẩn gia đình, bởi vì Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và
phái đoàn của đảng CSVN Phạm Văn Đồng, Đổ Mười..) đã xin cho Việt Nam
được làm một khu tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương Bắc Kinh, và
đã được “Giang Trạch Dân, Lý Bằng đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên
từ năm 1990 tại hội nghị Thành Đô Thời kỳ Bắc thuộc. Thời gian cuối cùng
bàn giao lãnh thổ, chính quyền cho TC là năm 2020.
Chúng ta sắp trở thành kẻ vong quốc như người Mãn Châu, Tây Tạng, Tân
Cương và Miêu Tộc nếu ngày nào đảng CSVN còn nắm được súng đạn và
quyền lãnh đạo đất nước. Thời kỳ Bắc thuộc gần kề.
Năm 111 trước Tây Lịch, người Hán xâm lăng và cưởng chiếm non sông
Hồng-Lạc, lúc đó có quốc hiệu là Nam Việt, bao gồm lãnh thổ của Âu Lạc
và Giao Chỉ. Dân tộc Việt bắt đầu sống trong một thời kỳ bị Tàu đô hộ cả
ngàn năm, còn đất đai của tiên tổ thì bị giặc cướp phanh thây thành
chín mảnh. Ðó là Nam Hải va Hợp Phố (Quảng Ðông), Thượng Ngô và Uất Lâm
(Quảng Tây), Châu Nhai và Nam Nhĩ (Hải Nam), Giao Chỉ (Bắc Việt), Cửu
Chân (Thanh Hóa), Nhật Nam (Nghệ An và Hà Tĩnh).
‘ Quê hương nay đã mỏi mòn,
Ngàn năm nô lệ, vẫn còn còn đây .. ’ ’ ’
(Ca dao)
Từ đó Dân tộc Việt sống trong một thời kỳ lầm than, nhục hận và đen
tối dưới cùm gông nô lệ, dưới đồng hóa xích xiềng cùng với sự áp bức dã
man tàn độc của giặc Tàu phương Bắc. Nhưng người Việt vốn là một dân tộc
anh hùng tuyệt luân, phi thường dũng liệt, can đảm bất khuất. Vì vậy
suốt trong thời gian bị nô lệ, đã không ngừng quật khởi chiến đấu, quyết
tâm đánh đuổi kẻ thù ra khỏi bờ cõi cẩm tú ngàn đời của dòng giống Tiên
Rồng, được tạo dựng từ thời các Tổ Hùng dựng nước Văn Lang, cách đây
gần 5000 năm lịch sử.
Trong tình cảnh nước mất nhà tan, thương đau và tủi nhục, cuộc đấu
tranh nhằm giải phóng dân tộc thoái khỏi ách nô lệ của giặc Tàu, vẫn
liên tục sôi sục trong tâm khảm mọi người. Năm 40 sau Tây lịch, hai phụ
nữ đầu tiên của nước Việt là Trưng Trắc và Trưng Nhị, đã thắp sáng lịch
sữ bằng ngọn lửa yêu nước, đánh đuổi tên thái thú tàn ác Tô Ðịnh chạy về
Hán, dành lại được một phần non sông cẩm tú của dân tộc, dù chỉ giữ
được một thời gian ngắn. Cuộc khởi nghĩa trên đã làm cho đồng bào vô
cùng phấn khởi và càng thêm ngưỡng kính Hai Bà tuy là phận nữ nhi nhưng
đã dám đứng lên chống lại giặc thù của dân tộc, trả thù nhà nợ nước. Thật là một tấm gương để cho con cháu ngàn đời soi chung noi dấu. Ngày nay :
‘ Cột đồng Mã Viện tìm đấu thấy
Chỉ thấy Tây Hồ, bóng nước gương ‘
(Thái Xuyên)
Nên đọc lịch sử VN qua hằng ngàn năm trước tới thời cận sử không xa,
con cháu ngày nay chỉ thấy đẫm đầy trên những trang sách cũ-mới, toàn là
máu lệ và nước mắt anh hùng của tiền nhân, qua công cuộc bảo vệ và dành
lại lãnh thổ cũng như nền tự chủ độc lập của Ðại Việt. Còn gì đau
đớn và tủi nhục cho bằng thân phận của người dân mất nước, kể từ năm 43
sau TL , Mã Viện lập lại chế độ cai trị vô cùng hà khắc, mục đích duy
nhất cũng chỉ là muốn biến Giao Châu thành một quận huyện của Tàu, đồng
thời Hán hóa người Việt và bành trướng lãnh thổ xuống phương Nam.
Tuy cách nay gần hai ngàn năm nhưng chính sách xâm lăng đồng hóa các
dân tộc yếu kém láng giềng của Hán Tộc vẫn không hề thay đổi, dù cho
trong cuộc phong trần vinh nhục, Tàu cũng đã nhiều lần bị các nước khác
đô hộ, hạ nhục, thảm thê không có bút mực nào diễn tả cho hết. Mã Viện
dựng cột đồng với lời hăm dọa ‘ đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt ‘ nhưng cột đồng thì mất tích, còn nổi căm hận nhớ đến âm mưu diệt chũng của người Tàu đối với dân Việt thì muôn đời mãn kiếp không bao giờ quên được.
Ðó là lý do mà suốt ngàn năm bị áp bức bóc lột đến cùng tận, dân Việt
luôn luôn vùng dậy chống quân Tàu. Năm 248 Bà Triệu khởi binh chống quân
Ngô ở Cửu Chân (Thanh Hóa). Tiếp theo có Lý Nam Ðế, Triệu Quang Phục,
Mai Hắc Ðế, Phùng Hưng, Khúc Thừa Dụ.. và cuối cùng là Ngô Vương Quyền
vào năm 939 sau TL, chém đầu thái tử Hoàng Tháo trên sông Bạch Ðằng,
đuổi đánh quân Nam Hán chạy về Tàu, kết thúc 1000 Bắc thuộc, dành lại
độc lập tự chủ cho dân tộc Việt.
‘ Đồng trụ chí kim đài dĩ lục (cột đồng đến nay, rêu còn xanh ?)
Ðằng giang tự cổ huyết do hồng (Sông Ðằng tự xưa, máu vẫn đỏ).
Và từ đó cuộc chiến đấu trường kỳ của dân tộc Việt đối với dã tâm xâm
lăng thống trị của giặc Tàu phương Bắc, trở thành một bản chất quật
cường trong tâm khảm của mọi người. Ðó cũng là chủ nghĩa yêu nước, một tôn giáo đặc dị VN chỉ biết tôn sùng những vị anh hùng liệt nữ tận trung báo quốc,
mà họ coi ngang với Trời Phật, thần Ðất như Ðức Thánh Trần Hưng Ðạo, đã
hai lần đại thắng đế quốc Nguyên-Mông trong thế kỷ XIII khi xăm lăng
Ðại Việt.
Nói chung, trong khi chiến đấu để bảo vệ tổ quốc và nền độc lập tự do
cho xứ sở, các nhà lãnh đạo Ðại Việt lúc nào cũng cứng rắn với giặc
Tàu khi chiến đấu và mềm mỏng trong ngoại giao. Tổ tiên ta từ buổi bình
minh lịch sử, cũng chỉ nhờ vào chủ nghĩa anh hùng và chiến lược khôn
ngoan, mà đánh bại được tất cả các cuộc xâm lăng của Tống, Mông Cổ, Minh
và Mản Thanh. Còn việc triều cống giặc Tàu, sau những lần chiến thắng
quân xâm lăng, thực chất không phải vì nước ta sợ chúng, mà là tránh
không để cho chiến tranh tiếp diễn, gây thêm cảnh sanh linh đồ thán, để
khổ cho muôn người.
Năm 1077 ba chục vạn quân Tống xâm lăng Ðại Việt. Ðại tướng Lý Thường
Kiệt trong khi ngăn giặc Tàu tại phòng tuyến Sông Cầu (Bắc Việt), đã
sáng tác bốn câu thơ thần, để cổ võ cho tình thần chiến sĩ nơi biên tái :
‘ Nam quốc sơn hà , Nam đế cư (Sông núi nước Nam vua Nam ở )
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư (Rành rành định phận ở sách trời)
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm (Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm)
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư (Chúng bây sẽ bị đánh tơi bời).
Bài thơ như một bản tuyên ngôn độc lập của nước Nam, đồng thời đanh
thép cảnh cáo giặc Tàu đừng bao giờ ỷ mạnh hiếp yếu, luôn nuôi dã tâm
cưởng chiếm nước người, không sớm thì muộn cũng có ngày bại vong. Tất cả
là sự gắn bó mãnh liệt vào mãnh đất quê hương, vào di sản dân tộc tuy
đẳm đầy máu lệ nhưng đâu có thiếu chất lãng mạng kiêu hùng :
‘ Ðoạt sáo Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái Bình nghi nổ lực
Vạn cổ thử giang san ‘
(Trần Quang Khải).
Vào cuối năm Ðinh Mùi (1428), Bình Ðịnh Vương Lê Lợi sau 10 năm chiến
đấu gian khổ, đã đánh đuổi được giặc Minh ra khỏi non sông đất Việt.
Nguyễn Trãi thay ông viết ‘ Bình Ngô Ðại Cáo ‘ công bố trước quốc
dân về công cuộc phục quốc đã thắng lợi, nước nhà lại độc lập tự chủ
như thuở nào. Ðồng thời bày tỏ lòng thương xót đối với đồng bào vô tội
đã bị giặc Minh tàn sát dã man, trong thời gian chúng tạm chiếm được
nước ta :
‘ Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời, lừa dân, đủ trăm ngàn kế
Người bị ép xuống biển, dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi, dãi cát tìm vàng, khốn nổi rừng sâu nước độc
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.. ’ ’ ’
Ba trăm năm sau Mãn Thanh lại bắt đầu dòm ngó non sông Việt, qua cái
cớ giúp Lê Chiêu Thống dành lại ngôi vua. Vì vậy nữa đêm mùng năm tháng
giêng Tết Kỹ Dậu (1789), Ðại Ðế Quang Trung (Nguyễn Huệ) kéo quân ra Bắc
và chỉ trong một hồi trống đã đại thắng giặc Thanh, bắt Sầm Nghi Ðống
thắt cổ tự tử, khiến Tôn Sĩ Nghị phải ôm đầu máu, trốn vào ống đồng chạy
về Tàu
Như Lê Thánh Tôn (1460-1497) vị anh quân tài giỏi của Ðại Việt vào cuối thế kỷ XV đã nói ‘ Ta phải gìn giữ cho cẩn thận, đừng để cho ai lấy mất một phân núi, một tấc sông của dất núi ‘
Câu chuyện thần thoại về Phù Ðổng Thiên Vương cởi ngựa sắt đánh đuổi
giặc Ân xâm lăng nước ta vào thời Hùng Vương thứ VI, là một triết lý
lịch sử dựng và giữ nước của Ðại Việt, tuy là một nước nhỏ nhưng luôn
chiến thắng kẻ thù to lớn phương Bắc, được văn chương bình dân ca tụng
đầy tự tin và ngạo nghễ :
‘ Nực cười châu chấu đá xe
tưởng rằng chấu ngã ai ngờ xe nghiêng
Chim chích cắn cổ diều hâu
Gà con tha quạ biết đâu mà tìm ‘.
Tóm lại bài học lịch sử Việt ngàn đời vẫn còn đó : Giặc Tàu chỉ có
thể xâm lăng cưởng chiếm đất đai của ta mỗi khi thế nước suy hèn, chia
rẽ và nội loạn nên Hổ Quý Ly, Mạc Ðăng Dung và Chúa Trịnh đã dâng nạp
cho kẻ thù phương Bắc nhiều đất đai ở biên giới Hoa Việt.
Cuối đời Trần vua quan hèn yếu, Hồ Quý Ly tiếm vị xưng vương vào năm
1401. Trần Khang tự là Thiểm Bình, xưng là con cháu nhà Trần đến Yên
Kinh xin Tàu đánh nước Nam đề giựt lại ngai vàng cho mình. Nhà Minh lợi
dụng cơ hội đó sang đánh chiếm nước ta, đặt nên đô từ 1413-1428 mới chấm
dứt vì bị Bình Ðinh Vương Lê Lợi đánh đuổi chạy về Tàu. Thế mới biết, Nhà Hồ dù có trăm vạn quân thiện chiến và tinh nhuệ nhưng vẫn thua giặc Minh vì mất lòng dân.
Trong lúc Kháng Chiến Quân Lam Sơn chỉ có vài chục vạn nhưng quân dân
trên dưới một lòng, vì vậy đã đánh đuổi được giặc Tàu xâm lăng ra khỏi
bờ cõi, dành lại độc lập cho nước nhà.
Năm 1786, Duy Kỳ hay Duy Khiêm lên nối ngôi vua Hậu Lê tức là Mẫn Ðế
niên hiệu Chiêu Thống. Năm 1788 vì thù hận Tây Sơn và Chúa Trịnh, đồng
thời muốn giựt lại chiếc ngai vàng cho nhà Lê, nên Chiêu Thống chạy sang
cầu viện Mãn Thanh sang chiếm nước ta nhưng bị Ðại Ðế Quang Trung đuổi
đánh phải chạy về Tàu vào năm 1789.
Và lịch sử lại tái diễn tấn tuồng ‘ Rước voi Tàu về dầy mã Tổ Hồng Lạc ‘ từ tháng giêng năm 1949, Hồ Chí Minh triệu tập hội nghị trung ương lần thứ 6 để ‘ nổ lực chuẩn bị sẳn sàng đón lấy dịp tốt, tuyệt đối không nên bỏ lỡ cơ hội chiến lược từ Trung Cộng ‘.Cho
nên không ngạc nhiên khi thấy Tàu Ðỏ là nước đầu tiên công nhận Việt
Cộng vào ngày 10-1-1950. Ðây cũng là thời gian HCM bí mật sang Tàu chầu
Mao Trạch Ðông cầu viện. Từ đó về sau Hồ chọn ngày 10-1 làm quốc lễ và
gọi đó là ngày ‘ thắng lợi ngoại giao ‘. Hàng ngàn cố vấn Tàu có mặt đông đảo tại VN, trong số này có các tướng Trần Canh, Vi Quốc Thanh, Lã Quí Ba giúp
các đệ tử thân tín của Hồ từng hoạt động bên Tàu, nắm giữ các địa vị
then chốt trong đảng , ngày qua ngày cứ thế sản sinh bè phái thân Trung
Cộng, khống chế quyền lực cả nước tới nay, biến nước ta thành một quận
huyện của Tàu như thời Bắc thuộc.
Tháng 7-1954, ngay khi chữ ký trên văn bản ngưng bắn tại Genève chưa
ráo mực, thì Hồ Chí Minh đã nghĩ ngay tới chuyện chiếm miền Nam, để tron
gói vơ vét và toàn quyền trên ngai vàng máu lệ. Do ý đồ trên, Hồ đã gài
lại một số lớn cán binh bộ đội nằm vùng khắp lãnh thổ VNCH khi có lệnh
tập kết. Ðể chuyển quân cũng như tiếp tế, Hồ mở con đường chiến lược
Trường Sơn trên bộ, xuyên qua lãnh thổ Lào và Kampuchia . Về mặt biển,
Hồ thành lập đường 559B giao cho Ðồng văn Cống chỉ huy. Dĩ
nhiên muốn an toàn, đầu tiên là phải nhổ tuyệt hai tiền đồn của QLVNCH
trấn đóng trên quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, đất đai thuộc lãnh thổ từ
lâu đời của dân tộc Ðại Việt, đã được tổ tiên bảo toàn từ thời Hậu Lê,
Nhà Nguyễn nằm trong Ðông Hải.
Một bí mật khác cũng đã được báo chí phổ biến cho biết “ vào tháng 4-1972 khi Tổng thống Mỹ Nixon tới Bắc Kinh cầu thân với Tàu đỏ, được Mao Trạch Ðông đem công hàm bán đảo, do Hồ Chí Minh và Phạm Văn Ðồng ký năm 1958 làm bằng chứng “,
để phản đối việc tàu Hoa Kỳ vi phạm lảnh hải quần đảo Hoàng Sa của
chúng (?). Còn Kissinger thì xảo quyệt hơn, khi viết hồi ký về chuyến đi
đó, đã không hề thắc mắc hay nhắc tới một chữ về việc Trung Cộng đòi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng-Trường Sa, dù cả hai đều biết “ các quần đảo này của VNCH. Từ
đó, Nixon ra lệnh cho hạm đội 7 tại Thái Bình Dương phải ở xa hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa đúng 12 hải lý như Trung Cộng đã quyết định.
Ngày 11-1-1973 Trung Cộng công khai tuyên bố chủ quyền trên toàn
thể các đảo của VN trong biển Ðông. Ngày 26-12-1973 Bắc Kinh bắt đầu
thương thuyết việc khai thác dầu khí tại vịnh Bắc Việt với Ý Ðại Lợi. Tháng
1-1974 giặc Tàu xua hải lục không quân chiếm Hoàng Sa và dù Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu đã trực tiếp yêu cầu Bộ Quốc Phòng Mỹ giúp nhưng Mỹ lại
ra lệnh Hạm Ðội 7 không can thiệp, kể cả cấm vớt các chiến sĩ hải quân
VNCH lâm nan trong cuộc hải chiến trên, dù lúc đó hai bên vẫn còn là đồng minh đồng đội.
Ngày thứ bảy 17-2-1979 lúc 3 giờ 30 sáng, 600.000 quân Tàu tiền pháo
hậu xung, ào ạt mở cuộc xâm lăng đại quy mô vào VN, trên vùng biên giới
từ Lai Châu tới Móng Cáy. Thế là tình nghĩa vô sản quốc tế trong sáng
giữa hai nước, đã trở thành hận thù thiên cổ. Những địa danh Cao Bằng,
Lạng Sơn, Ðồng Khê, Thất Khê lại đi vào những trang Việt sử đẫm máu của
VN chống xâm lăng Tàu. Cuộc chiến thật đẫm máu ngay từ giờ phút đầu.
Quân Tàu dùng chiến thuật cổ điển thí quân với tiền pháo hậu xung, bằng
các loại hỏa tiễn 122 ly và đại bác nòng dài 130 ly, với nhịp độ tác xạ 1
giây, 1 trái đạn. Sau đó Hồng quân tràn qua biên giới như nước lũ từ
trên cao đổ xuống. Tuy nhiên khắp nơi, Trung Cộng đã gặp phải sức kháng
cự mãnh liệt của VN, một phần nhờ địa thế phòng thủ hiểm trở, phần khác
là sự yểm trợ hùng hậu của pháo binh các loại, gây cho giặc Tàu nhiều
tổn thất về nhân mạng tại Lạng Sơn và Cao Bằng.
Tóm lại sau 16 ngày giao tranh đẫm máu, Trung Cộng cũng như Khmer đỏ,
tàn phá tất cả tài sản của dân chúng, bắn giết tận tuyệt người VN, san
bằng các tỉnh biên giới, mà suốt cuộc chến Ðông Dương lần II (1960-1975)
gọi là vùng an toàn. Ðã có hằng trăm ngàn vừa dân vừa lính của cả hai
phía thương vong. Tại miền bắc, hằng triệu dân chúng phải phân ly. Nhà
cửa, vườn ruộng, của cải vật chất, đền đài, miếu võ, nhà thờ, di tích tổ
tiên bao đời để lại đều vì VC gây chiến tranh, mà tan tành theo cát
bụi.
Cuộc chiến tưởng đâu đã chấm dứt, vì VC dấu nhẹm tin tức từ ấy cho
đến năm 2006, nhờ mạng lưới Internet của Bộ Quốc Phòng Trung Cộng
(Defense-China.com) và tác phẩm ‘ Dữ kiện bí mật của cuộc chiến tranh
Trung-Việt (Secret Records of Sino-Vietnamese War) ‘ của Jin Hui, Zhang Hui Sheng và Zhang WEi Ming, cả thế giới biết được ‘ Bí Mật Lịch Sử về việc Tàu chiếm Núi Ðất của VN, trong cuộc chiến biên giới lần hai (1984-1989) ‘.Theo
tài liệu dẫn chứng, năm 1984 Trung Cộng lại viện cớ CSVN thường pháo
kích và tấn công biên giới, nên bất thần tấn công cưởng chiếm Núi Ðất
của VN tại tỉnh Hà Giang (Thượng Du Bắc Phần), mở màn cho cuộc chiến
Biên Giới Việt Hoa lần thứ hai, kéo dài từ năm 1984-1989 mới chấm dứt,
do Việt Cộng tự bỏ đất rút quân, nhượng bán (?) lãnh thổ cho giặc Tàu.
CSVN, ngay từ lúc còn trong trứng nước vào những năm đầu thập niên 30
của thế kỷ XX cho tới đại hội đảng bất thường lần thứ 6 vào đầu tháng
10-2012, từ Hồ Chí Minh tới tập đoàn cầm quyền Trọng-Sang-Dũng và hầu
hết các chóp bu trong bộ chính trị và trung ương đảng “ đời đời biết ơn và luôn giữ sự thờ kính với Trung Cộng “.
Ðiều này cũng không có gì lạ vì hầu hết các cán bộ lớn nhỏ của cộng
đảng VN trước khi sang Liên Xô học hỏi kỹ thuật bán nước giết dân tại
Ðông Phương Hồng, đều đã trải qua thời gian huấn luyện quân sự và chính
trị tại Hoa Lục.
Ngày nay nhờ sự bạch hoá của nhiều văn khố trên thế giới và nhất là
sự tiết lộ của Tàu đỏ, cho thấy dã tâm của Trung Cộng qua cái gọi là ‘đồng chí XHCN hay 4 tốt 16 chữ vàng ‘ thực chất chỉ là lợi dụng xương máu của người VN qua bình phong ‘ sát cánh anh em chung ý thức hệ cộng sản ‘
, để bảo vệ dùm biên giới phía nam của chúng. Năm 1968 sử gia Pháp
Francois Joyaux đã dựa vào tài liệu lưu trữ trong văn khố kết luận “sự có mặt lần đầu tiên của Mao tại hội nghị Geneve 1954, đã chứng tỏ sự quan tâm lớn lao tới tình hình Ðông Dương thời đó của Trung Cộng%
0 comments:
Post a Comment