Nguyễn Vy Khanh
11/20/2013
11/20/2013
Ở
hải-ngoại, từ giữa thập niên 1980, từ sau cuốn hồi-ký của ông Đỗ Mậu,
các hồi-ký về cái chết của Việt-Nam Cộng-Hòa, về cái chết của Đệ nhất
cộng hòa và anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm, về cuộc chiến chấm dứt ngày
30-4-1975 ở miền Nam, ... đua nhau xuất-bản, tái-bản. Sử liệu thì cũng
có dù giả-chân đầy ra đó, nhưng không thiếu những lời tự biện hộ hoặc tự
đề cao cá nhân và phe nhóm; toàn là lời chót lưỡi của những con người
khi có quyền lực đã không làm gì hoặc đã nhúng tay vô chàm hay đồng lõa,
nay đánh bóng lại cái sai lầm, cái đồng lõa một thời, và nếu có thủ
phạm thì toàn là người đã chết không còn tự biện hộ hoặc phản pháo lại
“đồng đội” được nữa! Và mỗi năm đến ngày 2 tháng 11, người ta lại tổ
chức tưởng niệm người đã chết, chạy theo khí tiết người bị giết, đăng
đàn diễn thuyết, ra sách, viết báo về những chuyện tưởng chưa bao giờ
nghe nhưng thực ra đã nghe đâu đó rồi! Năm nay là đã 50 năm sau ngày đảo
chánh 1-11-1963, công tội đã rõ, nhưng người ta vẫn chưa thỏa mãn,
đặc-biệt người ta mong đợi cuốn Hồi-ký của Bà Ngô Đình Nhu từ nhiều năm
qua – mong đợi có thể vì tò mò và sẵn sàng “phản pháo, đính chính, chụp
mũ” hơn là vì muốn biết Bà Ngô Đình Nhu nghĩ gì về những biến cố bi thảm
đã xảy ra cho đất nước và cho riêng gia-đình bà và chồng bà.v
Và
cuối cùng, sau gần 47 năm im hơi lặng tiếng, bà viết xong tập hồi-ký
ngày 22-8-2010 tại nhà riêng (Tịnh-Quang-Lâu) ở ngoại ô Rome nước Ý, do
sự thôi thúc của cô gái út Lệ Quyên và con rể Olindo Borsoi (mà bà xem
là do Chúa sắp đặt vì bà đã muốn giữ im lặng, tr. 190), và 6 tháng sau,
ngày 24-4-2011, bà qua đời tại bệnh viện ở La-Mã, tên thánh Maria (bà
trở lại đạo Công-giáo sau khi lập gia-đình), thọ 87 tuổi, sau 48 năm
sống lưu vong. Hôm 2-11-2013 vừa qua tại nhà thờ giáo xứ Việt-Nam ở
Paris, nhân lễ tưởng niệm 50 năm ngày qua đời của Cố Tổng Thống Ngô Đình
Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu, thứ nam của ông bà Ngô Đình Nhu là ông Ngô
Đình Quỳnh đã cho ra mắt quyển sách tiếng Pháp La République du Việt
Nam et les Ngô-Đình ( Nền Cộng Hòa Việt Nam và Gia Đình Ngô-Đình) mà hơn
một nửa là di-cảo hồi ký của mẹ ông. Ông đã cho biết lý do ra đời của
quyển sách này như sau: “Cuốn sách được xuất bản hôm nay có một phần hồi
ức của Mẹ tôi được ghi chép từ năm 1963. Đồng thời chúng tôi có ý muốn
soi sáng một phần của lịch sử hãy còn mù mờ. Một số sai lầm về hình ảnh
của hai anh em họ Ngô mà cả bên Tây Phương lẫn đảng Cộng sản Việt Nam đã
lưu truyền. Từ quyển sách này chúng tôi muốn đem lại cái nhìn đúng đắn
hơn, đồng thời có phần đóng góp của Mẹ tôi với nhãn quan có phần huyền
bí của Bà. Thế thôi!». Chúng tôi được một tín hữu cùng giáo xứ với bà
Nhu ở Paris gởi cho một bản; trong bài này chúng tôi chỉ ghi lại những
điểm đặc-biệt hoặc ít được biết, hoặc theo cách nhìn và cắt nghĩa của bà
Nhu, còn phần thần học tâm linh, sẽ để một dịp khác hoặc người khác
trong ngành bàn đến.
Tập
sách 246 trang nhưng phần hồi-ký do Bà Ngô Đình Nhu viết với tựa đề “Le
Caillou blanc” (Viên Sỏi Trắng) được hơn 130 trang (tr. 109-241) kể cả
phụ lục 3 bức thư viết tay chưa từng công bố của ông Ngô Đình Nhu viết
gởi cho đồng môn Ecole des Chartes ở Paris (20-4-1956, Tết 1963 và
2-9-1963) nay vẫn được giữ ở Văn khố nhà trường này. Phần đầu do hai
người con Ngô Đình Quỳnh, Ngô Đình Lệ-Quyên (tử nạn giao thông,
16-4-2012) và bà Jacqueline Willemetz dẫn nhập với tài liệu gia-đình về
lịch-sử Việt-Nam từ sau ngày thành lập nền đệ nhất cộng hòa, ngày
26-10-1956, đến cuộc đảo chánh 1-11-1963 và sau đó.
Bà
Ngô-Đình Nhu nhủ danh Trần Lệ Xuân, sinh năm 1924 tại Hà-Nội, thân phụ
là Trần Văn Chương, con Tổng đốc Nam Định, mẹ là Thân Thị Nam-Trân - với
bên ngoại, bà Nhu là cháu ngoại vua Đồng Khánh và là cháu họ vua Bảo
Đại. Bà Nhu gọi ông Bùi Quang Chiêu là “ông bác” (anh cả của bà nội) bị
Hồ Chí Minh ra lệnh giết một cách tàn ác giết hết cả nhà kể cả 6 người
con mà đứa nhỏ nhất mới 6 tuổi; cả Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân cũng là anh
em họ với thân phụ bà. Bà học Albert Sarrault, thi đậu tú tài Pháp. Năm
19 tuổi, bà kết hôn với ông Ngô Đình Nhu ở Hà-Nội ngày 30-4-1943, sau
đó ông bà về sống ở Huế.
Không
biết khi đặt tựa Viên Sỏi Trắng/Le Caillou blanc cho cuốn hồi-ký, bà
muốn nói thân phận bà bị lịch-sử đối xử như vậy mà vẫn trắng trong, nhỏ
bé, hay muốn tả nỗi lòng trơ như đá, bất nhẫn trước thời cuộc? Thật vậy,
trong hơn nửa tập hồi-ký, bà nói đến chuyện tâm linh, những chuyện
cao xa hơn chuyện thế tục thường tình, về sự hiện hữu của Thượng Đế và
của con người. Mở đầu hồi-ký, bà Nhu ghi lại lời sách Khải Huyền “Ai
có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh: Ai thắng, Ta
sẽ ban cho man-na đã được giấu kỹ; Ta cũng sẽ ban cho nó một viên sỏi
trắng, trên sỏi đó có khắc một tên mới; chẳng ai biết được tên ấy, ngoài
kẻ lãnh nhận” (Apocalyse 2, 17). Và thêm lời Thánh Thư Luca : “Ai là
người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy là người lớn nhất” (Luc 9,
48).
Bà
bắt đầu hồi-ký ở chương 1, “Lý lẽ của định mệnh” như sau: “Vào cuối
cuộc đời tôi, sau nửa thế kỷ im lặng, và vì ý nghĩa đơn thuần của nhiệm
vụ, tôi ghi lại những gì cần phải được biết. Đó là sự giải thoát cho tất
cả. Không phải để thỏa mãn tò mò nào đó, nhưng để trả lại những gì mà
định mệnh đã đòi hỏi “kẻ nhỏ nhất” của Thiên Chúa, vào thời điểm của kẻ
đó. Tôi bắt đầu cuốn ký ức này, nếu tôi có thể viết xong được, cốt để
làm cho người khác hiểu được những đòi hỏi của một chuỗi dài đời-sống đã
được định sẵn trước, nhận ra rằng cuộc sống không bao giờ có hành động
trái với ý muốn của mình, mà trái lại, luôn luôn như là phải như vậy”
(tr. 112).
Như
vậy, bà xem thân phận bà như viên sỏi trắng “nhỏ bé” mà định mệnh đã
đặt vào thời đó, nơi đó. Từ suy nghĩ về cuộc đời mình, bà khám phá ra
được Thiên Chúa một cách bất chợt và khủng khiếp. Cái gì thuộc về Tạo
Hóa sẽ trả lại cho Tạo Hóa để thực hiện đầy đủ và tột cùng chương trình
của con người. Định mệnh, đó là cắt nghĩa đơn giản của bà lúc này là lúc
bà đã bắt đầu cảm nhận sống những ngày tháng cuối đời, và trước nay bà
sống một cuộc sống mà bà không bao giờ nghi ngờ gì.
Bà
ra đời do một bác sĩ người Pháp đỡ đẻ thay vì là một cô mụ người Việt,
ông ta nắm 2 chân trẻ sơ sinh và đánh vào mông thật mạnh cho đến khi đừa
bé khóc ré lên phản đối. Đó là khung cách bạo lực mà bà đến với cuộc
đời này, đã vậy mẹ bà lại thất vọng vì bà là cô con gái thứ hai. Sau bà
là một em trai sẽ khiến mẹ bà càng hất hủi bà - khi cha mẹ bà vào
Sài-Gòn, đã để một mình bà lại cho bà nội nhưng sinh hoạt chung với
người làm, khiến bà bị bệnh nặng. Được về sống lại với gia-đình, bà lớn
lên trong tự tin một cách tự nhiên, dễ chấp nhận nhưng cũng sẵn sàng đối
đầu với thực tại, ở trường cũng như trong gia-đình, nhưng bà không được
yêu thương như chị và em trai, trở thành đứa trẻ không thể động đến
(Intouchable). Khiến về sau bà biết lúc cần xuất hiện và lánh mặt khi
không còn cần thiết, cho đến khi bà phải đối đầu với Tây phương,
thực-dân và đế quốc, bà vốn dè dặt một cách đặc-biệt. Đối đầu đòi hỏi sự
tôn trọng tha nhân, nhưng ở đời không phải lúc nào cũng vậy, bà thường
rút lui, không muốn tấn công ra mặt, cuối cùng bà chịu sự bất cảm thông
hoặc ác ý của kẻ kia.
Năm
17 tuổi, bà gặp ông quản thủ thư viện Ngô Đình Nhu, lần đầu khi đến
thăm gia-đình bà vốn là chỗ thân giao từ kinh thành Huế. Hai người mến
nhau từ việc ông Nhu đến mà cô Trần Lệ Xuân chưa chưng xong hoa vừa đi
mua về theo lệnh mẹ; cô gái đẩy ông Nhu vào phòng đợi nhỏ và dặn chỉ
được đi ra khi cô xong chậu hoa. Sau đó thì chàng tặng sách, nàng hồi
thư – được chàng tặng cho danh hiệu “Bà De Sévigné” vì thư nào cũng dài
hơi và linh hoạt. Chính ông Ngô Đình Diệm quyền huynh thế phụ (đã mất)
đến xin hỏi cưới cô Xuân cho em mình. Sau ngày cưới, cô Xuân hài lòng
thoát gia-đình, đưa theo bà vú, về nhà chồng ở Huế. Vai trò bà đã thay
đổi, hết bị rẻ rúng như ở với cha mẹ, nhất là từ khi anh cả Ngô Đình
Khôi và con trai nối dòng bị Việt-minh giết, con cái bà sẽ nối dõi tông
đường. Bà vú xin thôi việc sau đó vì cảm thấy không thiết yếu trong
khung cảnh sống mới, điều mà bà Nhu sau này tiếc nuối, nhất là thời gian
bị Việt-minh bắt lên rừng và sống ở Đà-Lạt.
Bà
cảm nhận rằng rừng núi Nam-Giao, một nơi thiêng liêng độc nhất ở
Việt-Nam, tượng trưng cho sự đợi chờ Thần Thánh Vạn Năng không tên, của
cả một dân-tộc, trãi qua nhiều tôn giáo. Bà đã du lịch nhiều nơi nhưng
chỉ có Nam Giao là đã cho bà ấn tượng mãnh liệt rằng thần linh đã chúc
phúc cho dân-tộc Việt. Bà không thể lường trước cuộc sống đầy bất trắc
với chồng và gia-đình chồng, nhiều lúc bà trách chồng “dối” bà (không
tiết lộ gì) khi làm chính-trị, bí mật. Ban đầu ông Nhu thường sang nhà
các người anh để trò chuyện, đến bữa ăn ông bà sang nhà từ đường phía
bên kia kinh An Cựu để dùng bữa. Một năm làm quen với Huế và đại
gia-đình nhà chồng, thì bất hạnh xảy đến cho người anh cả Ngô Đình Khôi
và con trai ngày 22-8-1944. Sau đó chồng bà biến mất, sợ rơi vào tình
huống của ông anh cả và ông Ngô Đình Diệm, người anh thứ ba, cũng đã bị
Việt-minh bắt trên xe lửa từ Sài-Gòn về Huế và đưa ra nhốt ở miền
thượng-du Bắc Việt từ tháng 9-1945 đến 12-1946. Ông Diệm được thả ở
Hà-Nội nhờ chồng bà đã gặp ông Hồ, vả lại họ Hồ bí không trả lời ông
Diệm được tại sao lại giết anh cả và cháu của ông. Ông Nhu đã ra Hà-Nội
lúc đó, ở nhà cha mẹ bà và không ai biết ông làm gì lúc đó (bà Nhu không
hay biết gì, mà ông Nhu cũng không hề kể). 20 tuổi, một mình ở Huế dù
có người làm, bà dần dà thấy chồng bà không những không bảo vệ bà mà còn
là một mối nguy cơ đe dọa bà và tiểu gia-đình bà (tr. 135) – may mà bà
còn có an ủi: ngày 27-8-1945, bà hạ sinh cô con gái đầu Lệ-Thủy.
Ông
bà Trần Văn Chương cuối cùng bỏ Hà-Nội (villa bị tịch thu) vào ở Huế,
ông Nhu cũng trở về Huế, nhưng cán bộ cộng-sản đến nhà tìm, bà Nhu đã
khéo léo lần lữa bắt tên này chờ đến phải bỏ về và hẹn trở lại, nhưng
đêm đó ông Nhu phải bỏ trốn, và bà Nhu không có tin tức chồng trong một
thời-gian dài sau đó. Sau ngày 19-12-1946, chiến-tranh lại bùng nổ, bộ
đội Việt-minh cưỡng bách gia-đình bà Nhu phải bỏ nhà cửa sơ tán khỏi
thành phố Huế theo vào vùng họ kiểm soát, trãi qua suốt mùa Đông lạnh
lẽo. Cuối cùng mẹ con bà được một linh-mục Dòng Chúa Cứu Thế đem thuyền
đến giúp trốn về Nhà Dòng, ở nhà kho nơi ông Cẩn đang tạm trú, nhưng hôm
sau bà ôm con 3 tuối theo xe vào Đà Nẵng và mua vé máy bay quân sự vào
Sài-Gòn. Tạm trú ở nhà người chị, bà Nhu vô cùng ngạc nhiên gặp lại
chồng bí mật ở nhà Dòng Chúa Cứu Thế. Sau đó ông bà lên sống ở Đà Lạt, ở
nhà người chị của bà, theo bà là "thời gian hạnh phúc nhất", bà sinh
thêm hai người con trai, Ngô Đình Trác 1947 và Ngô Đình Quỳnh 1952, và
cuộc sống của gia-đình bà tại Đà Lạt tuy giản dị, trong khung cảnh hoang
dã nhưng an ninh, lúc đầu xa rời chính trị. Nhưng rồi bà thừa nhận bà
đã cô độc khi ở đây và viết: "Chồng tôi thường biến mất mà chẳng nhắn
lại gì" (tr. 152).
Từ
khi ông Ngô Đình Diệm, anh chồng bà, được cử làm Thủ tướng từ Pháp về
nhận chức (7-7-1954), ông bà Nhu xuống Sài-Gòn để phụ tá. Ông bà Nhu và 3
con sống tạm nhiều nơi trước khi về ở trong Dinh Độc Lập. Ông Nhu làm
báo Xã-Hộitòa soạn ngay trong căn nhà nhỏ hẹp. Trong lúc thủ đô Sài-Gòn
tình hình chưa ổn định, phe Bình Xuyên và tay chân của Pháp liên tục
quấy phá, bà Nhu đã thành công một việc ngoài sức tưởng tượng: nhân dịp
tướng Nguyễn Văn Xuân mời ông bà Nhu ăn ở một nhà hàng trong Chợ Lớn, bà
Nhu đã hỏi thẳng ông Xuân tại sao không cách chức tướng Nguyễn Văn Hinh
tổng tư lệnh quân đội, ông Xuân đã thách thức bà Nhu tìm cho được 5 chữ
ký thì ông sẽ thuận theo yêu cầu đó. Bà Nhu tình cờ gặp những người từ
Bắc mới di cư vào, cùng họ vận động những người di cư kín đáo tụ tập rồi
giơ cao biểu ngữ trước nhà thờ Chánh tòa Sài-Gòn ngày 21-9-1954. Dù
cảnh sát Bình Xuyên được mật báo nên đã có mặt ở trại di cư trước với 2
xe tăng, bà lái chiếc xe hiệu Panhard đến và tra hỏi tại sao cảnh sát
lại cấm cản người dân đi chợ. Đám cảnh sát bỏ đi, xong trở lại, bà lên
xe rồ máy bỏ chạy đến trước nhà thờ nơi mà những người di cư đang chờ,
và họ đã giương cao biểu ngữ ủng hộ kiến nghị của bà Nhu (đòi hỏi tướng
Hinh phải từ chức). Hình ảnh và thông tin được gởi cho tờ báo tiếng Pháp
duy nhất ở Sài-Gòn.
Ông
Trần Chánh Thành bộ trưởng Thông tin đã kiểm duyệt không cho báo-chí VN
đăng tin đó, nhưng báo tiếng Pháp đã đăng tải phổ biến thông tin và
hình ảnh vụ biểu dương mà không được phép của chính phủ. Phó thủ tướng
kiêm bộ trưởng Quốc phòng Nguyễn Văn Xuân đã phải từ chức 3 ngày sau đó,
trở thành “nạn nhân” đầu tiên của bà Nhu (tr. 165). Nội các Ngô Đình
Diệm phải cải tổ, bà Nhu bị người Pháp với sự giúp đỡ của người Mỹ, ép
đưa đi ra ngoại quốc 3 tháng để Nội các cải tổ được ổn định, và để bà
Nhu không thể ra ứng cử dân biểu Quốc hội lập hiến và lập pháp sau đó.
Nhưng vô ích, vì dù ở xa, bà sẽ vẫn đắc cử, với sự ủng hộ của tập thể
người di cư. Bà sang Hoa-Thịnh-Đốn nơi ông thân bà làm đại sứ ở Hoa-Kỳ,
ông đưa bà đến ăn sáng do thượng nghị sĩ J.F. Kennedy (về sau đắc cử
Tổng thống) mời, sau đó bà ở lâu hơn ở tu viện nữ người Ý ở Hương-Cảng.
Bà tận dụng thời-gian ở đó để học thêm tiếng Anh.
Bà
Nhu trở về miền Nam và vào ở trong Dinh Độc Lập. Sau Trưng cầu dân ý
23-10-1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng thống, mở đầu cho nền
Đệ nhất Cộng-hòa, và cử ông Ngô Đình Nhu chính thức làm Cố vấn
chính-trị – với chức này, ông Nhu đề ra thuyết Nhân Vị đề cao tính siêu
việt của con người, tức sự tái sinh bởi khả năng con người hành xử Đức
độ như Thiên Chúa đã dạy (Mt. 19, 28). Theo bà Nhu, thực dân Pháp chưa
buông tha, rút người về Cam Bốt, từ nơi đó tổ chức gây rối ở miền Nam.
Vụ tiếp theo là vụ ám sát Tổng thống Diệm ở Ban-Mê-Thuột, có liên quan
đến Lê Văn Kim người của Pháp đào tạo và từng là tùy viên của Thierry
d'Argenlieu, đang là chỉ huy Trường Võ bị Đà-Lạt. Rồi đến vụ đảo chánh
11-11-1960 và vai trò của tướng Nguyễn Khánh từng là tùy viên của thủ
tướng Nguyễn Văn Xuân và từng tổ chức những buổi pique-nique ở Đà Lạt có
bà Nhu và Bảo Đại, Nguyễn Khánh xưng là đại diện cho nhóm đảo chánh. Bà
Nhu tin là do Pháp giật dây. Bà Nhu đã can thiệp khi thấy tướng Khánh
dùng thủ đoạn đánh điểm yếu của Tổng thống Diệm là thương người và sợ đổ
máu. Bà Nhu hối chồng hất cẳng tướng Khánh và kêu gọi quân lính trung
thành về chiếm lại đài phát thanh. Tướng Khánh do đó bị đám đảo chánh
kết tội phản bội, nhưng đã thua nên phần lớn bỏ trốn sang Nam Vang. Đại
diện CIA gặp anh em Tổng thống Diệm cam đoan là Hoa-Kỳ đã đứng ngoài vụ
đảo chánh, bà Nhu có mặt ở đó đã trách móc người Mỹ “Tôi không mong chờ
các ông đồng minh, tức là bạn, giữ trung lập trong vụ này!”.
Thái
độ của bà Nhu gây chú ý của Hoa-Thịnh-Đốn. Vụ tiếp theo là chuyến viếng
thăm Việt-Nam của Phó tổng thống Lyndon B. Jonhson ngày 12-5-1961. PTT
Mỹ xuống máy bay, bất chấp nghi thức ngoại giao, thay vì đến chào PTT
Nguyễn Ngọc Thơ trước, ông đã đến thẳng bà Nhu, khiến ông Thơ phải chạy
theo sau lưng ông PTT Mỹ. Trong buổi điểm tâm sau đó do PTT Thơ mời, có
cả ngoại giao đoàn và các dân biểu, ông PTT Johnson thêm một lần gây bối
rối khi mời bà Nhu sang thăm trang trại của ông ở Texas mà bà Nhu lại
từ chối với lý là chưa có dự tính đó. Vô tình bà Nhu nói dí dỏm sẽ sang
thăm nếu ông PTT trở thành Tổng thống. Không ngờ lời nói đó khích động
PTT Mỹ, ông kéo bà Nhu ra bao lơn nhưng vô tình sức mạnh kéo tay bà Nhu
lại kéo luôn phu nhân Chủ tịch Quốc hội, ông nhìn thấy hớ hênh bèn chữa
thẹn rằng muốn bà Nhu giới thiệu thắng cảnh Sài-Gòn từ bao-lơn. Không
ngờ lời nói cho qua chuyện lại thành sự thật hơn 2 năm sau đó. Năm 1964,
ông Ngô Đình Cẩn - thành viên cuối cùng của dòng họ Ngô Đình còn ở
Việt-Nam, bị xử tử sau khi đã xin tị nạn chính-trị với lãnh sự Hoa-Kỳ ở
Huế lại bị giao cho nhóm đảo chánh dựng tòa án kêu án tử hình. Bà Nhu đã
viết thư yêu cầu TT Johnson can thiệp, nhưng ông đã tỏ ra “hèn hạ” (tr.
177)
-
Bà Nhu từng khen ông Cẩn phụ trách cả miền Trung khiến nơi đó yên bình
mà không tốn kém gì cho chính quyền Sài-Gòn (tr. 182). Trước đó, vào mùa
Thu 1963 khi sang Hoa-Kỳ “giải độc”, bà Nhu đã nhận lời mời đến thăm
trang trại của hàng xóm của Johnson, Johnson đã không có hành động gì và
trong 1 lá thư duy nhất trả lời thư bà Nhu hỏi tại sao ông ta có vẻ sợ
bà, ông viết ”Làm sao tôi có thể sợ một phụ nữ tuyệt vời như bà?”. Lá
thư này về sau bà gởi lại một người bạn đồng môn của ông Nhu ở Paris nhờ
giữ khi bà Nhu dọn về Rome, đã bị một người đánh tiếng với con trai
trưởng của bà Nhu là sắp chết nên muốn nhìn thấy nó trước khi chết,
nhưng lá thư không bao giờ trở lại - về sau bà Nhu mới biết người này
làm cho tình báo Pháp.
Đắc
cử dân-biểu, đến năm 1958, bà đề nghị Luật Gia-Đình có mục-đích giải
phóng phụ nữ về mặt pháp lý (một vợ một chồng, nam nữ bình quyền cả
trong quản trị, sử-dụng và phân chia gia sản, thừa kế di sản, v.v.), đã
bị đa số vẫn còn tinh thần gia trưởng, gia tộc hoặc đa thê, phản đối; dù
Hiến pháp 26-10-1956 đã nêu cao nam nữ bình quyền nhưng trong thực tế,
người phụ nữ vẫn phải phục-tùng chồng là người vẫn được xã-hội xem là
giám-hộ. Bà tổ chức Phong trào Phụ nữ Liên đới (với hình biểu tượng Ngọn
đèn dầu của những cô trinh nữ trong Thánh Kinh) kêu gọi và giúp đỡ
người phụ nữ ra đời làm việc xã-hội, thiện nguyện. Bà Nhu kêu gọi tinh
thần tái dựng lòng yêu nước. Cùng lúc, bà tổ chức lực lượng Phụ nữ bán
quân sự (10-1961) tự nguyện, được huấn luyện tự vệ, sử-dụng vũ khí và y
tế thường thức. Trưởng nữ Lệ Thủy cũng gia nhập lực lượng này từ khi 16
tuổi.
Sáng
sớm ngày 27-2-1962, thêm một vụ chính biến do 2 phi công bắn phá Dinh
Tổng thống. Con cái bà bị thương và bà phải vào bệnh viện vì muốn cứu
con với bà vú của cô út Lệ Quyên. Biến cố khiến bà thêm ghê tởm bọn thực
dân (tr. 180) - bà ghi rõ vụ bắn phá Dinh Tổng thống là do thực dân
(“colon”), sau đó là căn nhà từ đường bằng gỗ của gia-đình Ngô Đình ở
Huế cũng bị phá hủy, do “la rage francaise contre le Việt-Nam que nous
représentions...”(tr. 181).
Xảy
ra vụ Phật giáo, bà Nhu muốn có đại diện các đảng phái và các nhóm
xã-hội trong Ủy Ban Liên Phái, nhưng Tổng thống Diệm không thuận vì
không muốn có bà. Nhưng khi xong Thông cáo chung và bên Phật giáo đã ký,
ông Nhu lại hỏi ý kiến bà trước khi cố vấn Tổng thống ký. Bà thấy lạ vì
các đòi hỏi của Phật giáo đều là những thứ chưa bao giờ cấm, bà đề nghị
ký nhưng ghi tay thêm mấy chữ là những đòi hỏi trong đây chưa bao giờ
cấm. Ông Cố vấn đem Thông cáo chung đến buổi họp sau đó và nói lại ý vừa
kể, ngoại trưởng Phật giáo Vũ Văn Mẫu yên lặng không nói gì, nhưng Phó
Tổng thống Thơ phát biểu: ”Họ uống trà sâm còn mình uống trà thường
khiến mình thành người ngu”. Vì câu nói này mà ông Mẫu cạo đầu từ chức.
Theo bà Nhu cũng ông VV Mẫu này đến cận ngày 30-4-1975 nghe lời thực
dânủng hộ và theo tướng Big Minh (lực lượng thứ 3), nhưng đế quốc mạnh
hơn muốn chấm chấm dứt chiến-tranh (tr. 188)!
Trước
ngày đảo chánh, từ ngày 12-9-1963, bà Nhu và cô trưởng nữ Ngô-Đình
Lệ-Thủy lên đường đi “giải độc” ở Âu châu và Hoa-Kỳ; trước khi xảy ra vụ
ám sát anh em Tổng thống, bà và con gái được đông đảo cảnh sát bảo vệ,
nhưng sau đó thì bị bỏ rơi, may có một gia-đình người Mỹ do 1 linh-mục
giới thiệu, đã giúp đỡ mẹ con bà cho đến khi rời nước Mỹ đi Rome. Phần
ông Cô vấn Ngô Đình Nhu, vài ngày trước đảo chánh đã gọi cậu Ngô Đình
Trác đưa 2 em lên Đà-Lạt và dặn dò khi có biến hoặc ông Nhu chết, thì
phải đưa 2 em trốn vào rừng. Khi xảy ra tiếng súng đảo chánh, các cô cậu
đã chạy trốn vào rừng phía sau nhà, trãi qua một đêm trong mưa lạnh. Cả
ngày hôm sau đi xuyên qua sông rạch để tránh để lại dấu vết, và cuối
cùng đến một nơi trực thăng có thể đáp và chờ đợi. Chỉ trong vòng ba
ngày, mấy đứa trẻ đã thoát khỏi sự nguy hại và tới được Rome trước khi
mẹ và chị cũng đến đó.
Ngày
15-11-1963, bà và con gái rời Los Angeles để đi Roma sinh sống. Bị đế
quốc bỏ rơi, nhưng ở phi trường đầy phóng viên báo-chí và truyền hình.
Rồi lúc ghé Paris, bà cũng được đông đảo báo-chí phóng viên đón như vậy,
ông đại sứ Mỹ ở Paris bí không biết phải trả lời báo-chí ra sao bèn nói
“Chúng tôi có làm gì thì cũng vẫn bị nguyền rủa!”. Nhưng ít có nhà báo
nào dám nói lên hết sự thật, bà Nhu được ông nhà báo Georged Mazoyer dám
bênh phía bà, nhưng ông ta vừa được thăng chức giám đốc một nhật báo ở
Paris ra ban chiều thì liền bị xe đụng chết khi đi bộ. Bà Nhu thấy những
ai đứng về phía bà đều bị biến mất (tr. 189-190): kế đó là bà Suzanne
Labin và Marguerite Higgins (3-1-1966) – được Tổng thống Kennedy gửi
sang Việt-Nam điều tra riêng, bà là tác-giả cuốn Our Việt-Nam Nightmare
(1965), trong đó bà cho rằng biến cố Phật giáo chỉ là một trò đánh lừa
(leurre), mục-đích không vì Phật giáo mà vì muốn lấy đầu ông Diệm và
thay vì bỏ lên mâm bạc như Thánh Jean-Baptiste tử đạo, thì nay phải quấn
cờ Mỹ; và bà nhận xét các sư sãi rất rành tên các phóng viên ngoại
quốc, gọi họ bằng tên/prénom!
Vào
tháng 6 năm 1964, hiệp hội báo chí Hoa-Kỳ tổ chức mời bà Nhu và con gái
Lệ Thủy sang Mỹ làm một vòng để các cơ quan thông tin báo-chí tìm hiểu
sự thật (Truth Rally) về thực trạng Việt-Nam vì các cơ quan này không
tin giải thích của Hoa-Thịnh-Đốn (tr. 71). Lúc đó nước Mỹ chuẩn bị bầu
cử Tổng thống thay thế T.T. Kennedy, chính phủ Mỹ đã từ chối cấp visa
cho 2 mẹ con bà Nhu lấy “lý do an ninh quốc-gia“. Ngày 9-5-1975, khi trả
lời phỏng vấn của đài truyền hình, bà Nhu đã tố cáo chính quyền Kennedy
can thiệp vào Nam Việt Nam là "nhằm tạo thanh thế và sự ủng hộ cho Đảng
Dân chủ Hoa Kỳ". Bà cũng bình luận cảnh đại sứ Mỹ Martin chờ trực thăng
tới đón trên nóc nhà, cờ Mỹ cuộn dưới nách: “Cường quốc Mỹ dùng để làm
gì, nếu không phải là để phải trốn chạy theo họ?”.
Năm
1985 khi báo-chí Hoa-Kỳ làm kiểm điểm 10 năm Hà-Nội chiếm miền Nam, bà
Nhu đã nhận trả lời phỏng vấn cho Newsweek, nhưng các cơ quan thông tin
này đồng lõa với nhau để không ai liên lạc được với bà (tr. 71). Bà sống
lúc tại vùng Riviera nước Pháp, lúc ở nhà bên Roma, bà trả lời phỏng
vấn một lần khác để lấy tiền và vé máy bay khứ hồi cho con gái út qua
thăm ông bà ngoại ở Mỹ. Bà Monique Brinson Demery phỏng vấn bà Nhu năm
2005 đánh dấu lần đầu tiên bà trả lời báo chí phương Tây sau một
thời-gian khá lâu, phỏng vấn để thực hiện cuốn sách về bà Nhu, Finding
the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam's Madame Nhu (New York : Public
Affairs, 2013), nội-dung cuốn sách cho thấy bà Nhu đã nói chuyện với bà
Demery với nội-dung cuốn hồi-ký.
Suốt
tập hồi-ký, bà Nhu cho người đọc thấy và hiểu rằng bà căm ghét thực dân
Phápvà đế quốc Hoa-Kỳ(bà gọi chung là “Occident criminel”). Bà có thắc
mắc là ngoài Thánh lễ khai mạc Cộng đồng Vatican II ngày 2-12-1963 có
nhắc ý lễ cầu cho anh em Tổng thống Diệm, Tòa thánh Vatican đã không lên
tiếng và không làm gì về cái chết của anh em chồng bà (và người mà Tòa
thánh giới thiệu giúp làm giấy tờ cho căn nhà mà Đức Cha Thục mua cho mẹ
con bà ở Roma lại lừa dối cướp hết tiền gia-đình bà). Bà kể có thể đã
góp phần (qua một phỏng vấn ngay trước đó) trong việc khiến cho Hà-Nội
đã phải để cho Đức Cha Nguyễn Văn Thuận, cháu của ông Nhu, ra ngoại quốc
chữa bệnh và thoát cộng-sản; và hơi trách móc Ngài đã không làm gì cho
những cái chết của chồng và các anh em chồng bà.
Bà
cho rằng sau ngày 2-11-1963 anh em Tổng thống bị giết, nước Việt-Nam
rơi vào địa ngục là do các đế quốc thực dân và cộng-sản(tr. 201). Bà
thêm, cái chết của Lệ Thủy con gái bà vẫn chưa được điều tra đến cùng!
Về phần người Pháp, bà gọi là “tên thực dân” (colon) và so sánh với quỷ
Satan khi dùng lời Chúa Jesus cảnh báo Thánh Phê-Rô: “Satan, lui lại
đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư
tưởng của Thiên Chúa, mà là của con người” (Mt 16, 23) – vì thực dân đã
lợi dụng danh nghĩa của Giáo Hội để làm chuyện Ác đã khá lâu rồi ở
Việt-Nam. Bà Nhu cho người đọc hiểu rằng bao nhiêu biến cố, đảo chánh,
ám sát, v.v. thời Việt-Nam Cộng-Hòa đều là do bàn tay của thực dân và đế
quốc chủ động hết, do đó bà không nói nhiều đến những tay sai người
Việt của chúng. Bà cho rằng với những gì bà viết ra, chỉ có đám thực dân
là phải tự vấn lương tâm (tr. 190)!
Cuối
cùng là những suy niệm tâm linh cuối đời của bà; bà tạ ơn Chúa đã đoái
nhìn con chiên Việt-Nam qua việc đức Hồng Y tân cử của Hoa-Kỳ đã đến
La-Vang ngày 21-8-2009 dâng lời cầu nguyện “Đức Mẹ La-Vang cũng là Đức
Mẹ của quốc-gia Hoa-Kỳ và của Giáo Hội Công-giáo“. Và bà cảm ơn và hiểu
Chúa đã trao phó cho bà trọng trách làm mẹ và bà đã làm hết mình cho đến
cuối đời!
*
Trong Phần Phụ lục, trong lá thư đề ngày 2-9-1963, 2 tháng trước ngày
bị giết, ông Ngô Đình Nhu trình bày lập trường Việt-Nam chính-thực của
chính phủ của Tổng thống anh ông (Việt-Nam của người Việt Nam!) trước âm
mưu của Hoa-Kỳ đi chung với Liên Xô cộng-sản, âm mưu đưa đến
phương-tiện thôi miên, tuyên truyền, huyền-hoặc các sư sãi rồi đẩy những
kẻ này vào lửa thiêu sau khi báo cho thông tín viên quốc tế biết để đến
quay phim, chụp hình (và cản cứu người “tự thiêu”!) (1). Từ ngày ra
thiết quân luật 20-8-1963 thì hết còn tự thiêu, nhưng 2 thế lực kia lại
xúi sinh viên học sinh xuống đường như đã làm ở Đại Hàn và Thổ-nhĩ-kỳ,
nhưng ông Nhu cho là thất bại vì chính quyền bắt đi học quân sự và tẩy
não chúng. Ông Nhu biết 2 thế lực đó chưa ngừng tay vì phải biện minh
với cấp trên về việc chi 20 triệu đô Mỹ (2) cho âm mưu này!
Chú thích:
1-
Sau ngày đảo chánh 1-11-1963, còn có 6 vụ tự thiêu Phật tử khác, nhưng
không báo chí Tây phương nào để ý đến nữa! Và sau ngày 30-4-1975, đã có
biết bao nhiêu kỳ thị, kiểm soát, khủng bố tôn giáo và toàn dân, tù đày,
cướp của dân,... nhưng thượng tọa Trí Quang không có hành động nào, trở
thành câm, lặng, đồng lõa với cộng-sản Hà-Nội! Còn vụPhái đoàn Liên
Hiệp Quốc đến VN điều tra về vụ gọi là «đàn áp Phật giáo», Báo cáo được
dịch ra Việt ngữ - Vi Phạm Nhân Quyền Tại Miền Nam Việt-Nam, do Võ Đình
Cường dịch, 1 nhóm Phật giáo xuất-bản năm 1966, từ tay Thích Trí Quang
người đề tựa, nhưng đã bỏ đi phần kết luận (1 thứ lừa dư luận từ cái
thật, lộng giả thành như ... thật!). Đây là Báo cáo 234 trang trình ngày
7-12-1963 của Phái đoàn với kết luận không có đàn áp lẫn kỳ thị tôn
giáo, và những đụng độ với chính quyền chỉ là do 1 nhóm nhỏ, và có tính
cách chính-trị, không phải tôn giáo. Bản báo cáo bị giấu kín, đến tháng
2-1964, văn bản này đã được Thượng Viện Hoa-Kỳ xuất-bản.
2-
Ông Nhu tiên đoán đúng, tiếp đó là chi tiền mua chuộc mấy ông tướng
Việt-Nam làm đảo chánh và giết anh em ông ngày 2-11-1963 và sau đó là
ông Cẩn, người em khác! Lou Conein đưa 3 triệu đồng tương đương 42 ngàn
đô la Mỹ cho nhóm tướng lãnh đảo chánh để chia chác cho nhau, thật ra
chỉ là những đồng bạc lẽ từ 20 triệu đô!
Montreal, 11-2013
Nguồn: Vietcatholic News
0 comments:
Post a Comment