Ông Nguyễn Phú Trọng không phải là người
duy nhất báo động tình trạng đảng cộng sản đang nằm trên giường bệnh,
có thể chết bất cứ lúc nào, mà ông gọi là nguy cơ “đe dọa sự sống còn
của chế độ.”
Ông Trọng nói thì người ta có thể tin,
vì ông là tổng bí thư, một người nhận được tin tức có lẽ đầy đủ nhất để
kết luận mạng sống của đảng cộng sản đang bị đe dọa. Nhưng việc chẩn
bệnh của ông Nguyễn Phú Trọng không đầy đủ. Ông cho là nguyên nhân khiến
sinh mạng của đảng bị đe dọa là do cán bộ, trong đó có cả những người
giữ vị trí lãnh đạo, quản lý. Theo ông chẩn bệnh, họ bị “suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.”
Chẩn bệnh như vậy là chỉ thấy các triệu
chứng bên ngoài, không nhìn ra gốc của căn bệnh nằm từ bên trong. Ðịnh
bệnh sai thì không thấy được thuốc chữa đúng; chỉ lo chuyện chữa các
triệu chứng là không tìm hiểu tại sao lại sinh ra các triệu chứng này.
Không khác gì cứ cho một bệnh nhân uống thuốc thông cổ, tiêu đờm, giảm
chứng ho hen mà không tự hỏi tại sao bệnh nhân ho. Không tìm hiểu nên
không biết hắn đã bị ung thư phổi từ lâu rồi.
Tại sao các cán bộ bị “suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống?” Trong cơ cấu tổ chức của các đảng
cộng sản, trong phương cách đảng chiếm lấy chính quyền và sử dụng quyền
hành để cai trị, mà ông Trọng gọi là lãnh đạo và quản lý, phải chứa đựng
những căn bệnh trầm kha cho nên mới nẩy sinh ra những cán bộ như vậy.
Mà cái triệu chứng ho hen này cứ kéo dài mãi mãi, càng ngày càng nặng nề
hơn, cho thấy nếu cứ chữa trị loay hoay ở bên ngoài thì không bao giờ
hết bệnh cả.
Chúng ta sẽ phân tích những vấn đề cơ
cấu gây nên căn bệnh của các đảng cộng sản khắp thế giới. Nhưng nguyên
nhân đầu tiên không phải chỉ nằm trong cơ cấu tổ chức, mà thực ra đã có
sẵn từ khi các chế độ cộng sản đầu tiên ra đời. Ðó là những bệnh gọi là
“tiên thiên.” Giống như những đứa trẻ bị tật bẩm sinh, người Việt gọi là
“tiên thiên bất túc.”
Các đảng cộng sản ra đời dựa trên một
niềm tin, tin vào chủ nghĩa Mác-Lê Nin. Họ lập ra những chế độ gọi là
cộng sản; chế độ dựa trên một trật tự tinh thần do hai ông Karl Marx và
Lenin đặt nền tảng. Ông Marx cho họ niềm tin vào lý thuyết của ông về
lịch sử, ông bảo lịch sử đã diễn biến theo những quy luật mà ông tìm ra,
và sẽ đi theo đúng bản lộ trình đó. Cho nên, cứ theo ông mà đấu tranh
thì đi đúng đường của lịch sử. Marx đã dựng lên một thứ tín ngưỡng, cống
hiến cho người ta một niềm hy vọng ở một tương lai tốt đẹp hơn. Nhiều
người đi theo chủ nghĩa cộng sản đã sẵn sàng hy sinh mạng sống vì niềm
tin vào hy vọng tương lai; không khác gì những người ôm bom tự sát bây
giờ.
Ông Lenin đặt nền móng để thiết lập một
giáo hội, huấn luyện các giáo sĩ để thực hiện và truyền bá niềm tin đó.
Ông chủ trương dùng quyền lực nhà nước để thực hiện những điều Marx đã
tiên tri; thiết lập chế độ chuyên chính. Một niềm tin cộng với một guồng
máy chuyên chế, đó là căn bản của các chế độ cộng sản.
Nhưng chỉ cần bình tâm suy nghĩ một
chút, người ta đã thấy những lý thuyết của cả Marx lẫn Lenin đều đưa
người ta vào ngõ cụt. Bản Tuyên ngôn Cộng sản do ông Marx viết mở đầu
bằng một định đề nói rằng “lịch sử là lịch sử đấu tranh giai cấp.” Dựa
trên ý tưởng đó, ông đã lý luận một hồi để bảo rằng nếu cứ đi theo ông,
sẽ đến lúc xã hội loài người không còn giai cấp nữa. Kết luận này hoàn
toàn trái ngược với định đề đầu tiên của ông về bản chất của lịch sử.
Nếu kết luận của ông đúng, thì cái định đề đầu tiên sai; còn nếu cái
định đề đó đúng thì câu kết luận chỉ là một ảo tưởng.
Ông Lenin thiết lập một kiểu mẫu chính
quyền gọi là “chuyên chính vô sản,” với giả thiết rằng guồng máy chuyên
chế đó sẽ tới lúc tự nó giải tán, theo đúng lời tiên tri của Marx. Giống
như lập ra một giáo hội, tuyển chọn những tay dám giết người và dám
chết làm giáo sĩ; rồi ban cho các giáo sĩ đó toàn quyền quyết định đời
sống với cái chết của tất cả mọi người; nhưng lại hứa hẹn rằng sẽ có
ngày tất cả giáo đoàn này sẽ tự giải tán. Ðó là một ảo tưởng, còn hoang
đường hơn cái ảo tưởng của Karl Marx. Và độc hại hơn, vì ông Marx chỉ
nói suông thôi chứ chưa nhúng tay vào máu. Cuối cùng, ai cũng biết là
những chế độ độc tài toàn trị không bao giờ tự giải tán được. Thay vì
tiến tới một xã hội không có giai cấp, người ta chỉ thấy hệ thống cấp
bực chia chác các đặc quyền đặc lợi ngày càng phức tạp và kiên cố hơn.
Chúng ta bây giờ đã sống hơn trăm năm kể
từ ngày ông Marx thuyết giáo, gần 100 năm kể từ lúc ông Lenin cướp được
chính quyền. Khi nhìn lại, phải tự hỏi không hiểu tại sao đã có những
người tin tưởng vào những lý thuyết mơ hồ và đầy nghịch lý như vậy.
Nhiều đảng viên cộng sản sau này hay nêu ra những “nghịch lý” trong xã
hội họ đang sống; khi thấy lý thuyết và thực tế trái ngược nhau. Nhưng
phải biết từ căn bản, chủ nghĩa Mác-Lê Nin đã đầy mâu thuẫn ngay trong
tư tưởng. Chính vì thế mà ngay từ lúc thành hình các chế độ cộng sản đều
chứa sẵn cái mầm tự hủy diệt; vì những mối mâu thuẫn càng ngày càng
nặng hơn, không thể tự cởi bỏ được. Cho nên, các chế độ cộng sản ở Nga
và các nước Ðông Âu đã tự giải thể. Các đảng cộng sản tự tan rã mà không
ai tiếc nuối, kể cả các đảng viên. Trên thế giới không còn ai coi những
lý thuyết của Marx và Lenin là chuyện đứng đắn nữa. May mắn cho các
nước trên, những cuộc cách mạng diễn ra trong hòa bình, không đổ máu vô
ích.
Nhưng “diễn biến hòa bình” là con đường
tốt nhất để giải quyết những tai họa cho xã hội mà chế độ cộng sản đã
tạo nghiệp. Trong khi ai cũng biết một chế độ dẫu đầy mâu thuẫn không
thể nào tồn tại được nữa thì con đường tốt nhất là cho chúng giải tán
một cách hòa bình.
Nhưng ông Nguyễn Phú Trọng và đồng đảng
của ông lại lo sợ về “diễn biến hòa bình.” Khi đã biết thế nào cũng phải
giải tán, nếu không muốn tan rã một cách hòa bình tức là chọn con đường
tan rã trong hỗn loạn. Các lãnh tụ cộng sản chống “diễn biến hòa bình”
vì họ nghĩ rằng có thể tìm một con đường khác để tiếp tục cai trị, coi
như tất cả mọi người đều ngu dốt hoặc hèn nhát, hoặc vừa ngu lại vừa
hèn. Cảnh tan rã của các đảng cộng sản ở Âu Châu đã xóa sạch niềm tin
vào chủ nghĩa Mác-Lê Nin. Sau hơn 20 năm, các nước Ðông Âu trở lại cuộc
sống bình thường đã xây dựng dân chủ tự do và kinh tế phồn thịnh, ai
cũng trông thấy. Cho nên, chính các đảng cộng sản ở Trung Quốc cũng như
Việt Nam trên thực tế đang tự thực hiện một diễn biến hòa bình! Họ đã
biết không còn dùng chủ nghĩa Mác-Lê Nin vào việc gì nữa. Thay vì tin
vào cách mạng vô sản toàn thế giới, ngày nay họ chỉ mong theo gót những
chế độ độc tài kiểu tư bản thời hoang sơ. Họ cố gắng bảo vệ độc quyền
chính trị với một hệ thống chia chác quyền lợi, nuôi một bộ máy kìm kẹp
dựa hoàn toàn trên lợi lộc. Tất cả những tuyên ngôn về chủ nghĩa Mác-Lê
Nin đưa ra trong các kỳ đại hội chỉ là cái màn che đậy cho sự thật nhem
nhuốc ở bên trong. Như chúng ta đang chứng kiến, những màn tranh chấp,
đấu đá giữa Ba Dũng với Tư Sang, giữa Nguyễn Phú Trọng với Nguyễn Tấn
Dũng, giữa Dũng với Nguyễn Bá Thanh hoàn toàn không liên quan gì đến các
vấn đề như chủ nghĩa Mác-Lê Nin hay tư tưởng Mao Trạch Ðông! Tất cả đều
là những cuộc cãi cọ về hệ thống chia chác quyền ban phát đất để làm ra
tiền.
Chế độ độc tài mới của đảng cộng sản dựa
trên một cơ cấu chia chác quyền lợi mà chính cơ cấu đó cũng chứa đựng
những mâu thuẫn không thể đứng vững được. Cả Nguyễn Tấn Dũng lẫn Nguyễn
Phú Trọng đều nói đến các cán bộ, đảng viên suy thoái. Nhưng mọi người
biết họ chỉ dùng chiêu bài đó để tìm cách đá lẫn nhau, nếu được thì lật
đổ nhau. Tất cả đều tham nhũng như nhau, anh này đưa tay lên chỉ trỏ bảo
anh kia là tham nhũng. Vì vậy các anh giành nhau cái chức trưởng ban
bài trừ tham nhũng, để dùng khí cụ đó hại lẫn nhau.
Những cảnh tranh quyền giành lợi lộc
đang diễn ra cho thấy sợi dây cấu kết các lãnh tụ cộng sản lớn nhỏ với
nhau đang rạn nứt. Mối rạn nứt ngày càng nặng nề hơn và càng khó thỏa
hiệp hơn. Vì vậy, cảnh tan rã của đảng cộng sản đang diễn ra trước mắt
chúng ta.
Ngô Nhân Dụng
0 comments:
Post a Comment