Bài múa Vong Quốc.
Có
hai cách nhìn về một bài múa được đảng và nhà nước Việt cộng tổ chức ở
khuôn viên tượng đài Lý thái Tổ tại Hà Nội vào ngày 17-2-2014 vừa qua.
Về phía người dân Việt Nam. Họ gọi bài múa, vũ điệu do nhà nước tổ chức cho các đoàn đảng viên thừa mỡ của mình múa hát theo một phiên khúc nhạc Tầu kia là Bài Múa Vong Quốc. Nó không chỉ làm người dân ngứa mắt, nhưng còn là chất thêm uất hận. Bởi lẽ hôm ấy là ngày toàn dân Việt Nam muốn tổ chức ngày tưởng niệm hơn 50000 ngàn người, gồm quân dân Việt Nam đã hy sinh vì sự nghiệp chống Tàu xâm lược tại biên giới phía bắc. Kỷ niệm tưởng nhớ với người dân, chưa hẳn là gây lại mối thù hận, nhưng chắc chắn, nó nhắc nhở ngưòi còn sống không được vô ơn, bạc nghĩa với những người đã hy sinh cả mạng sống của minh cho đất nước. Theo đó, nếu chính phủ là của người dân, thì phải nuôi sống lý tưởng của dân tộc của đất nước để cho mọi người luôn giữ lòng trung thành với tổ quốc. Họ không thể bội phản máu xương của những người nằm xuống bằng cách tổ chức bài muá theo nhạc diệu của quân xâm lược trong ngày này. Nhưng qua trường hợp này, xem ra họ là người Tàu hay chư hầu làm việc cho Tàu rồi!
Về phía nhà nước Việt cộng, họ có lý luận riêng của họ. Trước hết, đây là ngày mừng nhớn của mẫu quốc Tàu, nếu họ chưa thể đồng bộ, đóng quần áo đại cán Tàu như Đỗ Mười thường làm, để đến kính viếng tất cả các mồ mả của Liệt Sỹ Tàu nằm trong các nghĩa trang tại Vệt Nam để đền ơn đáp nghĩa cho họ nhà Tập, nhà Mao từng cưu mang họ, nên đành phải dùng bước chạy đà, thử nghiệm bằng điệu múa xẩm theo nhạc Tàu trước tượng đài của Lý Thái Tổ. Trước là nói lên khát vọng lớn của đảng, của nhà nước CHXHCN Viêt cộng, mong chủ nhân Tàu thấu hiểu cho nỗi lòng của những thái thú quan cán tại địa phương hơn là trách cứ họ. Kế đến, là thăm dò sức phản kháng của người dân trước khi tiến sang một bước lệ thuộc khác. Sau cùng là “tiên hạ thủ vi cường” bằng cách đưa những bị thịt này ra chiếm chỗ trước để ngăn cản một cuộc mítting, ngăn cuộc tập họp của dân chúng mà không gây ra tai họa trực tiếp cho nhà nước.
Cục diện là thế. Nhưng thật ra, chuyện bài vũ mà người Việt Nam gọi là Bài Múa Vong Quốc do đảng và nhà nước Việt cộng thực hiện, tổ chức trình diễn trước tượng đài Lý thái Tổ vào ngày 17-02-2014 sớm muộn cũng phải đến. Nó đến không phải chỉ là việc ngăn chặn cuộc mít tinh tưởng nhớ của người dân. Nhưng đến vì đây chính là một chủ trương lớn của đảng CS do Đặng xuân Khu đề ra từ năm 1952. Nói cách khác, đây tuy là lần đầu tiên họ diễn bài múa vong quốc nơi công cộng cho dân chúng xem, tập làm quen. Trong thực tế, cái tổ chức cộng sản ở trên đất nước Việt đã là vong quốc ngay từ trước ngày 3-2-1930 rồi.
Thât vậy, vì qúa cực khổ, thêm lòng thù hận trong cuộc chiến kiếm miếng cơm manh áo khi phải tha hương cầu thực, nên Nguyễn tât Thành, (tôi không gọi Y với cái tên Nguyễn ái Quốc, vì gọi như thế là một xúc phạm đến nhà ái quốc Phan chu Trinh và nhóm của Ông đã tạo nên cái tên này) đã gia nhập đảng cộng sản Pháp. Khi ấy, Thành ảo tưởng đó là con đường hoa mộng, giải thoát dễ có cơm ăn áo mặc. Kết quả, ngay khi Nguyễn tất Thành tuyên thệ gia nhập đảng cộng sản Pháp thì Y đã trở thành một công cụ để phát triẻn và hoàn thành chủ nghĩa Vô Gia Đình, Vô Tổ Quốc và Vô Tôn Giáo của cộng sản ở trong môi trường sống của Thành. Theo đó, tất cả mọi hoạt động của Thành sau ngày gia nhập đảng cộng sản Pháp, và sau này là đảng CSVN, đều chỉ có một mục đích duy nhất là đem thân phục vụ cho chủ thuyết Tam Vô của cộng sản. Ngoài ra không còn bất cứ một lý tưởng, một chủ trương nào khác. Nhưng vì khả năng văn hóa kém cỏi, Nguyễn tất Thành không hề biết rằng những chủ trương, lý thuyết về ý thức Dân Tộc, Dân sinh, Dân Quyền của xã hội, đã trở thành những “biện minh cho cứu cánh” để cộng sản diệt trừ và đi tới chủ nghĩa Tam vô. Nên y cũng không hề biết, chính cái tà thuyết tam vô ấy là nguồn cội đẩy Thành vào con đường tiêu diệt chính bản thân, gia dình và tổ quốc của mình. Bằng chứng là:
Về phía người dân Việt Nam. Họ gọi bài múa, vũ điệu do nhà nước tổ chức cho các đoàn đảng viên thừa mỡ của mình múa hát theo một phiên khúc nhạc Tầu kia là Bài Múa Vong Quốc. Nó không chỉ làm người dân ngứa mắt, nhưng còn là chất thêm uất hận. Bởi lẽ hôm ấy là ngày toàn dân Việt Nam muốn tổ chức ngày tưởng niệm hơn 50000 ngàn người, gồm quân dân Việt Nam đã hy sinh vì sự nghiệp chống Tàu xâm lược tại biên giới phía bắc. Kỷ niệm tưởng nhớ với người dân, chưa hẳn là gây lại mối thù hận, nhưng chắc chắn, nó nhắc nhở ngưòi còn sống không được vô ơn, bạc nghĩa với những người đã hy sinh cả mạng sống của minh cho đất nước. Theo đó, nếu chính phủ là của người dân, thì phải nuôi sống lý tưởng của dân tộc của đất nước để cho mọi người luôn giữ lòng trung thành với tổ quốc. Họ không thể bội phản máu xương của những người nằm xuống bằng cách tổ chức bài muá theo nhạc diệu của quân xâm lược trong ngày này. Nhưng qua trường hợp này, xem ra họ là người Tàu hay chư hầu làm việc cho Tàu rồi!
Về phía nhà nước Việt cộng, họ có lý luận riêng của họ. Trước hết, đây là ngày mừng nhớn của mẫu quốc Tàu, nếu họ chưa thể đồng bộ, đóng quần áo đại cán Tàu như Đỗ Mười thường làm, để đến kính viếng tất cả các mồ mả của Liệt Sỹ Tàu nằm trong các nghĩa trang tại Vệt Nam để đền ơn đáp nghĩa cho họ nhà Tập, nhà Mao từng cưu mang họ, nên đành phải dùng bước chạy đà, thử nghiệm bằng điệu múa xẩm theo nhạc Tàu trước tượng đài của Lý Thái Tổ. Trước là nói lên khát vọng lớn của đảng, của nhà nước CHXHCN Viêt cộng, mong chủ nhân Tàu thấu hiểu cho nỗi lòng của những thái thú quan cán tại địa phương hơn là trách cứ họ. Kế đến, là thăm dò sức phản kháng của người dân trước khi tiến sang một bước lệ thuộc khác. Sau cùng là “tiên hạ thủ vi cường” bằng cách đưa những bị thịt này ra chiếm chỗ trước để ngăn cản một cuộc mítting, ngăn cuộc tập họp của dân chúng mà không gây ra tai họa trực tiếp cho nhà nước.
Cục diện là thế. Nhưng thật ra, chuyện bài vũ mà người Việt Nam gọi là Bài Múa Vong Quốc do đảng và nhà nước Việt cộng thực hiện, tổ chức trình diễn trước tượng đài Lý thái Tổ vào ngày 17-02-2014 sớm muộn cũng phải đến. Nó đến không phải chỉ là việc ngăn chặn cuộc mít tinh tưởng nhớ của người dân. Nhưng đến vì đây chính là một chủ trương lớn của đảng CS do Đặng xuân Khu đề ra từ năm 1952. Nói cách khác, đây tuy là lần đầu tiên họ diễn bài múa vong quốc nơi công cộng cho dân chúng xem, tập làm quen. Trong thực tế, cái tổ chức cộng sản ở trên đất nước Việt đã là vong quốc ngay từ trước ngày 3-2-1930 rồi.
Thât vậy, vì qúa cực khổ, thêm lòng thù hận trong cuộc chiến kiếm miếng cơm manh áo khi phải tha hương cầu thực, nên Nguyễn tât Thành, (tôi không gọi Y với cái tên Nguyễn ái Quốc, vì gọi như thế là một xúc phạm đến nhà ái quốc Phan chu Trinh và nhóm của Ông đã tạo nên cái tên này) đã gia nhập đảng cộng sản Pháp. Khi ấy, Thành ảo tưởng đó là con đường hoa mộng, giải thoát dễ có cơm ăn áo mặc. Kết quả, ngay khi Nguyễn tất Thành tuyên thệ gia nhập đảng cộng sản Pháp thì Y đã trở thành một công cụ để phát triẻn và hoàn thành chủ nghĩa Vô Gia Đình, Vô Tổ Quốc và Vô Tôn Giáo của cộng sản ở trong môi trường sống của Thành. Theo đó, tất cả mọi hoạt động của Thành sau ngày gia nhập đảng cộng sản Pháp, và sau này là đảng CSVN, đều chỉ có một mục đích duy nhất là đem thân phục vụ cho chủ thuyết Tam Vô của cộng sản. Ngoài ra không còn bất cứ một lý tưởng, một chủ trương nào khác. Nhưng vì khả năng văn hóa kém cỏi, Nguyễn tất Thành không hề biết rằng những chủ trương, lý thuyết về ý thức Dân Tộc, Dân sinh, Dân Quyền của xã hội, đã trở thành những “biện minh cho cứu cánh” để cộng sản diệt trừ và đi tới chủ nghĩa Tam vô. Nên y cũng không hề biết, chính cái tà thuyết tam vô ấy là nguồn cội đẩy Thành vào con đường tiêu diệt chính bản thân, gia dình và tổ quốc của mình. Bằng chứng là:
I. Vô Gia Đình:
Để
làm thân nô lệ cho cộng sản, bản thân Hồ chí Minh, dù là Hồ tập Chương
hay là Nguyễn tất Thành đều bị buộc phải thực hiện những hành vi vô gia
đình để hủy hoại chính bản thân mình. Ở đây, nếu Hồ chí Minh là Hồ tập
Chương, ngưòi Hẹ, thì chính Y đã phải hoàn toàn cắt đứt mọi thứ liên hệ
với gia đình, trong đó bao gồm cả cha mẹ anh em và vợ con ruột thịt của
mình ở bên Tàu, để mặc lấy cái áo của Nguyễn tất Thành, trở thành người
Việt Nam, để thi hành những kế sách tàn dộc của cộng sản ở trên phần đất
này. Nếu là Nguyễn tất Thành, Hồ chí Minh cũng đã phải đoạn tuyệt với
cả dòng họ sinh ra mình. Trong đó có cả cha mẹ anh em ruột thịt, để trở
thành cái bánh vẽ HCM, để cho người đời nguyền rủa như một đứa con vô
đạo bất hiếu, suốt đời không thắp cho bố mẹ một nén nhang!
Rồi cả hai đều ở trong trường hợp chẳng cần phân biệt nguồn gốc Hồ chí Minh là Nguyễn sinh Cung hay là Hồ tập Chương ra sao, chúng ta đều thấy Hồ chí Minh đã phải thực hiện sách lược vô gia đình với chính bản thân mình. Y hoàn toàn phải đoạn tuyệt với vợ con của mình. Thê thảm hơn thế, HCM đã đoạn tuyệt với ngưòi sinh con cho mình là Nông thị Xuân bằng cái búa của đảng mà Y không đám có nửa lời phản ứng. Sau đó, đẩy con đẻ của minh thành đứa trẻ vô thừa nhận. Khá khen cho HCM đã thực hiện xuất sắc công tác này!
Rồi cả hai đều ở trong trường hợp chẳng cần phân biệt nguồn gốc Hồ chí Minh là Nguyễn sinh Cung hay là Hồ tập Chương ra sao, chúng ta đều thấy Hồ chí Minh đã phải thực hiện sách lược vô gia đình với chính bản thân mình. Y hoàn toàn phải đoạn tuyệt với vợ con của mình. Thê thảm hơn thế, HCM đã đoạn tuyệt với ngưòi sinh con cho mình là Nông thị Xuân bằng cái búa của đảng mà Y không đám có nửa lời phản ứng. Sau đó, đẩy con đẻ của minh thành đứa trẻ vô thừa nhận. Khá khen cho HCM đã thực hiện xuất sắc công tác này!
II. Vô tổ quốc.
Một
kẻ thờ chủ nghĩa vô gia đình, chối bỏ cuộc sống của gia đình là gốc
sinh của xã hội sẽ không bao giờ là ngưòi biết yêu thương đồng loại và
tổ quốc của mình. Lý lẽ này không có luật trừ. Ở đây, phải trung thực mà
nhìn nhận rằng, trong lịch sử hơn 4000 năm văn hiến của Việt Nam. Không
có bất cứ một người nào thực hiện sách lược vô tổ quốc xuất sắc bằng
HCM. Lê chiêu Thống , Trần ích Tắc, Cù thị, Triệu minh Vương không đáng
là đệ tử của Minh trong phạm vi này.
Sự kiện, vì theo Tàu, hay vì là người Tàu giả danh Việt Nam, nên Hồ chí Minh đã rập theo khuôn mẫu Tầu để đấu tố tàn sát hơn hai trăm nghìn ngườỉ trong giới rưòng cột của Việt Nam trong khoảng 1953-58. Kế đến là cái chết của hàng triệu tinh hoa của Việt Nam khi HCM và tập đoàn CS mở cuộc chiến tiêu diệt sự sống của dân tộc ở miền nam Việt Nam. Một cuộc chiến mà HCM từng rêu rao là “đánh đến người cuối cùng cũng đánh” . Khi đó, lý lịch cá nhân của Y chưa được giải mã, đặt nghi vấn, nên chẳng có mấy người hiểu ra thâm ý của HCM trong câu nói là : Y muốn đánh cho chết hết người Việt Nam đi, riêng phần đất tươi đẹp này thì để dành cho dân Tàu tự nhiên tràn sang mà chiếm lấy như phần gia sản của họ. Rồi phụ hoạ cho chủ trương vô tổ quốc của Hồ, Lê Duẩn, trong vai TBT đảng cộng, cũng đã hãnh diện, kể công với chủ nhân Tàu ngay tại bắc Kinh vào năm 1970 là “tại sao chúng tôi dám trường kỳ kháng chiến? Chủ yếu là vì chúng tôi phụ thuộc vào công việc của Mao Chủ tịch…Chúng tôi có thể tiếp tục chiến đấu, đó là vì Mao Chủ tịch “ hoặc giả , “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc”…
Sự kiêu hãnh, kể công của Lê Duẫn xem ra còn thiếu thực tế, nên Phạm văn Đồng trong vai Thủ tướng và Ung văn khiêm trong vai tuồng Thứ trưởng ngoại giao, người tuyên bố, kẻ viết công hàm dâng Truờng Sa, Hoàng Sa của Việt Nam cho Trung cộng vào năm 1958.
Rồi cuộc chiến 17-2-1979 ở biên giới phía bắc, với hơn 50000 nhân mạng Việt Nam nằm xuống để bảo vệ đất tổ ra sao?
Xem ra cái kết quả cũng là cuộc chiến, đánh cho Tàu nốt! Bởi lẽ, sau cuộc chiến là Hội Nghị Thành Đô bên Tàu, CSVN với mưu cầu xin được thuần phục Trung cộng vô điều kiện. Kết quả, phần nhân sự. Tất cả những kẻ thân, thuộc về Tàu từ Chinh, Mười, Linh, Phiêu, Mạnh, Cầm, Khải… cho đến những cán cộng hôm nay, đều thăng quan tiến chức mau và mọc lên đều khắp từ bắc chí nam. Về diện địa, Việt Nam lại mất thêm đất Nam Quan, Bản Giốc, Lão Sơn, Tục Lãm và hơn 10000km2 vịnh bắc bộ! Và còn tệ hơn cả việc mất đất kia là số phận của 50000 ngàn ngưòi chết vì, hay chết cho tổ quốc đều không có lỗ chôn thây. Nếu có thì cũng chỉ là những nấm mồ hoang lạnh với nhang tàn bia đổ. Trong khi đó, những quân xâm lược thì được các quan cán thái thú trong đảng xây đài, dựng bia, lập nghĩa trang hoành tráng, rồi thay nhau bốn mùa cúng tế, nhang khói!
Sự kiện, vì theo Tàu, hay vì là người Tàu giả danh Việt Nam, nên Hồ chí Minh đã rập theo khuôn mẫu Tầu để đấu tố tàn sát hơn hai trăm nghìn ngườỉ trong giới rưòng cột của Việt Nam trong khoảng 1953-58. Kế đến là cái chết của hàng triệu tinh hoa của Việt Nam khi HCM và tập đoàn CS mở cuộc chiến tiêu diệt sự sống của dân tộc ở miền nam Việt Nam. Một cuộc chiến mà HCM từng rêu rao là “đánh đến người cuối cùng cũng đánh” . Khi đó, lý lịch cá nhân của Y chưa được giải mã, đặt nghi vấn, nên chẳng có mấy người hiểu ra thâm ý của HCM trong câu nói là : Y muốn đánh cho chết hết người Việt Nam đi, riêng phần đất tươi đẹp này thì để dành cho dân Tàu tự nhiên tràn sang mà chiếm lấy như phần gia sản của họ. Rồi phụ hoạ cho chủ trương vô tổ quốc của Hồ, Lê Duẩn, trong vai TBT đảng cộng, cũng đã hãnh diện, kể công với chủ nhân Tàu ngay tại bắc Kinh vào năm 1970 là “tại sao chúng tôi dám trường kỳ kháng chiến? Chủ yếu là vì chúng tôi phụ thuộc vào công việc của Mao Chủ tịch…Chúng tôi có thể tiếp tục chiến đấu, đó là vì Mao Chủ tịch “ hoặc giả , “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc”…
Sự kiêu hãnh, kể công của Lê Duẫn xem ra còn thiếu thực tế, nên Phạm văn Đồng trong vai Thủ tướng và Ung văn khiêm trong vai tuồng Thứ trưởng ngoại giao, người tuyên bố, kẻ viết công hàm dâng Truờng Sa, Hoàng Sa của Việt Nam cho Trung cộng vào năm 1958.
Rồi cuộc chiến 17-2-1979 ở biên giới phía bắc, với hơn 50000 nhân mạng Việt Nam nằm xuống để bảo vệ đất tổ ra sao?
Xem ra cái kết quả cũng là cuộc chiến, đánh cho Tàu nốt! Bởi lẽ, sau cuộc chiến là Hội Nghị Thành Đô bên Tàu, CSVN với mưu cầu xin được thuần phục Trung cộng vô điều kiện. Kết quả, phần nhân sự. Tất cả những kẻ thân, thuộc về Tàu từ Chinh, Mười, Linh, Phiêu, Mạnh, Cầm, Khải… cho đến những cán cộng hôm nay, đều thăng quan tiến chức mau và mọc lên đều khắp từ bắc chí nam. Về diện địa, Việt Nam lại mất thêm đất Nam Quan, Bản Giốc, Lão Sơn, Tục Lãm và hơn 10000km2 vịnh bắc bộ! Và còn tệ hơn cả việc mất đất kia là số phận của 50000 ngàn ngưòi chết vì, hay chết cho tổ quốc đều không có lỗ chôn thây. Nếu có thì cũng chỉ là những nấm mồ hoang lạnh với nhang tàn bia đổ. Trong khi đó, những quân xâm lược thì được các quan cán thái thú trong đảng xây đài, dựng bia, lập nghĩa trang hoành tráng, rồi thay nhau bốn mùa cúng tế, nhang khói!
Với một kết qủa thực tế như thế, cuộc chiến ấy không phải là ta đánh cho Tàu ư?
Nhưng
nếu chỉ có bấy nhiêu mà bảo HCM và đảng cộng sản là Cù Thị và Triệu
minh Vương là mầm vong quốc, có lẽ còn oan lắm! Nhưng hãy nhìn đến một
người được coi là lý thuyết gia vĩ đại nhất của đảng CSVN trong suốt 80
năm qua, xem y có những chủ trương gì cho đất nước và có những chỉ đạo
gì cho đảng CS thi hành? Ai cũng biết, Đặng xuân Khu đã từng nắm chức
TBT đảng cộng sản đến hai lần.Trong lần đầu, Đặng xuân Khu vào năm 1952
đã nhân danh TBT đảng, nhân danh ủy ban kháng chiến toàn quốc kêu gọi
đồng bào Việt Nam "Hỡi đồng bào Việt Nam… Hãy bỏ chữ quốc ngữ mà
quay về học lấy chữ Tàu…. Bỏ văn minh tây phương mà quay về xử dụng
thuốc tễ của Tàu….” Và nhất trí là “ xin được làm chư hầu cho Trung quốc” Vì TQ không chỉ là bạn, nhưng “ còn là thầy của chúng ta nữa”. Hỏi có người Việt Nam nào mà không rùng minh, dợn tóc khi đọc bản văn này?
Nếu có thì xin nhớ rằng. Khi người dân Việt Nam rùng mình, dợn tóc gáy lên vì bản văn ngu ngốc tột cùng này thì cũng là lúc đảng cộng sản kiêu hãnh vì có Đặng xuân Khu, và có bản văn làm nền tảng ấy cho hướng đi của họ! Tuy thế, câu chuyện về tư tưởng và văn hóa Vô Tổ Quốc của cộng sản chưa dừng lại nơi đây. Bởi vì, noi theo con đường làm quan kiểu bán nước của Đặng xuân Khu còn nhiều những kẻ khác nửa. Điển hình trong số ấy là Tố Hữu, một trong những kẻ đã nắm chức vụ phó Thủ tướng của cái nhà nước CHXHCN ấy cùng đi theo một lối. Tố Hữu viết:
- “ Tiếng đầu đời con gọi Sít ta lin”! Thật là khủng khiếp!, Có lẽ đây là một trưòng hợp duy nhất xảy ra ở trên thế giới? Vì có ai dạy con gọi tên Stalin thay vì gọi bố gọi mẹ khi con bập bẹ tập nói! Tiếc rằng Stalin đã bị dân Liên Sô treo cổ lên rồi? - “Thương cha thương mẹ thương chồng, thương mình thương một thương ông thương mười”. Lần thứ hai chúng ta bắt gặp một loại chữ nghĩa, không biết nên dùng chữ gì cho nó đúng, để giải thích về loại văn chương kiểu vô gia đình này? Tôi không có ngôn từ nào để giái thích cho loại chữ nghĩa vô loại được cộng sản ca tụng này.
- Kế đến. với dân tộc đồng bào của mình thì “ giết… giết nữa… những bàn tay không ngừng nghĩ…”. Đọc gỉa nghĩ gì khi đọc những hàng chữ này?
Nếu có thì xin nhớ rằng. Khi người dân Việt Nam rùng mình, dợn tóc gáy lên vì bản văn ngu ngốc tột cùng này thì cũng là lúc đảng cộng sản kiêu hãnh vì có Đặng xuân Khu, và có bản văn làm nền tảng ấy cho hướng đi của họ! Tuy thế, câu chuyện về tư tưởng và văn hóa Vô Tổ Quốc của cộng sản chưa dừng lại nơi đây. Bởi vì, noi theo con đường làm quan kiểu bán nước của Đặng xuân Khu còn nhiều những kẻ khác nửa. Điển hình trong số ấy là Tố Hữu, một trong những kẻ đã nắm chức vụ phó Thủ tướng của cái nhà nước CHXHCN ấy cùng đi theo một lối. Tố Hữu viết:
- “ Tiếng đầu đời con gọi Sít ta lin”! Thật là khủng khiếp!, Có lẽ đây là một trưòng hợp duy nhất xảy ra ở trên thế giới? Vì có ai dạy con gọi tên Stalin thay vì gọi bố gọi mẹ khi con bập bẹ tập nói! Tiếc rằng Stalin đã bị dân Liên Sô treo cổ lên rồi? - “Thương cha thương mẹ thương chồng, thương mình thương một thương ông thương mười”. Lần thứ hai chúng ta bắt gặp một loại chữ nghĩa, không biết nên dùng chữ gì cho nó đúng, để giải thích về loại văn chương kiểu vô gia đình này? Tôi không có ngôn từ nào để giái thích cho loại chữ nghĩa vô loại được cộng sản ca tụng này.
- Kế đến. với dân tộc đồng bào của mình thì “ giết… giết nữa… những bàn tay không ngừng nghĩ…”. Đọc gỉa nghĩ gì khi đọc những hàng chữ này?
III. Vô tôn giáo.
Không
phải cộng sản chỉ thưc hành việc vô tôn giáo qua ngôn từ của K. Mark,
coi tôn giáo như là thuốc phiện, và cấm tuyệt đối các đoàn đảng viên của
họ không được theo bất cứ một tôn giáo nào, ngoài chủ thuyết tam vô.
Nhưng CS còn cố tình xỉ nhục tôn giáo bằng cách đốt phá, hủy hoại các
đình chùa, các nơi tôn nghiêm như đền miều từ xóm thôn, làng mạc. Rồi
tìm mọi cách ép buộc các đình, đền miếu còn lại phải thay thế hình ảnh
các tượng thần và thay vào đó là tấm hình, hay cái đầu lâu của Hồ chí
Minh cho người dân lễ bái. Đây có phải là một việc làm phỉ báng tôn giáo
không?
Tôi không dám tự tiện trả lời câu hỏi. Chỉ xin trích ra một đoan viết ngắn do chính Hồ chí Minh viết trong bản di chúc của Y là: “phòng khi tôi về với cụ Mac, cụ Lê…”. Câu viết này, trước hết đuợc hiểu, HCM là một đảng viên cộng sản, Y tuyệt đối trung thành với giáo huấn tam vô. Nên đến khi chết Y không mong ước về với cội nguồn tổ tiên ông bà cha mẹ, thần thánh, nhưng chỉ thiết tha mong mỏi được theo cụ Mác, cụ Lê. Xét cho cùng, đây là một ước muốn chân thật của Y. Bởi lẽ, một đời của kẻ gian trá, trước khi chết y có thể nói được một câu nói thật. HCM cũng không có ngoại lệ. Hơn thế, học theo Mác, làm theo Lê nên có lẽ không ai biết Mác, hiểu Lê bằng Hồ chí Minh. (có thể HCM cũng biết trước là cụ Lê sẽ bị nhân dân Liên Sô treo cổ sau này, nhưng vẫn trung thành với Lê?) nên mới viết như thế. Nhưng đảng CS không để cho HCM theo cụ Lê, theo cụ Mác. Hoặc giả, để cho đồng báo gíup HCM đi theo cụ Lê, mà lại đưa cái đầu lâu của một tên đồ tể vào nhà chùa và các đền miếu cho ngưòi ta hương khói là sai trái! Xin nhớ, HCM là kẻ vô tôn giáo, tại sao CS lại đưa Y vào chùa, vào đình miếu? Làm thế là CS xỉ nhục “ bác” hay muốn xỉ nhục tôn giáo?
Tóm lại, với những hành động khuất tất, với những văn bản vô đạo như thế, việc đảng và nhà nước CS cho tổ chức múa bài múa ” Trung Quốc chính nghiã”* ) trong khuôn viên tượng đài Lý thái Tổ ở Hà Nội phải đến. Đến bởi vì, buổi múa vong quốc của những hình nhân đảng như những bị thịt này không phải là cuộc thăm dò phản ứng của người Viêt Nam trước những sự việc nhà nước xin làm chư hầu cho Trung cộng theo chủ trương của đảng CS. Nhưng còn là một cái tát dáng trả vào mặt, không phải chỉ là thân nhân của 60 ngàn nhân mạng Việt Nam đã bỏ mình vì cuộc chiến bảo vệ biên cương của mình, nhưng còn là cho dân tộc Việt Nam nữa. Bởi vì, sự việc nhà nước cộng sản công khai cho hát múa bài ca mang tên “ Trung quốc chính nghĩa”(*1) ở trên đất Việt trong ngày 17-2 mang một ý nghĩa khác hẳn. Nó muốn nói lên rằng: CSVN nhìn nhận cái chính nghĩa của cuộc chiến năm ấy thuộc về phía Trung cộng? Kế đến, đó cũng là một phương cách họ giải thích rộng rãi với nhân dân Việt Nam cái lý do tại sao họ xây đài, đúc tượng lập nhiều nghĩa trang liệt cốt Trung cộng một cách hoành tráng trên đất Việt, và các quan cán thái thú phải thay nhau bốn mùa phục vụ hương khói chăng?
Nếu đảng và nhà nước cộng sản tại VN đã công khai ca tụng “ Trung Quốc chính nghĩa” trong ngày kỷ niệm cuộc chiến tại biên giới như thế. Ngườì Việt Nam nghĩ gì và nên làm gì?
Theo tôi, khi đứng trước thái độ trịch thượng của CS đối với dân tộc này, người Việt Nam chỉ có hai phong cách để chọn lựa. Một là nhắm mắt, xuôi tay theo lối nô lệ cộng sản đang dẫn đường. Hai là đứng dậy, tìm lấy con đường Độc Lập cho dân tộc mà đi. Phương cách một thì chẳng cần phải làm gì. Chúng muốn làm gì thì mặc chúng. Cứ cúi mặt xuống theo chúng mà đi. Phương cách thứ hai là khó đấy.
Khó là bởi vì, nếu như chúng ta còn muốn thấy dòng dõi Việt Nam mãi sống mãi trên quê hương có Độc Lập, có chủ quyền đất nước riêng. Muốn có cuộc sống ấm no, tự do phát triẻn trong nhân bản, không bị nô lệ cho chủ nghiã tam vô. Muốn có một hệ thống pháp lý nhân bản của con người để bảo vệ nhân phẩm con người. Muốn cho con cháu mai sau còn nhắc nhở đến nền văn hóa nhân lễ nghĩa trí tín của tiền nhân qua tính nhân văn: “Công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Muốn còn có những bài tình tự ca dao dân tộc. “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Còn muốn nghe được những bài ca. “Một giọt máu đào hơn ao nước lã” thì tất cả mọi người phải đứng dậy, tay nắm lấy tay nhau, đạp đổ cường đồ mà đi. Rồi người tay xẻng, người tay cuốc, vì tương lai con cháu mà đào lỗ để Chôn Nó Đi. Có chôn chặt, chôn sâu cái chế độ duy vật bất nhân, vô đạo theo chủ thuyết Vô Gia Đình, Vô Tổ Quốc, Vô Tôn Giáo vào tận lòng đất sâu thì chúng ta và con cháu chúng ta mới có ngày mai tươi sáng.
Bởi vì, bao lâu cái chệ độ và hệ thống đoàn đảng của cộng sản còn chế ngự trên quê hương Việt Nam, bấy lâu người dân chúng ta còn phải sống trong tối tăm với cái gông, cái ách nô lệ đeo trong cổ. Thời gian có qua đi, nhưng cộng sản vĩnh viễn sống bằng gian trá và tạo ra gian trá. Bản chất này của chúng đời đời không bao giờ thay đổi. Đời cha ông chúng ta, cộng sản đã có một khuôn mẫu gian trá độc ác riêng để lừa dối và phỉ báng họ. Đời chúng ta, cộng sản đã ngụy tạo ra những gian dối khác để lừa gạt và phỉ báng chúng ta. Khi sang đến những thế hệ mai sau, cộng sản cũng vẫn chỉ có một chử kép là gian dối, xão trá và độc ác để tồn tại. Nếu cộng sản còn tồn tại, thì đời sống chúng ta và con cháu chúng ta mãi mãi chỉ là một loại nô lệ cho gian dối! Đời sống như thế, có lẽ đã là một đời bỏ đi rồi!
Hởi đồng bào Việt Nam. Đời chúng ta không thể là đời bỏ đi. Sức sống của Dân Tộc Việt Nam không thể bị khuất phục bởi cường đồ, ngoại xâm, gian trá. Tất cả chúng ta hãy đứng dậy đi. Người cái xẻng, người cái cuốc. Hãy cùng nhau Chôn Nó Đi. Chôn Nó Đi để dân ta được sống. Sống xứng đáng trong phẩm gía con người.
Bảo Giang 2-2014(1*) FBker Thùy Trang đã chứng minh bản nhạc để nhảy nhót ăn mừng sáng nay là nhạc Tàu, được nhạc sĩ Hồ Quang Hiếu đạo nhạc, đặt lời Việt là "Con bướm xuân". Nguyên bản của bài hát "中國恰恰" (Trung Quốc Chính Nghĩa).( theo Trần mạnh Hảo)
Tôi không dám tự tiện trả lời câu hỏi. Chỉ xin trích ra một đoan viết ngắn do chính Hồ chí Minh viết trong bản di chúc của Y là: “phòng khi tôi về với cụ Mac, cụ Lê…”. Câu viết này, trước hết đuợc hiểu, HCM là một đảng viên cộng sản, Y tuyệt đối trung thành với giáo huấn tam vô. Nên đến khi chết Y không mong ước về với cội nguồn tổ tiên ông bà cha mẹ, thần thánh, nhưng chỉ thiết tha mong mỏi được theo cụ Mác, cụ Lê. Xét cho cùng, đây là một ước muốn chân thật của Y. Bởi lẽ, một đời của kẻ gian trá, trước khi chết y có thể nói được một câu nói thật. HCM cũng không có ngoại lệ. Hơn thế, học theo Mác, làm theo Lê nên có lẽ không ai biết Mác, hiểu Lê bằng Hồ chí Minh. (có thể HCM cũng biết trước là cụ Lê sẽ bị nhân dân Liên Sô treo cổ sau này, nhưng vẫn trung thành với Lê?) nên mới viết như thế. Nhưng đảng CS không để cho HCM theo cụ Lê, theo cụ Mác. Hoặc giả, để cho đồng báo gíup HCM đi theo cụ Lê, mà lại đưa cái đầu lâu của một tên đồ tể vào nhà chùa và các đền miếu cho ngưòi ta hương khói là sai trái! Xin nhớ, HCM là kẻ vô tôn giáo, tại sao CS lại đưa Y vào chùa, vào đình miếu? Làm thế là CS xỉ nhục “ bác” hay muốn xỉ nhục tôn giáo?
Tóm lại, với những hành động khuất tất, với những văn bản vô đạo như thế, việc đảng và nhà nước CS cho tổ chức múa bài múa ” Trung Quốc chính nghiã”* ) trong khuôn viên tượng đài Lý thái Tổ ở Hà Nội phải đến. Đến bởi vì, buổi múa vong quốc của những hình nhân đảng như những bị thịt này không phải là cuộc thăm dò phản ứng của người Viêt Nam trước những sự việc nhà nước xin làm chư hầu cho Trung cộng theo chủ trương của đảng CS. Nhưng còn là một cái tát dáng trả vào mặt, không phải chỉ là thân nhân của 60 ngàn nhân mạng Việt Nam đã bỏ mình vì cuộc chiến bảo vệ biên cương của mình, nhưng còn là cho dân tộc Việt Nam nữa. Bởi vì, sự việc nhà nước cộng sản công khai cho hát múa bài ca mang tên “ Trung quốc chính nghĩa”(*1) ở trên đất Việt trong ngày 17-2 mang một ý nghĩa khác hẳn. Nó muốn nói lên rằng: CSVN nhìn nhận cái chính nghĩa của cuộc chiến năm ấy thuộc về phía Trung cộng? Kế đến, đó cũng là một phương cách họ giải thích rộng rãi với nhân dân Việt Nam cái lý do tại sao họ xây đài, đúc tượng lập nhiều nghĩa trang liệt cốt Trung cộng một cách hoành tráng trên đất Việt, và các quan cán thái thú phải thay nhau bốn mùa phục vụ hương khói chăng?
Nếu đảng và nhà nước cộng sản tại VN đã công khai ca tụng “ Trung Quốc chính nghĩa” trong ngày kỷ niệm cuộc chiến tại biên giới như thế. Ngườì Việt Nam nghĩ gì và nên làm gì?
Theo tôi, khi đứng trước thái độ trịch thượng của CS đối với dân tộc này, người Việt Nam chỉ có hai phong cách để chọn lựa. Một là nhắm mắt, xuôi tay theo lối nô lệ cộng sản đang dẫn đường. Hai là đứng dậy, tìm lấy con đường Độc Lập cho dân tộc mà đi. Phương cách một thì chẳng cần phải làm gì. Chúng muốn làm gì thì mặc chúng. Cứ cúi mặt xuống theo chúng mà đi. Phương cách thứ hai là khó đấy.
Khó là bởi vì, nếu như chúng ta còn muốn thấy dòng dõi Việt Nam mãi sống mãi trên quê hương có Độc Lập, có chủ quyền đất nước riêng. Muốn có cuộc sống ấm no, tự do phát triẻn trong nhân bản, không bị nô lệ cho chủ nghiã tam vô. Muốn có một hệ thống pháp lý nhân bản của con người để bảo vệ nhân phẩm con người. Muốn cho con cháu mai sau còn nhắc nhở đến nền văn hóa nhân lễ nghĩa trí tín của tiền nhân qua tính nhân văn: “Công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Muốn còn có những bài tình tự ca dao dân tộc. “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Còn muốn nghe được những bài ca. “Một giọt máu đào hơn ao nước lã” thì tất cả mọi người phải đứng dậy, tay nắm lấy tay nhau, đạp đổ cường đồ mà đi. Rồi người tay xẻng, người tay cuốc, vì tương lai con cháu mà đào lỗ để Chôn Nó Đi. Có chôn chặt, chôn sâu cái chế độ duy vật bất nhân, vô đạo theo chủ thuyết Vô Gia Đình, Vô Tổ Quốc, Vô Tôn Giáo vào tận lòng đất sâu thì chúng ta và con cháu chúng ta mới có ngày mai tươi sáng.
Bởi vì, bao lâu cái chệ độ và hệ thống đoàn đảng của cộng sản còn chế ngự trên quê hương Việt Nam, bấy lâu người dân chúng ta còn phải sống trong tối tăm với cái gông, cái ách nô lệ đeo trong cổ. Thời gian có qua đi, nhưng cộng sản vĩnh viễn sống bằng gian trá và tạo ra gian trá. Bản chất này của chúng đời đời không bao giờ thay đổi. Đời cha ông chúng ta, cộng sản đã có một khuôn mẫu gian trá độc ác riêng để lừa dối và phỉ báng họ. Đời chúng ta, cộng sản đã ngụy tạo ra những gian dối khác để lừa gạt và phỉ báng chúng ta. Khi sang đến những thế hệ mai sau, cộng sản cũng vẫn chỉ có một chử kép là gian dối, xão trá và độc ác để tồn tại. Nếu cộng sản còn tồn tại, thì đời sống chúng ta và con cháu chúng ta mãi mãi chỉ là một loại nô lệ cho gian dối! Đời sống như thế, có lẽ đã là một đời bỏ đi rồi!
Hởi đồng bào Việt Nam. Đời chúng ta không thể là đời bỏ đi. Sức sống của Dân Tộc Việt Nam không thể bị khuất phục bởi cường đồ, ngoại xâm, gian trá. Tất cả chúng ta hãy đứng dậy đi. Người cái xẻng, người cái cuốc. Hãy cùng nhau Chôn Nó Đi. Chôn Nó Đi để dân ta được sống. Sống xứng đáng trong phẩm gía con người.
Bảo Giang 2-2014(1*) FBker Thùy Trang đã chứng minh bản nhạc để nhảy nhót ăn mừng sáng nay là nhạc Tàu, được nhạc sĩ Hồ Quang Hiếu đạo nhạc, đặt lời Việt là "Con bướm xuân". Nguyên bản của bài hát "中國恰恰" (Trung Quốc Chính Nghĩa).( theo Trần mạnh Hảo)
“Đồng chí Nguyễn ái Quốc và tôi.” (tuyển tập HCM)
Khi
cái thước thợ đặt lên bàn, nó chỉ có thể kẻ được những đường thẳng. Tuy
thế, người ta vẫn không ngừng che dấu những sự thật, để được sống trong
gian dối!
Cái
chết của Nông thị Xuân là một diển hình. Cái chết được che đạy bằng một
thứ bạo quyền lực tuyệt đối. Được tính toán ngụy trang bằng một tai nạn
giao thông để triệt, xóa án. Kết quả, chỉ vài chục năm sau, câu chuyện
ấy hầu như không ai mà không nghe biết là: Trần quôc Hoàn đã dùng búa
đập đầu, giết Xuân theo lệnh của Hồ chí Minh? Rồi quăng xác của cô ra
ngoài đường với mưu đồ già làm tai nạn lưu thông, triệt bí mật. Tuy thế,
trời bất dung gian. Đã chẳng có chiếc xe nào, kể cả các loại xe côn đồ
do Hòan chỉ huy chịu cán đè lên cái xác đã chét ấy để cho Hoàn đến lập
biên bản. Thay vào đó là giấy chứng nhận, không được công bố ra ngoài,
của các y sỹ pháp y tại bệnh viện. “Nạn chân chết vì bị vỡ sọ, toàn thân
không có một dấu vết nào do tai nạn”! Người được đọc qua giấy chứng tử
ấy là Nguyễn thị Vàng, và một người chị em khác tên Nguyệt, nhanh chân
về Bắc Giang để báo tin cho người nhà, đều không thoát khỏi cái búa diệt
khẩu của Hòan. Nhưng vụ án không kết thúc ở ba cái chết thê thảm này,
nhưng là treo vào cổ những tên sát nhân.
Rồi ở miền nam, vào năm 1963 cũng có một vụ án mạng kinh thiên động địa có thể còn hơn thế. Một tốp ngưòi với danh xưng, tưởng không còn gì lững lẫy và oai vệ hơn, “ hội động quân nhân cách mạng” bao gồm những Minh, Khiêm, Đôn, Đính, Xuân, Mậu, Lắm, Nghĩa, Nhung… đã thảm sát Tổng Thống Ngô đình Diệm và bào huynh của ông là Ngô đình Nhu trong lòng chiếc thiết vận xa một cách man rợ. Nhóm này đã đưa ra một bản tin láo khoét để lừa bịp dân chúng là hai ông đã tự vận. Kết quả, chỉ ba tháng sau thì sự việc dã phơi bày ra ánh sáng. Nhung đã đền tội trong trại Hoàng hoa Thám. Rồi những “ông cách mạng” kia đã được trao cho cái danh hiệu để đời ” những tên côn đồ ác ôn đáng nguyền rủa” ( tổng thống Johson)! Qủa là một nghiệp chướng! Còn hơn cả nghiệp chướng là không một ai trong số ấy dám hé răng nói lại nửa lời phản bác!
Trở lại câu chuyện, ngọn đèn đặt trên giá, soi sáng cho cả nhà. Vào thời gian gần đây, nhất là sau khi cuốn “ Bình Sinh Khảo” của Tg Hồ Tuấn Hùng viết về Hồ chí Minh, được ông Thái Văn dịch ra tiếng Việt. Bất cứ nơi đâu, ở trong nưóc hay hải ngoại, người ta đều thắc mắc:
- Hồ chí Minh là ai?
- Hồ chí minh là ngưòi Tàu hay là người Việt Nam ? Y là Hồ tập Chương hay Nguyễn tất Thành?
Lại có nhiều người phản ứng như là đã có đầy đủ bằng chứng chắc chắn HCM là người Tàu, nên đã nói toạc ra là:
- Vì không phải là ngưòi Việt Nam nên Y mới tàn ác và đấu tố, giết dân mình theo sách của Tàu.
- Vì là ngươi Tàu, nên vảo năm 1952, lúc chưa nắm được quyền Y đã lệnh cho Đặng xuân Khu dâng Việt Nam cho Trung cộng bằng cách, viết lòi kêu gọi đồng bào bỏ chữ Quốc Ngữ học chữ Tàu và xin làm phiên thuộc cho Tàu…
- Và còn nhiều lời luận tội bắt đầu bằng câu khai mào tương tự như thế.
Tôi không biết những lời nói mà ai cũng có thể nghe thấy như thế, có phải là một kết án vội vàng hay không? Chì thấy phía CS hoàn toàn im lặng, không dám lên tiếng, dù chỉ nửa lời phản bác cuốn sách của Hồ tuấn Hùng. Họ im lặng như “những kẻ côn đồ đáng nguyền ruả”! Và còn tồi tệ hơn thế, họ rất tích cực chứng minh cho những lời kết án trên là đúng khi tiếp tục, hung hãn ra tay bắt bớ và giam cầm những thanh niên yêu nước quyết chống trả cuộc đô hộ từ phương bắc. Nhưng không dám có lấy một phản ứng nào đáp trá khi ngư dân của Việt Nam ra khơi thả lưới bị Trung cộng ức chế, bắt bớ và đánh đập. Thái độ của họ xem ra là hết sức nghịch lý đối với nhiệm vụ của một tập hợp được gọi là “ nhà nưóc”! Không biết họ là chính phủ hay là một tập thể thái thú, nô lệ?
Viết đên đây, tôi nhớ đến một câu chuyện trong cổ sử của Việt Nam. Đó là trường hợp của Cù thị và Triệu minh Vương. Liệu HCM, có phải là một hình thưc khác trong câu chuyện Cù Thị, Triệu minh Vuơng trên đất Việt hôm nay không? Theo dòng sử liệu “Triệu Kiến Đức là con của Triệu Minh vương, mẹ ông là người Việt. Vua cha không chọn ông nối nghiệp mà chọn Triệu Hưng là con của hoàng hậu người Hoa Cù thị. Cù hậu tư thông với sứ giả nhà Hán là An Quốc Thiếu Quý, muốn mang Nam Việt quy phục nhà Hán. Triệu Ai Vương còn trẻ, chỉ biết nghe theo lời mẹ. Kết quả là Thừa tướng Lữ Gia giết Cù hậu, Ai Vương và cả Thiếu Quý. Sau đó, đưa Kiến Đức kế vị, tức là Triệu Dương Vương. Sử ký Tư Mã Thiên chép (q. 113, t. 5b): "Lữ Gia... và các quận huyện lập con trai trưởng của Minh Vương, con người vợ Việt Nam là Thuật Dương hầu Kiến Đức làm vua". Câu chuyện hôm nay tuy có khác xưa, nhưng xem ra có cùng một mục đích là HCM và tập đoàn CS muốn đưa Việt Nam vào vòng nô lệ cho Tàu. Theo đó, càng ngày người dân càng mong mỏi có một Lữ Gia đứng lên chém Cù Thị, hạ Trần Hưng, để bảo vệ giang sơn và dân tộc Việt! Nhưng lý do nào tôi cho Hồ chí Minh là một Triệu Hưng thời đại?
Rồi ở miền nam, vào năm 1963 cũng có một vụ án mạng kinh thiên động địa có thể còn hơn thế. Một tốp ngưòi với danh xưng, tưởng không còn gì lững lẫy và oai vệ hơn, “ hội động quân nhân cách mạng” bao gồm những Minh, Khiêm, Đôn, Đính, Xuân, Mậu, Lắm, Nghĩa, Nhung… đã thảm sát Tổng Thống Ngô đình Diệm và bào huynh của ông là Ngô đình Nhu trong lòng chiếc thiết vận xa một cách man rợ. Nhóm này đã đưa ra một bản tin láo khoét để lừa bịp dân chúng là hai ông đã tự vận. Kết quả, chỉ ba tháng sau thì sự việc dã phơi bày ra ánh sáng. Nhung đã đền tội trong trại Hoàng hoa Thám. Rồi những “ông cách mạng” kia đã được trao cho cái danh hiệu để đời ” những tên côn đồ ác ôn đáng nguyền rủa” ( tổng thống Johson)! Qủa là một nghiệp chướng! Còn hơn cả nghiệp chướng là không một ai trong số ấy dám hé răng nói lại nửa lời phản bác!
Trở lại câu chuyện, ngọn đèn đặt trên giá, soi sáng cho cả nhà. Vào thời gian gần đây, nhất là sau khi cuốn “ Bình Sinh Khảo” của Tg Hồ Tuấn Hùng viết về Hồ chí Minh, được ông Thái Văn dịch ra tiếng Việt. Bất cứ nơi đâu, ở trong nưóc hay hải ngoại, người ta đều thắc mắc:
- Hồ chí Minh là ai?
- Hồ chí minh là ngưòi Tàu hay là người Việt Nam ? Y là Hồ tập Chương hay Nguyễn tất Thành?
Lại có nhiều người phản ứng như là đã có đầy đủ bằng chứng chắc chắn HCM là người Tàu, nên đã nói toạc ra là:
- Vì không phải là ngưòi Việt Nam nên Y mới tàn ác và đấu tố, giết dân mình theo sách của Tàu.
- Vì là ngươi Tàu, nên vảo năm 1952, lúc chưa nắm được quyền Y đã lệnh cho Đặng xuân Khu dâng Việt Nam cho Trung cộng bằng cách, viết lòi kêu gọi đồng bào bỏ chữ Quốc Ngữ học chữ Tàu và xin làm phiên thuộc cho Tàu…
- Và còn nhiều lời luận tội bắt đầu bằng câu khai mào tương tự như thế.
Tôi không biết những lời nói mà ai cũng có thể nghe thấy như thế, có phải là một kết án vội vàng hay không? Chì thấy phía CS hoàn toàn im lặng, không dám lên tiếng, dù chỉ nửa lời phản bác cuốn sách của Hồ tuấn Hùng. Họ im lặng như “những kẻ côn đồ đáng nguyền ruả”! Và còn tồi tệ hơn thế, họ rất tích cực chứng minh cho những lời kết án trên là đúng khi tiếp tục, hung hãn ra tay bắt bớ và giam cầm những thanh niên yêu nước quyết chống trả cuộc đô hộ từ phương bắc. Nhưng không dám có lấy một phản ứng nào đáp trá khi ngư dân của Việt Nam ra khơi thả lưới bị Trung cộng ức chế, bắt bớ và đánh đập. Thái độ của họ xem ra là hết sức nghịch lý đối với nhiệm vụ của một tập hợp được gọi là “ nhà nưóc”! Không biết họ là chính phủ hay là một tập thể thái thú, nô lệ?
Viết đên đây, tôi nhớ đến một câu chuyện trong cổ sử của Việt Nam. Đó là trường hợp của Cù thị và Triệu minh Vương. Liệu HCM, có phải là một hình thưc khác trong câu chuyện Cù Thị, Triệu minh Vuơng trên đất Việt hôm nay không? Theo dòng sử liệu “Triệu Kiến Đức là con của Triệu Minh vương, mẹ ông là người Việt. Vua cha không chọn ông nối nghiệp mà chọn Triệu Hưng là con của hoàng hậu người Hoa Cù thị. Cù hậu tư thông với sứ giả nhà Hán là An Quốc Thiếu Quý, muốn mang Nam Việt quy phục nhà Hán. Triệu Ai Vương còn trẻ, chỉ biết nghe theo lời mẹ. Kết quả là Thừa tướng Lữ Gia giết Cù hậu, Ai Vương và cả Thiếu Quý. Sau đó, đưa Kiến Đức kế vị, tức là Triệu Dương Vương. Sử ký Tư Mã Thiên chép (q. 113, t. 5b): "Lữ Gia... và các quận huyện lập con trai trưởng của Minh Vương, con người vợ Việt Nam là Thuật Dương hầu Kiến Đức làm vua". Câu chuyện hôm nay tuy có khác xưa, nhưng xem ra có cùng một mục đích là HCM và tập đoàn CS muốn đưa Việt Nam vào vòng nô lệ cho Tàu. Theo đó, càng ngày người dân càng mong mỏi có một Lữ Gia đứng lên chém Cù Thị, hạ Trần Hưng, để bảo vệ giang sơn và dân tộc Việt! Nhưng lý do nào tôi cho Hồ chí Minh là một Triệu Hưng thời đại?
1. Lời tự khai của Hồ chí Minh.
Tháng
giêng năm 1949, tạp chí "Sinh hoạt nội bộ" kỳ thứ 13 của Việt Nam có
đăng tải một bài viết nhan đề "Đảng ta" do Hồ Chí Minh viết dưới bút
danh Trần Thắng Lợi. Nhà xuất bản Chính trị Quôc gia đã đưa "Đảng ta"
vào Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, trang 547. Bài viết này đã được TG Hồ
tuấn Hùng ghi lại trong Bình Sinh Khảo, thiên II, nhan đề “ ve sầu thoát xác, thật giả kiếp ngưòi”. như sau
" Năm 1929 (chính xác là ngày 19 tháng giêng năm 1929), trong khi đồng chí Nguyễn ái Quốc đi vắng, Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội khai toàn quốc Đại hội ở Hương Cảng. Đại biểu Bắc Kỳ đề nghị tổ chức đảng cộng sản, bị gạt đi, liền bỏ hội nghị ra về….
Cuối năm 1929, đồng chí Nguyễn ái Quốc trở lại Tàu (chính xác là ngày 20 tháng giêng năm 1930), cùng với đại biểu các nhóm khai hội ở Hương Cảng.
Trong 7, 8 đại biểu, ngoài đồng chí Nguyễn ái Quốc và tôi, nay chỉ còn đồng chí Hồ Tùng Mậu và đồng chí Trịnh Đình Cửu, đồng chí Tản Anh và vài đồng chí nữa đều oanh liệt hy sinh cho Đảng và cho dân tộc lâu trước ngày Cách mạng Tháng Tám
Sau cuộc bàn bạc sôi nổi, và sau lời giải thích rõ ràng của đồng chí Nguyễn ái Quốc, mọi người đều tán thành thống nhất cả ba nhóm thành một đảng. Thế là Đảng ta chân chính thành lập...".( Trần thắng Lợi, tức Hồ chí Minh) Ôi! Nó chân chính theo hệ… Tầu làm sao chứ!
Tưởng cũng cần nhắc lại là. Theo tài liệu do nhà cầm quyền cộng sản công bố trong “những tên gọi bí danh, bút danh của Hồ Chí Minh; do NXB Chính trị Quốc Gia.- Hà Nội 2001, có tất cả là169 cái tên chính! Bút danh Trần thắng Lợi, là một cái tên chính thức, mang số thứ tự thứ 114 trong tổng số 169 bí danh, bút hiệu, tên gọi của HCM. C ũng theo nhiều tài liệu của họ, bảy ủy viên đứng ra thành lập đảng CS lúc bấy giờ là: Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng mậu, Trịnh Đình Cửu, Lê Tản Anh, Trần Văn Cung, Lê Hồng Sơn và Hồ Tập Chương* (* theo Tg HT Hùng, Chương là người Tàu, là ủy viên liên lạc của CSQT trong hội nghị trù bị thành lập đảng cộng sản Đông Dương 3-2-1930, Trong nội bộ, Chương đã xử dụng cái tên Hồ chí Minh ngay từ thời gian này. Hùng viết ” Thời gian từ năm 1929 đến năm 1933, Nguyễn Ái Quốc và Hồ Tập Chương cùng hoạt động trên vũ đài chính trị, đặc biệt vào năm 1930 và nửa đầu năm 1931, hai người từng nhiều lần qua lại làm việc với nhau. Sở dĩ vào sau năm 1934, Quốc tế cộng sản có ý đồ lấy Hồ Tập Chương thay thế thân phận Nguyễn Ái Quốc, là bởi vì vào những năm 1929 đến năm 1933, hầu hết những hoạt động của Hồ Tập Chương đều mang tên Hồ Chí Minh. Do đó mọi việc Hồ Tập Chương làm đều được hiểu một cách sai lầm là của Nguyễn Ái Quốc. ”( bình sinh khảo)
Trong đoạn văn tường thuật ngắn trên, có đến hai lần Hồ chí Minh tự xác nhận Y và Nguyễn ái Quốc là hai người hoàn toàn khác nhau.
a. “Trong 7, 8 đại biểu, ngoài đồng chí Nguyễn ái Quốc và tôi”. Đoạn này xác định rõ ràng Nguyễn ái Quốc và Hồ chí Minh( tôi, tác giả bài viết) là hai người hoàn toàn khác nhau. Khác nhau như vợ với chồng, hai người nam, nữ khác biệt nhưng là một cặp.
b. “Sau lời giải thích rõ ràng của đồng chí Nguyễn ái Quốc, mọi người đều tán thành thống nhất”…. xác nhận công lao của Nguyễn ái Quốc, trong việc kết hợp ba nhóm lại với nhau. Và cá nhân Hồ chí Minh chỉ là một phần trong chữ “ mọi người” mà thôi.
Với sự các nhận này, Hồ chí Minh và Nguyễn ái Quốc không phải là một người, nhưng là hai người có lý lịch riêng biệt. Xin nhớ, đây không phải là một bài báo thường. Trái lại, bài viết mang tính cách lịch sử của đảng cộng sản Việt Nam. Bởi vì, nó được chính một trong bày ủy viên dự hội nghị còn sống, lại đang giữ vai trò lớn nhất trong đảng, viết lại sự việc thành lập đảng của mình. Một câu, một chữ trong bài viết ấy là lịch sử đảng. Theo đó, đảng cộng sản VN, toàn là những ngưòi đến và theo sau cái sự kiện ban đầu 3-2- 1930 ấy, không ai có bất cứ một tư cách nào để phủ nhận về những sự kiện lịch sử do chính người ủy viên thành lập đảng viết ra. Nghĩa là, bất cứ một thứ biện luận nào, dù cho là, vì có là sự nhầm lẫn trong in ấn, trong câu văn, để phũ nhận sự kiện ”đồng chí Nguyễn ái Quốc và tôi” là hai người, do chính Hồ chí Minh viết ra là không thể chấp nhận được. Bởi lẽ, sự phủ nhận ấy chính là sự phủ nhận về tính lịch sử và sự việc thành lập đảng cộng sản vào ngày 3-2-1930. Xin nhớ, đây là bài viết duy nhất về việc thành lập đảng CS, không có bài viết thứ hai của bất cứ một trong bảy ủy viên tham dự nào khác. Như thế, cũng không thể có sự kiện người này nhớ đúng người đi kia nhớ sai.!
" Năm 1929 (chính xác là ngày 19 tháng giêng năm 1929), trong khi đồng chí Nguyễn ái Quốc đi vắng, Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội khai toàn quốc Đại hội ở Hương Cảng. Đại biểu Bắc Kỳ đề nghị tổ chức đảng cộng sản, bị gạt đi, liền bỏ hội nghị ra về….
Cuối năm 1929, đồng chí Nguyễn ái Quốc trở lại Tàu (chính xác là ngày 20 tháng giêng năm 1930), cùng với đại biểu các nhóm khai hội ở Hương Cảng.
Trong 7, 8 đại biểu, ngoài đồng chí Nguyễn ái Quốc và tôi, nay chỉ còn đồng chí Hồ Tùng Mậu và đồng chí Trịnh Đình Cửu, đồng chí Tản Anh và vài đồng chí nữa đều oanh liệt hy sinh cho Đảng và cho dân tộc lâu trước ngày Cách mạng Tháng Tám
Sau cuộc bàn bạc sôi nổi, và sau lời giải thích rõ ràng của đồng chí Nguyễn ái Quốc, mọi người đều tán thành thống nhất cả ba nhóm thành một đảng. Thế là Đảng ta chân chính thành lập...".( Trần thắng Lợi, tức Hồ chí Minh) Ôi! Nó chân chính theo hệ… Tầu làm sao chứ!
Tưởng cũng cần nhắc lại là. Theo tài liệu do nhà cầm quyền cộng sản công bố trong “những tên gọi bí danh, bút danh của Hồ Chí Minh; do NXB Chính trị Quốc Gia.- Hà Nội 2001, có tất cả là169 cái tên chính! Bút danh Trần thắng Lợi, là một cái tên chính thức, mang số thứ tự thứ 114 trong tổng số 169 bí danh, bút hiệu, tên gọi của HCM. C ũng theo nhiều tài liệu của họ, bảy ủy viên đứng ra thành lập đảng CS lúc bấy giờ là: Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng mậu, Trịnh Đình Cửu, Lê Tản Anh, Trần Văn Cung, Lê Hồng Sơn và Hồ Tập Chương* (* theo Tg HT Hùng, Chương là người Tàu, là ủy viên liên lạc của CSQT trong hội nghị trù bị thành lập đảng cộng sản Đông Dương 3-2-1930, Trong nội bộ, Chương đã xử dụng cái tên Hồ chí Minh ngay từ thời gian này. Hùng viết ” Thời gian từ năm 1929 đến năm 1933, Nguyễn Ái Quốc và Hồ Tập Chương cùng hoạt động trên vũ đài chính trị, đặc biệt vào năm 1930 và nửa đầu năm 1931, hai người từng nhiều lần qua lại làm việc với nhau. Sở dĩ vào sau năm 1934, Quốc tế cộng sản có ý đồ lấy Hồ Tập Chương thay thế thân phận Nguyễn Ái Quốc, là bởi vì vào những năm 1929 đến năm 1933, hầu hết những hoạt động của Hồ Tập Chương đều mang tên Hồ Chí Minh. Do đó mọi việc Hồ Tập Chương làm đều được hiểu một cách sai lầm là của Nguyễn Ái Quốc. ”( bình sinh khảo)
Trong đoạn văn tường thuật ngắn trên, có đến hai lần Hồ chí Minh tự xác nhận Y và Nguyễn ái Quốc là hai người hoàn toàn khác nhau.
a. “Trong 7, 8 đại biểu, ngoài đồng chí Nguyễn ái Quốc và tôi”. Đoạn này xác định rõ ràng Nguyễn ái Quốc và Hồ chí Minh( tôi, tác giả bài viết) là hai người hoàn toàn khác nhau. Khác nhau như vợ với chồng, hai người nam, nữ khác biệt nhưng là một cặp.
b. “Sau lời giải thích rõ ràng của đồng chí Nguyễn ái Quốc, mọi người đều tán thành thống nhất”…. xác nhận công lao của Nguyễn ái Quốc, trong việc kết hợp ba nhóm lại với nhau. Và cá nhân Hồ chí Minh chỉ là một phần trong chữ “ mọi người” mà thôi.
Với sự các nhận này, Hồ chí Minh và Nguyễn ái Quốc không phải là một người, nhưng là hai người có lý lịch riêng biệt. Xin nhớ, đây không phải là một bài báo thường. Trái lại, bài viết mang tính cách lịch sử của đảng cộng sản Việt Nam. Bởi vì, nó được chính một trong bày ủy viên dự hội nghị còn sống, lại đang giữ vai trò lớn nhất trong đảng, viết lại sự việc thành lập đảng của mình. Một câu, một chữ trong bài viết ấy là lịch sử đảng. Theo đó, đảng cộng sản VN, toàn là những ngưòi đến và theo sau cái sự kiện ban đầu 3-2- 1930 ấy, không ai có bất cứ một tư cách nào để phủ nhận về những sự kiện lịch sử do chính người ủy viên thành lập đảng viết ra. Nghĩa là, bất cứ một thứ biện luận nào, dù cho là, vì có là sự nhầm lẫn trong in ấn, trong câu văn, để phũ nhận sự kiện ”đồng chí Nguyễn ái Quốc và tôi” là hai người, do chính Hồ chí Minh viết ra là không thể chấp nhận được. Bởi lẽ, sự phủ nhận ấy chính là sự phủ nhận về tính lịch sử và sự việc thành lập đảng cộng sản vào ngày 3-2-1930. Xin nhớ, đây là bài viết duy nhất về việc thành lập đảng CS, không có bài viết thứ hai của bất cứ một trong bảy ủy viên tham dự nào khác. Như thế, cũng không thể có sự kiện người này nhớ đúng người đi kia nhớ sai.!
2. Những lời phủ nhận, ngoài bản văn, từ Hồ chí Minh.
Tuy
đã vào Hà nội từ 1945, nhưng xem ra, bàn thân Hồ chí Minh còn e ngại
rất nhiều chuyện, nên không dám đương nhiên nhận mình là Nguyễn ái Quốc.
Việc Y không dám coi trời bằng vung, rồi tự cho mình là Nguỳễn ái Quốc
ngay từ đầu không phải là không có lý do. Thứ nhất, vừa mới chân ướt
chân ráo vào Hà Nội là lần lượt bà Nguyễn thị Thanh rồi ông Nguyễn sinh
Khiêm thay nhau, quần nâu áo vải từ quê nhà Nam Đàn lặn lội ra tận Hà
Nội xin gặp HCM, sau khi nghe tin phong phanh HCM là Nguyễn tất Thành.
Chuyện anh em họ tìm gặp nhau là phải đạo, nhưng với Hồ chí Minh có thể
là một đại hoạ. Theo đó, Y không thể để họ thăm mình như anh em ruột
thịt thường tình, nên được thay vào đó là vở tuồng: “ bác bận việc nước,
không tiếp được, bà bằng lòng vậy nhá!” để cho bà Nguyễn thị Thanh lủi
thủi ra về. Uất lên mà chết! Phần ông Nguyễn sinh Khiêm thì nghe nói,
được tiếp dưới ngọn đèn mờ không nhìn rõ mặt nhau và câu chuyện cũng
chẳng kéo dài qúa năm phút. Tại sao phải gặp nhau trong nhà kín, dưói
đèn mờ? Có phải ngoài cái hình dạng của Hồ chí Minh có thể gây ra đại
hoạ cho Hồ tập Chương, còn có chuyện nhà, chuyện anh em đưa nhau đi ăn
xin khi xưa cũng là cái thòng lọng để Hồ chí Minh tự buộc vào cổ mình,
nên HCM không dám gặp mặt những người này? Có thể là như thê, bởi lẽ, Y
có thể học được tiếng Việt giọng Nghệ rất chỉnh, Khuôn mặt , tai măt,
mũi được chỉnh hình cắt xén thật giống với Nguyễn sinh Cung. Nhưng không
thể biết được những câu chuyện mà chỉ có anh em Nguyễn sinh Cung mới
biết!
Sau cuộc tiếp ông Khiêm? Dĩ nhiên, Hồ chí Minh tự biết, không phải chỉ có bấy nhiêu người biết rõ về Nguyễn sinh Cung còn sống. Theo đó, nếu muốn nhận mình là Nguyễn sinh Cung thì phải tuyệt đối im lặng và chờ đợi thời gian thuận tiện, và có thể ngụy tạo thân phận để nhờ người khác tình cờ khám phá ra hơn là tự công bố. Y tuyệt đối không dám khinh xuất vì có thể bị lộ thân phận do những duyên cớ bất ngờ, không thể dự trù trước. Và đó có thể là một tính toán để chính Hồ chí Minh đã nhiều lần công khai xác nhận Y không phải là Nguyễn ái Quốc, như ông Hoàng Văn Chí ghi trong "Từ thực dân đến cộng sản - Một kinh nghiệm lịch sử của Việt Nam" , thì ông Hồ nhiều lần đã nói ông không phải là Nguyễn Ái Quốc! Rồi về phía người ngoại quốc cũng thế. Ngay cả khi tướng Salan, đại diện Pháp dự cuộc đàm phán năm 1946, hỏi thẳng vào mặt ông Hồ, Y vẫn một mực chối cãi. Ông không phải là Nguyễn ái Quốc.
Việc này cũng được kể lại trong” Truyện Hồ chí Minh” của William j. Duiker, trang 449 như sau:” "Trước đây, Hồ Chí Minh chưa thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc, nên vào năm 1946, khi triệu tập Hội nghị Quốc dân đại hội, Bộ trưởng Lao động Nguyễn Văn Thái có đề nghị vinh danh Hồ Chí Minh là "công dân số một" của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bởi lẽ, lúc ấy thân phận Hồ Chí Minh chưa được xác nhận là Nguyễn Ái Quốc( nhiều người cho rằng). Hồ Chí Minh chính là Hoa kiều tại Việt Nam, là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, là phái viên "Quốc tế cộng sản" được cử đến Việt Nam với nhiệm vụ thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa." . (bình sinh khảo)
. Để giữ bí mật, các đại biểu khai hội bên sân đá banh của người Tàu. Vừa giả xem đá banh, vừa bàn bạc về Đảng.Sau cuộc tiếp ông Khiêm? Dĩ nhiên, Hồ chí Minh tự biết, không phải chỉ có bấy nhiêu người biết rõ về Nguyễn sinh Cung còn sống. Theo đó, nếu muốn nhận mình là Nguyễn sinh Cung thì phải tuyệt đối im lặng và chờ đợi thời gian thuận tiện, và có thể ngụy tạo thân phận để nhờ người khác tình cờ khám phá ra hơn là tự công bố. Y tuyệt đối không dám khinh xuất vì có thể bị lộ thân phận do những duyên cớ bất ngờ, không thể dự trù trước. Và đó có thể là một tính toán để chính Hồ chí Minh đã nhiều lần công khai xác nhận Y không phải là Nguyễn ái Quốc, như ông Hoàng Văn Chí ghi trong "Từ thực dân đến cộng sản - Một kinh nghiệm lịch sử của Việt Nam" , thì ông Hồ nhiều lần đã nói ông không phải là Nguyễn Ái Quốc! Rồi về phía người ngoại quốc cũng thế. Ngay cả khi tướng Salan, đại diện Pháp dự cuộc đàm phán năm 1946, hỏi thẳng vào mặt ông Hồ, Y vẫn một mực chối cãi. Ông không phải là Nguyễn ái Quốc.
Việc này cũng được kể lại trong” Truyện Hồ chí Minh” của William j. Duiker, trang 449 như sau:” "Trước đây, Hồ Chí Minh chưa thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc, nên vào năm 1946, khi triệu tập Hội nghị Quốc dân đại hội, Bộ trưởng Lao động Nguyễn Văn Thái có đề nghị vinh danh Hồ Chí Minh là "công dân số một" của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bởi lẽ, lúc ấy thân phận Hồ Chí Minh chưa được xác nhận là Nguyễn Ái Quốc( nhiều người cho rằng). Hồ Chí Minh chính là Hoa kiều tại Việt Nam, là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, là phái viên "Quốc tế cộng sản" được cử đến Việt Nam với nhiệm vụ thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa." . (bình sinh khảo)
3. Những phủ nhận bằng hành động của Hồ chí Minh.
Khi
Hồ chí Minh từ chối gặp bà Nguyễn thị Thanh và ông Nguyễn sinh Khiêm
thì rõ ràng là Y đã từ chối nhận anh em, nhận họ hàng với những người
này. Bởi lẽ, như tôi viết ở trên, anh em ruột thịt xa cách nhau hằng mấy
chục năm trời, thì không một người nào, không một lý do nào có thể ngăn
cản họ gặp nhau và chuyện vãn hết ngày này sang ngày khác. Nhưng HCM
thì khác. Y cũng là con người, không phải là khúc cây cục đá, lại không
theo khuôn mẫu con người. Y chẳng một lần muốn gặp họ. Đã thế, cũng chỉ
viết thư chia buồn với giòng họ Nguyễn Sinh khi Nguyễn sinh Khiêm qua
đời và ký tên là Chí Minh! Sao mà nó nhảm nhí đến như thế nhỉ? Tại sao
cả hai người lại chết sớm thế? Liệu cái chết sớm của bà Thanh và ông
Khiêm, cũng như Lê Hồng Phong, Nguyễn thị Minh Khai có là một bí ẩn,
hoặc, có liên quan gì đến việc phải bảo toàn tông tích của HCM không bị
tiết lộ hay chăng?
Nếu không, thì cũng chỉ có thể suy diễn là Y không có tình máu mủ với những ngưòi này. Vì không có tình máu mủ ruột thịt, nên Hồ phải chờ cho đến khi những người này đã chết mục mả, năm 1957, HCM mới dám lò mò về Nam Đàn, và sau đó, (1958) lần hồi cho người ta biết Y là Nguyễn ái Quốc. Tuy nhiên, khi về Nam Đàn, HCM lại vấp phải một tai hoạ khác mà Y không không ngờ tới là. Y tự để cho bia miệng truyền đến đời đời, nguyễn rủa Y như một tên đại bất hiếu nếu y là Nguyễn sinh Cung. Lý do, khán đài nơi Y đứng … ba hoa, chỉ cách mộ bà Hoàng thị Loan có vài trăm mét, nhưng Y đã không đến thắp nhang cho bà. Như thế, bà là kẻ bạc phước hay Hồ chí Minh là kẻ bất hiếu đây?
Chuyện HCM không thắp nhang cho bà mang ý nghĩa gì? Có phải HCM tự cho mình đã là chủ tịch nửa nước, phần bà gìa nhà quê nằm trong cái mộ kia không đáng để cho Y đến gọi mẹ, và nhận một nén nhang đạo hiếu của Y? Hay còn vì một lý do nào khác? Chẳng lẽ, một ngưòi rất tài gian dối, giỏi đóng kịch lại không thể đóng nốt vở tuồng đạo hiếu với ngôi mộ kia để làm tuyên truyền truyền ư? Tôi không nghĩ HCM nằm trong hai trường hợp này. Nhưng đơn giản hơn, vì một ý do khác. Người nằm đưới mộ sâu kia không phải là mẹ của Y. Nên dù rất muốn, Y cũng không thể đóng kịch được. Hơn thế, đó còn là lòng tự ái dân tộc trong lòng của Y. HCM không thể cúi đầu lạy nấm mộ như là người con, dù Y đang đóng vai là con của bà. Ngoài ra, không có một lý do nào khác để biện minh.
Đó là câu chuyện cũ về Hồ chí Minh và Nguyễn ái Quốc. Nhưng dầu có giỏi tính toán gian trá đến đâu thì cũng sẽ bị phá vỡ. Nghĩa là, chuyện Hồ chí Minh là Hồ tập Chương chỉ còn trong sớm tối sẽ bị bóc trần. Nó sẽ bị bóc trần và khai tử bởi chính những đảng viên cộng sản. Bằng chứng là, những người đảng viên cộng sản trẻ tuổi, có tri thức, có văn hóa, có hiểu biết, điển hình như Đặng xương Hùng, đã công khai, minh bạch về việc ra khỏi đảng CSVN bằng một lý do mà không ai ngờ tới là. Các đảng viên như Hùng đã nghi ngờ, không phải chỉ vì cái phẩm chất man rợ của đảng cộng sản và Hồ chí Minh, nhưng còn là sự kiện giối trá, Hồ chí Minh là Hồ Tập Chương nữa! Hùng viết:
”Gần đây những bí mật của ông Hồ Chí Minh đã bị phơi bày. Chúng tôi, hầu hết là đảng viên, vẫn thường vui vẻ đùa cợt, có những bài vè chế giễu, nhưng rất đúng về nhân vật này. Ông Hồ Chí Minh đã bị nghi ngờ là một người Trung quốc, có tên là Hồ Tập Chương, do Quốc tế cộng sản dựng lên, thay thế cho Nguyễn Ái Quốc, người đã chết năm 1932. Mọi niềm tin đã bị đánh cắp. Tôi tuyên bố ra khỏi đảng. Ngày 5/12/2013 (Đặng xương Hùng)
Tôi trân trọng lý do ra khỏi đảng của anh. Hơn thế, tôi trân trọng tinh thần nhân bản trong con ngưòi của anh. Bởi vì, lý do ấy là tình người và lý trí Việt Nam. Điều ấy cũng có nghĩa, Đặng xương Hùng không chỉ đoạn tuyệt với cái gỉa dối, cái gian trá của cá nhân Hồ tập Chương trong vai Hồ chí Minh, nhưng còn là tập thể đảng cộng sản nữa. Anh đã nói lên một điều mà tôi cho rằng, tất cả các đoàn đảng viên đảng CSVN có học, có tri thức, có hiểu biết, phải nghĩ đến và quay về phục vụ cho quyền lợi của Tổ Quốc và dân tộc Việt Nam. Họ không thể tự lừa dối mình, tiếp tục nhận giặc làm cha, thờ Hồ tập Chương và phục vụ cho quyền lợi của CSTrung quốc để kiếm bỗng lộc riêng mà quên đi Tổ Quốc và đồng bào Việt Nam của mình. Bởi vì, theo lời Hùng tiết lộ, “hầu hét là đảng viên vẫn thường vui vẻ đùa cợt”. Nghĩa la họ chẳng còn tin gì HCM. Hơn thế, họ đã nghi ngờ HCM là Hồ tập Chương, ngưòi tàu, đóng thế vai HCM để mưu đồ chiếm đoạt đất nước và chế ngự dân ta. Một khi đã biết như thế mà các đảng viên CS không có thái độ dứt khoát thì khó tránh phần nhiệm trưóc lịch sử, nếu như không muốn nói đó là một trọng tội với tổ quốc và dân tộc Viêt Nam.
Kế đến, lời đoạn tuyệt với Hồ chí Minh và đảng cộng sản của Đặng xương Hùng phải được coi là vì tương lai của dân tộc và của đất nước Việt Nam. Nó biểu lộ một tâm tình trong sáng về với cái thật. Cái thật mà anh đã bị đánh cắp bằng lừa dối, bằng gian trá của cộng sản. Nó hoàn toàn khác với cái toan tính, có thể vẫn là không thật của Lê hiếu Đằng. Đằng cũng đã thoái đảng, nhưng với lý do :” “Đảng Cộng sản Việt Nam bây giờ không còn như trước – đấu tranh giải phóng dân tộc – mà đang suy thoái biến chất, thực chất chỉ là đảng của những tập đoàn lợi ích, trở thành lực cản cho sự phát triển đất nước, dân tộc, đi ngược lại lợi ích dân tộc, nhân dân”
Đằng viết thế là hoàn toàn sai trái, là gian trá, lừa mình bịp đời. Là thể hiện một tâm sinh lý bệnh hoạn, một não trạng nô lệ cộng sản. Vì thực tế, ngay từ khi thành lập đảng cộng sản 3-2-1930, cộng sản đã là một lực cản phá hoại sự tiến bộ của đất nước. Chính đảng cộng sản bằng muôn vàn những gian trá đã đưa cả dân tộc làm nô lệ cho cộng sản. Từ đó, đoạ đày, đẩy dân tộc vào con đường u tối lầm than, khốn cùng trên mọi phương diện, từ chính trị, văn hóa đến xã hội. Nó đã đưa đất nưóc tụt hậu, lại còn tưóc đoạt tất cả mọi quyền tự do căn bản của con ngưòi. Những quyền tự do mà ngay thời pháp, thời phong kiến ngưòi dân đã có. Thế đấy, đảng cộng sản xưa khá hơn nay ở cái điểm nào? Đảng cộng sản giải phóng dân tộc ở điểm nào mà Đằng ngoa ngữ tuyên truyền cho cộng sản đến khi xuôi tay?
Rõ ràng, khi cái thước đặt lên bàn, nó chỉ có thể kẻ được những đường thẳng. Nó không có khả năng quanh co. Sự thật cũng thế. Hơn lúc nào hết, người dân Việt Nam, mong mỏi những đoàn đảng viên đảng CSVN nhận thức đúng đắn được sự kiện bản thân họ đã bị lừa dối, bị gạt gẫm như Đăng xương Hùng, Để từ đó, họ quay về, thể hiện lòng yêu nước nhân bản của ngưòi Việt Nam. Cùng đứng dậy, bỏ đảng, làm những Lữ Gia của thế kỷ, để giải phóng dân tộc ra khỏi ách nô lệ của cộng sản. Và dập tan mưu đồ dâng Việt Nam cho Tàu mà Hồ chí Minh, ( Hồ Tập Chương) cũng như Đặng xuân Khu và tập đoàn lãnh đạo CS đã ra sức thực hiện trên đất nước ta từ 3-2-1930 đến nay. Có thế, đất nươc và dân tộc Việt Nam mới có ngày mai. Đưọc như thế, chúng ta mới có cơ hội xóa sổ toàn bộ những bản văn bản bất cân xứng, thiểu năng hay những thoả thuận ngầm giữa Việt cộng với Trung cộng. Từ đó, chúng ta mới có thể tính đến chuyện đòi lại đất, đòi lại biển về cho tổ quốc và dân tộc Việt Nam.
Bảo Giang 2-2014
Nếu không, thì cũng chỉ có thể suy diễn là Y không có tình máu mủ với những ngưòi này. Vì không có tình máu mủ ruột thịt, nên Hồ phải chờ cho đến khi những người này đã chết mục mả, năm 1957, HCM mới dám lò mò về Nam Đàn, và sau đó, (1958) lần hồi cho người ta biết Y là Nguyễn ái Quốc. Tuy nhiên, khi về Nam Đàn, HCM lại vấp phải một tai hoạ khác mà Y không không ngờ tới là. Y tự để cho bia miệng truyền đến đời đời, nguyễn rủa Y như một tên đại bất hiếu nếu y là Nguyễn sinh Cung. Lý do, khán đài nơi Y đứng … ba hoa, chỉ cách mộ bà Hoàng thị Loan có vài trăm mét, nhưng Y đã không đến thắp nhang cho bà. Như thế, bà là kẻ bạc phước hay Hồ chí Minh là kẻ bất hiếu đây?
Chuyện HCM không thắp nhang cho bà mang ý nghĩa gì? Có phải HCM tự cho mình đã là chủ tịch nửa nước, phần bà gìa nhà quê nằm trong cái mộ kia không đáng để cho Y đến gọi mẹ, và nhận một nén nhang đạo hiếu của Y? Hay còn vì một lý do nào khác? Chẳng lẽ, một ngưòi rất tài gian dối, giỏi đóng kịch lại không thể đóng nốt vở tuồng đạo hiếu với ngôi mộ kia để làm tuyên truyền truyền ư? Tôi không nghĩ HCM nằm trong hai trường hợp này. Nhưng đơn giản hơn, vì một ý do khác. Người nằm đưới mộ sâu kia không phải là mẹ của Y. Nên dù rất muốn, Y cũng không thể đóng kịch được. Hơn thế, đó còn là lòng tự ái dân tộc trong lòng của Y. HCM không thể cúi đầu lạy nấm mộ như là người con, dù Y đang đóng vai là con của bà. Ngoài ra, không có một lý do nào khác để biện minh.
Đó là câu chuyện cũ về Hồ chí Minh và Nguyễn ái Quốc. Nhưng dầu có giỏi tính toán gian trá đến đâu thì cũng sẽ bị phá vỡ. Nghĩa là, chuyện Hồ chí Minh là Hồ tập Chương chỉ còn trong sớm tối sẽ bị bóc trần. Nó sẽ bị bóc trần và khai tử bởi chính những đảng viên cộng sản. Bằng chứng là, những người đảng viên cộng sản trẻ tuổi, có tri thức, có văn hóa, có hiểu biết, điển hình như Đặng xương Hùng, đã công khai, minh bạch về việc ra khỏi đảng CSVN bằng một lý do mà không ai ngờ tới là. Các đảng viên như Hùng đã nghi ngờ, không phải chỉ vì cái phẩm chất man rợ của đảng cộng sản và Hồ chí Minh, nhưng còn là sự kiện giối trá, Hồ chí Minh là Hồ Tập Chương nữa! Hùng viết:
”Gần đây những bí mật của ông Hồ Chí Minh đã bị phơi bày. Chúng tôi, hầu hết là đảng viên, vẫn thường vui vẻ đùa cợt, có những bài vè chế giễu, nhưng rất đúng về nhân vật này. Ông Hồ Chí Minh đã bị nghi ngờ là một người Trung quốc, có tên là Hồ Tập Chương, do Quốc tế cộng sản dựng lên, thay thế cho Nguyễn Ái Quốc, người đã chết năm 1932. Mọi niềm tin đã bị đánh cắp. Tôi tuyên bố ra khỏi đảng. Ngày 5/12/2013 (Đặng xương Hùng)
Tôi trân trọng lý do ra khỏi đảng của anh. Hơn thế, tôi trân trọng tinh thần nhân bản trong con ngưòi của anh. Bởi vì, lý do ấy là tình người và lý trí Việt Nam. Điều ấy cũng có nghĩa, Đặng xương Hùng không chỉ đoạn tuyệt với cái gỉa dối, cái gian trá của cá nhân Hồ tập Chương trong vai Hồ chí Minh, nhưng còn là tập thể đảng cộng sản nữa. Anh đã nói lên một điều mà tôi cho rằng, tất cả các đoàn đảng viên đảng CSVN có học, có tri thức, có hiểu biết, phải nghĩ đến và quay về phục vụ cho quyền lợi của Tổ Quốc và dân tộc Việt Nam. Họ không thể tự lừa dối mình, tiếp tục nhận giặc làm cha, thờ Hồ tập Chương và phục vụ cho quyền lợi của CSTrung quốc để kiếm bỗng lộc riêng mà quên đi Tổ Quốc và đồng bào Việt Nam của mình. Bởi vì, theo lời Hùng tiết lộ, “hầu hét là đảng viên vẫn thường vui vẻ đùa cợt”. Nghĩa la họ chẳng còn tin gì HCM. Hơn thế, họ đã nghi ngờ HCM là Hồ tập Chương, ngưòi tàu, đóng thế vai HCM để mưu đồ chiếm đoạt đất nước và chế ngự dân ta. Một khi đã biết như thế mà các đảng viên CS không có thái độ dứt khoát thì khó tránh phần nhiệm trưóc lịch sử, nếu như không muốn nói đó là một trọng tội với tổ quốc và dân tộc Viêt Nam.
Kế đến, lời đoạn tuyệt với Hồ chí Minh và đảng cộng sản của Đặng xương Hùng phải được coi là vì tương lai của dân tộc và của đất nước Việt Nam. Nó biểu lộ một tâm tình trong sáng về với cái thật. Cái thật mà anh đã bị đánh cắp bằng lừa dối, bằng gian trá của cộng sản. Nó hoàn toàn khác với cái toan tính, có thể vẫn là không thật của Lê hiếu Đằng. Đằng cũng đã thoái đảng, nhưng với lý do :” “Đảng Cộng sản Việt Nam bây giờ không còn như trước – đấu tranh giải phóng dân tộc – mà đang suy thoái biến chất, thực chất chỉ là đảng của những tập đoàn lợi ích, trở thành lực cản cho sự phát triển đất nước, dân tộc, đi ngược lại lợi ích dân tộc, nhân dân”
Đằng viết thế là hoàn toàn sai trái, là gian trá, lừa mình bịp đời. Là thể hiện một tâm sinh lý bệnh hoạn, một não trạng nô lệ cộng sản. Vì thực tế, ngay từ khi thành lập đảng cộng sản 3-2-1930, cộng sản đã là một lực cản phá hoại sự tiến bộ của đất nước. Chính đảng cộng sản bằng muôn vàn những gian trá đã đưa cả dân tộc làm nô lệ cho cộng sản. Từ đó, đoạ đày, đẩy dân tộc vào con đường u tối lầm than, khốn cùng trên mọi phương diện, từ chính trị, văn hóa đến xã hội. Nó đã đưa đất nưóc tụt hậu, lại còn tưóc đoạt tất cả mọi quyền tự do căn bản của con ngưòi. Những quyền tự do mà ngay thời pháp, thời phong kiến ngưòi dân đã có. Thế đấy, đảng cộng sản xưa khá hơn nay ở cái điểm nào? Đảng cộng sản giải phóng dân tộc ở điểm nào mà Đằng ngoa ngữ tuyên truyền cho cộng sản đến khi xuôi tay?
Rõ ràng, khi cái thước đặt lên bàn, nó chỉ có thể kẻ được những đường thẳng. Nó không có khả năng quanh co. Sự thật cũng thế. Hơn lúc nào hết, người dân Việt Nam, mong mỏi những đoàn đảng viên đảng CSVN nhận thức đúng đắn được sự kiện bản thân họ đã bị lừa dối, bị gạt gẫm như Đăng xương Hùng, Để từ đó, họ quay về, thể hiện lòng yêu nước nhân bản của ngưòi Việt Nam. Cùng đứng dậy, bỏ đảng, làm những Lữ Gia của thế kỷ, để giải phóng dân tộc ra khỏi ách nô lệ của cộng sản. Và dập tan mưu đồ dâng Việt Nam cho Tàu mà Hồ chí Minh, ( Hồ Tập Chương) cũng như Đặng xuân Khu và tập đoàn lãnh đạo CS đã ra sức thực hiện trên đất nước ta từ 3-2-1930 đến nay. Có thế, đất nươc và dân tộc Việt Nam mới có ngày mai. Đưọc như thế, chúng ta mới có cơ hội xóa sổ toàn bộ những bản văn bản bất cân xứng, thiểu năng hay những thoả thuận ngầm giữa Việt cộng với Trung cộng. Từ đó, chúng ta mới có thể tính đến chuyện đòi lại đất, đòi lại biển về cho tổ quốc và dân tộc Việt Nam.
Bảo Giang 2-2014
0 comments:
Post a Comment