Chuyện đang râm ran cuối năm 2015 ở Việt Nam là ai cũng muốn biết mặt
mũi kẻ đã tung ra chiến dịch chống đòi đảng Cộng sản chấm dứt độc quyền
lãnh đạo và từ bỏ chủ nghĩa Cộng sản để đoàn kết dân chống đe dọa đô hộ
từ Trung Quốc.
Các bài viết được phối hợp bởi Ban Tuyên giáo và Hội đồng Lý luận Trung
ương. Ủy viên Bộ Chính trị khóa đảng XI, Đinh Thế Huynh là người đứng
đầu cả hai tổ chức tuyên truyền này.
Đôi khi Tổng cục Chính trị Quân đội cũng tham gia vào chiến dịch này. Do
đó từ năm 2013, báo Quân đội Nhân dân của Bộ Quốc phòng đã đi tiên
phong trong nhiệm vụ phản bác các quan điểm trái chiều với đảng. Các tác
giả đã chỉ trích các lực lượng được họ gọi là “phản động”, “cơ hội
chính trị”, “diễn biến hòa bình” và “các thế lực thù địch”, bao gồm cả
các tổ chức chống đảng CSVN của người Việt Nam ở nước ngoài là những cá
nhân và tổ chức chống đảng cầm quyền.
Nội dung quan điểm của đội ngũ tuyên truyền Đảng được tập trung vào 2 điểm chính:
1.- Phải tiếp tục kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để làm nền tảng xây dựng đất nước.
2.- Việt Nam không có sự lựa chọn nào khác ngoài con đường xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy, đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là
sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Nhưng đảng lại không có tư liệu nào, dù nhỏ nhất, chứng minh nhân dân đã bỏ phiếu mời đảng lãnh đạo mình.
Đây cũng chính là lập trường của đảng CSVN được ghi trong Dự thảo Báo
cáo Chính trị của Trung ương XI sẽ trình ra trước Đại hội đảng XII, dự
trù đầu năm 2016.
Lập trường này không mới mà chỉ tái khẳng định quan điềm đã ghi trong “Cương lĩnh Xây dựng Đất nước Trong Thời kỳ Qúa độ lên Xã hội Chủ nghĩa Xã Hội”, nguyên thủy từ năm 1991 được bổ sung và phát triển rộng thêm năm 2011 tại Đại hội đàng XI.
Lý luận hoang tưởng
Trong Cương lĩnh, được coi như Hiến pháp của đảng, Ban Tuyên giáo và Hội
đồng Lý luận Trung ương đã lý luận giáo điều, bảo thủ lạc hậu, và chậm
tiết rằng: “Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển,
nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những
mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa
tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà
ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn
tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và
cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ
nghĩa tư bản.”
Nhưng quyết định bằng cách nào thì Cương lĩnh giải thích: “Đặc điểm
nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã
hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu
tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh
của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển
và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những
bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định
sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.”
Trên thế giới chỉ còn lại 4 nước đi theo chủ nghĩa Cộng sản gồm Trung
Hoa, Việt Nam, Bắc Hàn và Cuba. Nhưng Trung Hoa đưa ra “Chủ nghĩa xã hội
đặc sắc Trung Quốc”, coi đó là món đặc sản riêng dựa trên lý thuyết
Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông. Việt Nam thì ỡm ờ với thứ chế độ
theo Cộng sản nhưng núp dưới chiêu bài gọi là “để tiến tới”, hay “qúa độ
lên Xã hội Chủ nghĩa” bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Từ ngày khối Cộng sản tan rã từ 1989-1991, không có bất cứ nước nào trên
thế giới chạy theo chủ nghĩa Cộng sản để thiết lập nhà nước Xã hội chủ
nghĩa. Do đó, Cương lĩnh của đảng CSVN chỉ là tờ giấy có chữ nghĩa không
tưởng, vô vọng và hão huyền.
Không ai trong đảng CSVN, kể cả các Tổng Bí thư đã dám cam đoan đến bao
giờ thì nhân dân Việt Nam được sống trong xã hội lý tưởng như đảng đang
mơ trong giấc ngủ li bì.
Hồi tháng 10 năm 2013, Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng cũng đã nói: “Đổi
mới chỉ là một giai đoạn, còn xây dựng CNXH còn lâu dài lắm. Đến hết
thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa.”
Nói như thế là phiêu lưu vô định hướng như người mù quờ quạng trong đếm tối.
Bắc Hàn thì tiếp tục độc tài, nghèo nàn và lạc hậu trong khi Cuba chuẩn
bị sang trang với quyết định bình thường quan hệ ngoại giao với Mỹ sau
50 năm chia cách và chịu cải thiện xã hội.
Những “nhà lý luận của đảng” tiếp tục cù nhầy nói rằng mục tiêu của chế độ Xã hội Chủ nghĩa của Việt Nam là làm cho “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”,
nhưng họ lại không bào chữa được tại sao sau 30 năm đổi mới mà Việt Nam
vẫn chưa làm nổi con ốc vít, vẫn ì ạch trong số các nước đứng cuối bảng
về lợi tức đầu người; không tự chủ được kinh tế nên vẫn phải lệ thuộc
vào kinh tế Trung Quốc để tồn tại; người dân không có các quyền dân chủ
như quy định trong Hiến pháp; thiếu công bằng xã hội và lạc hậu hơn
nhiều nước trong khu vực.
Số người giầu ở Việt Nam tập trung vào những cán bộ, đảng viên biết tham
nhũng, biết sử dụng chức vụ và quyền hành đề làm giầu và những người có
cơ hội biết sống và doanh thương theo cơ chế.
Đại đa số nhân dân, nhất là ở vùng nông thôn sâu và vùng xa vẫn sống nghèo từ đời này qua đời nọ.
Đạo đức cán bộ đi xuống, luân thường đạo lý đảo ngược, tội phạm xã hội
và các tệ nạn ma túy, mại dâm, băng đảng tăng cao mỗi năm.
Như thế mà Nguyễn Nhâm vẫn có thể ngụy biện trên Tạp chí Cộng sản, cơ quan lý luận của đảng CSVN, rằng: “Để
xây dựng đất nước theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”, Việt Nam không có con đường nào khác ngoài con đường xã
hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội đích thực vẫn là tương lai của nhân
loại, vẫn là xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản hiện đại; vì chủ nghĩa tư
bản hiện đại tuy có một số ưu điểm, thành tựu nhưng không thể khắc phục
được quy luật vốn có của lịch sử mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra.” (TCCS, 6/11/2015
Tác giả còn mơ màng nói rằng: “Ngày nay, khi mà nhân loại đang tiến
tới thời đại kinh tế tri thức thì những tiêu chí của chủ nghĩa xã hội có
nhiều cơ sở để trở thành hiện thực; mặc dù, thời gian có thể phải nhiều
năm, thậm chí nhiều chục năm. Thực tiễn trên đây cũng là cơ sở để lý
giải về mối quan hệ gắn kết giữa yêu nước với yêu chủ nghĩa xã hội. Sự
khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản hiện đại, sự “trở về” của nhân loại với
học thuyết Mác - Lê-nin đang làm cho vấn đề “độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội” không chỉ là bài học lịch sử mà còn là yêu cầu
khách quan của cả hiện tại và tương lai.”
Tương tự, Tác giả Trần Văn Kim viết trên báo Quân đội Nhân Dân ngày 14/12/2015: “Kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con
đường duy nhất đúng mà toàn Đảng, toàn quân cũng như mọi người dân Việt
Nam đã và đang kiên trì, bền bỉ, quyết tâm thực hiện cho bằng được. Sẽ
không có khó khăn, thách thức nào, không có thế lực chống đối nào có thể
ngăn cản chúng ta thực hiện lý tưởng cao đẹp đó, bởi vì, đi lên chủ
nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát
triển của lịch sử.”
Loại lập luận tầm phào-ba láp này đã đóng góp vào tình trạng hoang mang,
mất định hướng và bỏ hàng ngũ của một số trong nhỏ cán bộ đảng viên đã
được Bộ Chính trị nhìn nhận trong 2 nguy cơ mới là “tự diễn biến” và “tự
chuyển hóa”.
Hồi 1994, tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII
(20-25/1/1994), đảng đã nhìn nhận Việt Nam đang phải đối phó với 4 nguy
cơ trước mắt là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ chệch hướng
xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội; âm mưu và hành
động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.
Báo cáo chính trị nói hết
Giờ đây 21 năm sau, ngoài 4 nguy cơ vẫn tồn tại đảng còn chuốc thêm 2
nguy cơ đang làm lung lay đảng thì đã đủ để trả lời cho những lập luận
“bảo hoàng hơn vua” của những cái loa tuyên truyền vô cảm của Tuyên giáo
chưa?
Những người này cũng nên biết tại sao Dự thảo báo cáo Chính trị tại Đại hội XII đã viết: “Công
tác bảo vệ chính trị nội bộ có mặt còn hạn chế. Chưa nắm và giải quyết
tốt vấn đề chính trị hiện nay, trong khi những biểu hiện "tự diễn biến",
"tự chuyển hóa" có xu hướng diễn biến phức tạp trong Đảng, trong hệ
thống chính trị và trong xã hội. Không ít cán bộ, đảng viên có những
biểu hiện dao động, mất phương hướng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của
Đảng, về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Đã xuất hiện những việc làm và phát ngôn vô nguyên tắc, trái với
Cương lĩnh, đường lối, Điều lệ Đảng ở một số cán bộ, đảng viên.”
Ngoài ra, khi họ chỉ biết cúi đầu xuống cát để bênh vực chế độ thì họ
lại quên đi những việc làm hại dân, phá hoại đất nước của các đảng viên
xấu.
Bằng chứng này không cần tìm đâu xa. Dự thảo Báo cáo chính trị đã viết:
“Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền các cấp chưa thực hiện tốt vai trò lãnh
đạo, chỉ đạo, quản lý, thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng
phí; chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị,
của nhân dân trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Công tác phòng,
chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt mục tiêu, yêu cầu. Tham nhũng, lãng
phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức
tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều cấp, nhiều ngành, làm cản trở
sự phát triển kinh tế - xã hội, gây bức xúc trong dư luận, là thách thức
nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của
Nhà nước, đe dọa sự tồn vong của chế độ.”
Nói vế nhân sự đảng, Dự thảo viết: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên
chưa gương mẫu trước nhân dân…Còn có biểu hiện quan liêu, cửa quyền,
chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở. Tình trạng nói không đi đôi với
làm, nói nhiều làm ít chậm được khắc phục.”
Theo báo Tiền Phong thì báo cáo của nhà nước cho biết năm 2015, các vụ
án, vụ việc tham nhũng gây thiệt hại gần 1 nghìn tỷ đồng, 10 nghìn
m2 đất, nhưng chỉ thu hồi được hơn 500 tỷ và gần 3 nghìn m2 đất.
Ông Huỳnh Phong Tranh, Tổng Thanh tra Chính phủ giải thích với Tiền Phong:
“Tỷ lệ thu hồi tài sản năm sau cao hơn năm trước. Tuy nhiên kết quả đạt
được vẫn còn hạn chế, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của công tác
PCTN và kỳ vọng của nhân dân.
Nguyên nhân chủ yếu là do yếu tố chủ quan như:
- Một số quan điểm, chủ trương của Đảng về thu hồi tài sản tham nhũng
chưa được thể chế hóa kịp thời; các quy định của pháp luật về thu hồi
tài sản tham nhũng phần lớn mang tính nguyên tắc, quy định trách nhiệm
của từng cơ quan và quan hệ phối hợp giữa các cơ quan chưa rõ ràng; việc
nội luật hóa các quy định về thu hồi tài sản theo Công ước Liên hợp
quốc về chống tham nhũng còn chậm.
- Cơ chế kiểm soát tài sản, kiểm soát thu nhập, quản lý các giao dịch
về tài sản còn bất cập. Hệ thống đăng ký tài sản chưa phát triển. Giải
pháp minh bạch tài sản, thu nhập nhằm phòng ngừa tham nhũng còn mang
tính hình thức, hiệu quả thấp.
- Công tác phát hiện tham nhũng còn hạn chế, không kịp thời. Không ít
trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng chưa chú ý, không kịp thời áp
dụng các biện pháp tư pháp, biện pháp khẩn cấp tạm thời: kê biên, tạm
giữ, cấm dịch chuyển tài sản, phong tỏa tài khoản của bị can, bị cáo, tổ
chức có liên quan v.v...
- Việc xác định tài sản tham nhũng, tài sản có nguồn gốc từ tham
nhũng hoặc bị thiệt hại do tham nhũng trong nhiều vụ việc rất phức tạp.
Nhiều vụ còn có trở ngại từ công tác giám định tư pháp.”
Cười ra nước mắt
Liên quan đến chuyện kê khai tài sản của cán bộ, đảng viên, nhất là các
cấp lãnh đạo và có trách nhiệm liên hệ đến các cơ chế làm ra tiền, đóng
thuế, cửa khẩu, ngân hàng, đất đai v.v... thì ở Việt Nam thời Cộng sản
có nhiều chuyện cười ra nước mắt.
Một trong nhưng mẩu chuyện được ông Ngô Mạnh Hùng, phó cục trưởng Cục
Chống tham nhũng (Thanh tra Chính phủ), nêu lên tại hội thảo quốc tế “Xây dựng thiết chế kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, người có chức vụ, quyền hạn” do Ủy ban Tư pháp của Quốc hội tổ chức tại Quảng Ninh ngày 10/12/2015.
Báo Tuổi trẻ ghi lại lời ông Hùng kể về một trường hợp cụ thể là ông Nguyễn Văn A (không phải tên thật) cho biết: "Đầu tiên ông này kê khai tài sản gồm có 3 căn nhà, 1 ôtô, thu nhập 360 triệu đồng/năm.
Sau khi có đơn tố cáo, cơ quan chức năng yêu cầu kê khai bổ sung, ông
này kê khai thêm hai tài sản lớn hơn là một căn nhà ở quận 2, TP.HCM
diện tích 539m2 và một mảnh đất tại quận 9 có diện tích 10.000m2 mua
cùng bạn.
Tiếp tục được yêu cầu kê khai bổ sung lần thứ hai, ông kê thêm 6 thửa
đất ở quận 9 (trong đó có 2 thửa vừa chuyển nhượng cho người khác) và
một thửa đất ở quận 2.
Cơ quan chức năng xác minh thì thấy ông này còn có thêm 9 thửa đất
khác tại quận 9 và quận 2 với tổng diện tích khoảng 15.000m2 và tổng cổ
phiếu nắm giữ gần 24 tỉ đồng.”
Tuổi Trẻ viết tiếp: “Ngạc nhiên hơn, khi ông Hùng cho hay dù ông A
nhiều lần không trung thực, kê khai tài sản không đúng nhưng hình thức
xử lý với ông này chỉ là "khiển trách về Đảng". Sau vụ việc, cũng không
một cơ quan nào xác minh dòng thu nhập ra, vào, cũng không thấy một cơ
quan nào thanh tra xem việc thăng tiến, chức vụ, quan hệ ông này ra
sao.”
Tài sản công dần trở thành tài sản tư
Tham gia phát biểu tại hội thảo, ông Nguyễn Đình Quyền - phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp cũng cho hay: “Trong
khi ở VN kiểm soát thu nhập yếu, khi kê khai thường không có gì. "Chẳng
ai dại gì mà kê khai xe hơi xịn hàng chục tỉ, mua nhà hàng trăm tỉ.
Người ta nói con đường đi lên của các đại gia ở VN gần giống như con
đường đi lên của các đại gia ở Nga thời hậu Xô viết, đó là con đường
những tài sản công dần trở thành những tài sản tư thông qua cổ phần hóa,
tham nhũng”
Cũng tại Hội thảo này, nhiều tham dự viên than phiền rằng, khi khai thì
Bộ trưởng nói không có gì nhưng vợ con lại chi tiêu tiền tỷ, có nhiều
tài sản thì họ lại không nằm trong diện bị điếu tra nên tham nhũng bị
phân tán dễ dàng.
Chế độ như thế thì dân phải đói nghèo và bị bóc lột là chuyện đã xảy ra
cho nên cần phải thay đổi để cứu nước, an dân. Một cách cụ thể nhất là
đảng CSVN phải biết đặt quyền lợi tối thượng của đất nước lên trên quyến
lợi đảng để từ bỏ độc quyền lãnh đạo, trả lại quyền làm chủ đất nước
cho dân.
Việt Nam cần có một Nhà nước mới dân chủ do dân lập ra và biết tôn trọng
mọi quyền tự do cơ bản của công dân như Hiến pháp năm 2013 đã viết.
Trước thềm Đại hội đảng XII, nhiều khối tranh đấu và trí thức trong nước
đã lên tiếng khuyên đảng hãy vì quyền lợi tối cao của đất nước mà thay
đổi để cứu nước và đoàn kết toàn dân trước nguy cơ đô hộ của Trung
Quốc.
Nhưng ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chống lại. Trong diễn văn khai
mạc Hội nghị Trung ương 13 ngày 14/12 (2015), ông Trọng tiết lộ trong
số những ý kiến đóng góp vào các dự thảo văn kiện đảng XII “Cũng có những ý kiến chưa tán thành hoặc chưa nhất trí cao một số nội dung cụ thể.”
Ông nói: “Cá biệt, có ý kiến đề nghị Đại hội XII của Đảng thay đổi
Cương lĩnh và Điều lệ Đảng, đi ngược lại quan điểm, đường lối cơ bản của
Đảng đã được khẳng định tại Cương lĩnh của Đảng (bổ sung, phát triển
năm 2011) và Hiến pháp năm 2013.”
Sau đó, ông kêu gọi các Ủy viên Trung ương 11 hãy: “Bày tỏ chính kiến
đối với những ý kiến sai trái, đi ngược lại quan điểm, đường lối cơ bản
của Đảng. Từ đó, xem xét thông qua toàn văn Báo cáo chính trị và Báo
cáo kinh tế - xã hội trình Đại hội XII của Đảng.”
Như thế là ông Trọng đã đứng về phe Tuyên Giáo, Hội đồng Lý luận Trung
ương và Tổng Cục Chính trị Quân đội để tiếp tục bảo vệ chế độ theo chủ
nghĩa Cộng sản và bảo vệ quyền cai trị độc tôn cho đảng.
Ông Trọng đã đặt quyền lợi của thiểu số trên 3 triệu Đảng viên lên trên quyền lợi thiêng liêng và tối thượng của 90 triệu dân.
Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nói Tổ Quốc không phải của riêng ai,
nhưng hành động của ông Nguyễn Phú Trọng đã coi đảng cũng là Tổ quốc nên
đất nước lâm nguy là tất yếu.
Việc này cũng đã được Phùng Quang Thanh, Đại tướng Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trường Quốc phòng nói tại Quốc hội ngày 22/10/2015: “Nếu mà mất Đảng, mất chế độ thì biển đảo cũng mất.”
Nhưng ông Thanh cũng đã biết dù đảng của ông còn sống mà Hoàng Sa đã nằm
gọn trong tay Trung Quốc từ tháng 1/1974 và 7 đảo và bãi đã của Việt
Nam ở Trường Sa cũng đã bị quân Trung Quốc đánh chiếm từ ngày
14/3/1988.
Trong khi đó ngư dân Việt Nam tiếp tục bị hải quân Trung Quốc tấn công,
đánh đập và tích thu tài sản khi đánh bắt ở Hoàng Sa và Trường Sa thì
ông Phùng Quang Thanh ở đâu, làm gì mà không dám hé răng?
Trung Quốc cũng đã cải tạo các khu chiếm được của Việt Nam ở Trường Sa
để xây căn cứ quân sự đe dọa an ninh Việt Nam bây giờ và mai sau mà ông
Thanh vẫn hớn hở nói trước Quốc Hội: “Về bảo vệ chủ quyền lãnh thổ,
trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý vẫn bảo vệ tốt, không ai xâm
phạm được, các điểm đóng quân của ta ở quần đảo Trường Sa vẫn được đảm
bảo, không mất điểm nào. Khu vực thềm lục địa, chúng ta có các nhà giàn
dầu khí, vẫn đảm bảm tốt. Ta có sửa chữa, nâng cấp, cải tạo mới thêm một
số nhà giàn. Góp phần đảm bảo giữ chủ quyền, không để cho nước ngoài
đến đóng xen kẽ vào…
Chúng ta đảm bảo chủ quyền trên biển, các hoạt động kinh tế như mấy
chục giếng khoan dầu vẫn hoạt động tốt, chúng ta bảo vệ để không giếng
nào bị ngừng hoạt động. Khai thác nghề cá của ngư dân không bị ảnh
hưởng, trong 200 hải lý thì bà con vẫn đánh cá bình thường, những âu tàu
mà chúng ta làm được càng khuyến khích ngư dân bám biển, kết hợp với
bảo vệ chủ quyền.
Quản lý trên biển đã giữ được hòa bình, ổn định, trên thực địa thì
phải bảo vệ rất quyết liệt nhưng tuyệt đối không dùng vũ lực, đúng với
quy định của luật pháp quốc tế.” (báo Tuổi Trẻ, 20/10/2015)
Nói như thế là ông Thanh đã chấp nhận “giữ nguyên trạng” tình hình ở
Biển Đông để thừa nhận quyến làm chủ của Trung Quốc ở Hoàng Sa và một
phần Trường Sa.
Quốc hội Việt Nam, những người mang danh đại biểu của dân mà không biết
cái ý thâm độc “nối giáo cho giặc” của ông Phùng Quang Thanh hay sao mà
chưa thấy ai lên tiếng?
Như vậy rõ ràng là Đảng, quân đội và nhà nước CSVN đã không dám đấu
tranh giành lại chủ quyền toàn vẹn ở Hoàng Sa và Trường Sa, dù bằng biện
pháp hòa bình là kiện Trung Quốc ra tòa án Quốc tế như Phi Luật Tân đã
làm thì đảng và chế độ này có đáng tồn tại không, hay cứ vô cảm để vô
ích? -/-
(12/015)
0 comments:
Post a Comment