VRNs (01.11.2012)
– Sài Gòn – Ngày mai, 02.11.2012, tròn 49 năm, ngày Tổng thống Gioan
Baotixita Ngô Đình Diệm và cố vấn Giacôbê Ngô Đình Nhu bị giết tại Chợ
Lớn, Sài Gòn. Thời đệ nhất Cộng hòa đã qua 49 năm, nhưng rất ít người
Việt Nam trong nước nói về giai đoạn này, làm cho giới trẻ VN, nhất là
giới trẻ ở Miền Nam không biết chính xác và đầy đủ về giai đoạn này. Đây
là trách nhiệm của những người nhận mình là sử gia, là người làm lịch
sử.
Nhân dịp
kỷ niệm này, VRNs xin đăng lại cuộc phỏng vấn giữa ký giả Minh Võ và ông
Cao Xuân Vỹ đã được công bố trên trang Việt Thức, ngày 14.06.2012, để
giúp giới trẻ trong nước có thêm cơ hội tìm hiểu lịch sử nước mình.
———–
Như đã
hứa, ông Cao Xuân Vỹ, sau ba lần vào cấp cứu và điều trị tại bệnh viện,
đã vui lòng dành cho chúng tôi một cuộc phỏng vấn để cống hiến bạn đọc
một số hồi ức và kỷ niệm của ông trong thời gian đi theo Việt Minh kháng
chiến rồi về hợp tác với chính phủ Ngô Đình Diệm với tư cách là người
phụ tá thân cận của ông Ngô Đình Nhu, bào đệ và là cố vấn chính trị của
Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
1. Hỏi: Thưa ông, nghe nói ông cùng quê Nghệ An với ông Hồ Chí Minh?
Đáp: Phải. Tôi người làng Thịnh Mỹ, phủ Diễn Châu ở về phía biển, còn ông Hồ ở xã Kim Liên huyện Nam Đàn về phía núi.
2. Hỏi: Ông có thể cho biết gia đình ông có liên hệ gì với gia đình ông Hồ không?
Đáp: Tôi
được biết ông cố tôi là cụ Cao Xuân Dục, thượng thư bộ học thuộc triều
đình Huế có giúp đỡ thân phụ ông Hồ là Nguyễn Sinh Sắc về tài chính và
khuyến khích, giúp đỡ ông ấy nhiều trong việc học hành để có thể đi thi
và đậu phó bảng. Một phần vì ông Nguyễn Sinh Sắc là bạn học với ông nội
tôi là Cao Xuân Tiếu. Đây là hình căn nhà ông nội tôi cho ông cử Sắc.
(Ông Vỹ đưa xem hình căn nhà.)
3. Hỏi: Có tài liệu của phía Cộng Sản, như của Sơn Tùng và Nguyễn Đắc Xuân nói, khi thấy ông Nguyễn Sinh Sắc thi hỏng khoa Ất Mùi, (năm 1895), ông Cao Xuân Dục đã giúp cho ông Nguyễn Sinh Sắc được vào Huế, để có phương tiện và đủ sách vở hầu tiếp tục việc học và có thể thành đạt. Điều này có đúng không?
3. Hỏi: Có tài liệu của phía Cộng Sản, như của Sơn Tùng và Nguyễn Đắc Xuân nói, khi thấy ông Nguyễn Sinh Sắc thi hỏng khoa Ất Mùi, (năm 1895), ông Cao Xuân Dục đã giúp cho ông Nguyễn Sinh Sắc được vào Huế, để có phương tiện và đủ sách vở hầu tiếp tục việc học và có thể thành đạt. Điều này có đúng không?
Đáp: Đúng.
Ông cố tôi còn can thiệp để cho ông Nguyễn Sinh Sắc, dù không phải là
con quan cũng được vào học ở Quốc Tử Giám. Đến khoa thi năm Tân Sửu
(1901) chánh chủ khảo Cao Xuân Dục thấy khóa sinh Sắc không trúng tuyển
đã cho lệnh xét lại bài thi của 4 thí sinh để rồi xin vua Thành Thái cho
ông ta đậu phó bảng. Khóa ấy có 9 tiến sĩ, 13 phó bảng. Ông Sắc đậu phó
bảng thứ 11.
4. Hỏi: Hồi còn nhỏ ông có biết về hoạt động của Cộng sản ở quê nhà và có chứng kiến các cuộc nổi dậy của Cộng Sản thường được gọi là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh không?
4. Hỏi: Hồi còn nhỏ ông có biết về hoạt động của Cộng sản ở quê nhà và có chứng kiến các cuộc nổi dậy của Cộng Sản thường được gọi là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh không?
Đáp: Có.
Phong trào này mạnh nhất ở hai huyện Nam Đàn và Thanh Chương. Nhiều
người bị chết oan. Cộng Sản đã giết hai tri phủ. Vì thế phản ứng của
chính quyền bảo hộ cũng rất quyết liệt. Pháp đem bom thả cũng giết nhiều
người, trong số ấy có cả Cộng Sản lẫn thường dân. Cha tôi có kể lại
rằng để đối phó với phong trào này, ông Nguyễn Hữu Bài, thượng thư bộ
Lại của Triều Đình Huế, (tương đương với chức thủ tướng thời nay), đã
cho áp dụng một kế hoạch chiêu dụ Cộng Sản khá thành công. Lúc ấy ông cố
tôi cùng ở trong nội các Nguyễn Hữu Bài.
5. Hỏi: Khi Việt Minh cướp chính quyền ông ở đâu? và có ủng hộ họ không?
5. Hỏi: Khi Việt Minh cướp chính quyền ông ở đâu? và có ủng hộ họ không?
Đáp: Lúc
ấy tôi đang học ở Hà Nội. Tôi nhớ là mấy tháng trước khi Việt Minh cướp
chính quyền, thanh niên sinh viên Hà Nội chúng tôi rất hăng hái ủng hộ
chính phủ Trần Trọng Kim, vì là chính phủ của Việt Nam độc lập đầu tiên,
dù phải nhờ có người Nhật lật đổ người Pháp. Nhưng chúng tôi rất phấn
khởi và đã ủng hộ hết mình. Tiếc rằng bỗng nhiên chính phủ này từ chức
ngày 7 tháng 8 (1945). Thật khó hiểu. Tuy từ chức nhưng chính phủ Trần
Trọng Kim vẫn xử lý theo lệnh nhà vua. Khi mà Việt Minh tới trám vào chỗ
trống chính trị này thì chúng tôi đã đi theo Việt Minh. Chúng tôi không
biết Việt Minh là Cộng Sản. Thực ra lúc ấy chả mấy người biết Việt Minh
là Cộng Sản.
6. Hỏi: Ông có gặp ông Hồ bao giờ không?
Đáp: Có.
Hồi ấy tôi ở trong phong trào thanh niên sinh viên tranh đấu. Chúng tôi
được hai ông Hoàng Minh Giám và Phan Mỹ giới thiệu để gặp ông Hồ ở Bắc
Bộ Phủ. Lúc ấy ông ấy có cái vẻ bề ngoài rất ân cần và dễ mến. Về sau
tôi mới hiểu tại sao ông ấy đã chiêu dụ được nhiều người đi theo ủng hộ
Việt Minh. Cho đến giờ này tôi vẫn nghĩ ông ta thật là thông minh và xảo
quyệt. Lại được tay Võ Nguyên Giáp cũng rất thông minh trợ tá đắc lực.
Tôi học với Võ Nguyễn Giáp 4 năm, Tôi biết ông ta rất rõ. Ngay khi còn
ngồi trên ghế nhà trường đã tỏ ra sắc sảo và quả đoán… Rất “độc tài”.
Nhưng dầu sao Võ Nguyên Giáp không thể sánh được với Ngô Đình Nhu. Còn
Phạm Văn Đồng thì không đáng là học trò Ngô Đình Nhu.
7. Hỏi: Rồi tại sao ông lại bỏ Việt Minh?
Đáp: Vì
chúng tôi kết án ông Hồ đã ký thỏa ước mồng 6 tháng 3, nhượng bộ Pháp
quá nhiều. Hơn nữa họ đã hãm hại nhiều người yêu nước bất đồng chính
kiến. Chúng tôi chạy sang phía Việt Cách của các ông Nguyễn Hải Thần và
Nghiêm Kế Tổ…
8. Hỏi: Khi nào thì các ông rời Hà Nội?
Đáp: Liền
khi cuộc chiến giữa Việt Minh và Pháp bùng nổ ngày 19-12-46. Lúc ấy ông
Hồ và đại bộ phận Việt Minh chạy lên Việt Bắc kháng chiến. Thì chúng tôi
gồm 36 nhà trí thức và thanh niên sinh viên tranh đấu chạy vào khu Tư,
gồm Thanh Nghê Tĩnh, để cùng với một số Việt Minh ôn hòa lập một phòng
tuyến mới phi Cộng Sản chống thực dân và giúp dân mở mang về kinh tế và
văn hóa. Có thể nói Liên Khu Tư lúc ấy như là một khu tự trị.
9.
Hỏi: Ông có thể cho biết tên một số trong 36 nhà trí thức mà ông bảo đã
rời Hà Nội vào Liên Khu Tư sau kháng chiến bùng nổ không?
Đáp: Tôi
còn nhớ chẳng hạn có Luật Sư Trần Chánh Thành, các ông Trần Hữu Dương,
Hồ Đắc Điềm, Phạm Thành Vinh, sau này trở thành rể của ông Hồ Đắc Điềm,
ông Nguyễn Duy Quang, người của ông Bảo Đại, ông Phan Huy Xương, anh của
bác sĩ Phan Huy Đán tức Phan Quang Đán, ông Tôn Thất Trạch v.v… Các ông
này về sau đã hợp tác với thủ tướng Ngô Đình Diệm. Ông Trần Chánh Thành
từng là bộ trưởng phủ thủ tướng, với ông Tôn Thất Trạch là đổng lý văn
phòng. Ngoài ra, về phía thường dân tôi nhớ còn có bà Hòa Tường là một
thương gia giầu có ở phố Hàng Đào cũng đi theo. Tôi xin nói thêm ông
biết điều này, là những vị này và tôi hồi đầu theo Việt Minh. Nhưng tất
cả đều không phải Cộng Sản. Và ngay từ 1930 thì đã có hai phe cùng chống
Pháp một bên là Đảng Cộng Sản, lúc ấy chưa có Việt Minh. Một bên là các
nhân vật và tổ chức quốc gia phi Cộng Sản trong đó ngoài những người
như ông Ngô Đình Diệm đã bắt đầu hoạt động từ đó, còn có các chiến sĩ
Việt Nam Quốc Dân Đảng, mà đảng trưởng là Nguyễn Thái Học và 13 đồng chí
đã bị Pháp xử bắn.
10. Hỏi: Khi nào ông rời Liên Khu Tư vào Sài Gòn và gặp ông Ngô Đình Nhu?
Đáp: Chúng
tôi rời Liên Khu Tư ra Hà Nội. Chứ chưa vào Sài Gòn. Lúc ấy là vào
khoảng đầu năm 1953. Ông Hồ Chí Minh theo lệnh Stalin và Mao Trạch Đông
khởi sự chuẩn bị mở chiến dịch giảm tô và cải cách ruộng đất. Có người
thân trong Việt Minh cho chúng tôi biết. Nên tìm đường chạy trước. Về
sau trong họ tôi có nhiều người có chút tư điền bị đem ra đấu tố. Chị
ruột tôi cũng bị giết. Tôi “dinh Tề” qua ngả Phúc Nhạc, Phát Diệm là khu
an toàn tự trị dưới quyền trông coi của Đức giám mục Lê Hữu Từ. Khó
khăn lắm mới tới được Hà Nội. Hà Nội lúc ấy đang sống an bình dưới chính
quyền Bảo Đại. Tôi đi thoát được là nhờ có người chú họ ở trong tổ chức
Việt Minh cấp cho một giấy thông hành. Ở Hà Nội tôi gặp lại các ông
Đặng Văn Sung, Phan Huy Quát từng hoạt động chung với chúng tôi thời
1945.
Trong thời
gian còn ở Liên Khu Tư chúng tôi nghe biết cán bộ Cộng Sản trong tổ
chức Việt Minh chịu ảnh hưởng rất lớn bởi cán bộ Trung Cộng. Sau khi Mao
Trạch Đông chiếm trọn lục địa vào cuối năm 1949, ông ta đã bắt Hồ Chí
Minh gửi một số lớn cán bộ Việt Cộng sang Tầu để tẩy não, cải tạo tư
tưởng, bắt học tập chủ nghĩa Mao-ít. Vì cái chủ nghĩa này mà các chiến
dịch giảm tô và cải cách ruộng đất đã đẫm máu với những vụ con tố cha,
vợ tố chồng và nông dân tàn sát lẫn nhau thật rùng rợn. Làng tôi có ông
hàn Lương biết mình sắp bị đưa ra đấu tố đã nhảy xuống giếng tự tử, vậy
mà đội cải cách đã lôi xác ông lên để đấu cái thây ma. Chúng đánh nát
bấy cái thây ấy. Tôi mong có người thâu thập những tin tức khắp nước về
cuộc Cải Cách Ruộng Đất thời gian đó để cho mọi người biết Cộng Sản dã
man chừng nào.
11. Hỏi: Khi nào thì ông gặp ông Ngô Đình Nhu?
Đáp: Cuối
năm 1953. Tôi vào Sài Gòn thì gặp lại ông Trần Chánh Thành. Ông Thành
giới thiệu tôi với ông Nhu. Ông Thành vào Sài Gòn năm 1952 cùng một lượt
với phần lớn trong số 36 nhà trí thức đã vào Liên Khu Tư để kháng chiến
chống Pháp nhưng bất hợp tác với Việt Minh. Lúc gặp lại tôi thì ông
Thành đang làm cho tờ báo Xã Hội của ông Nhu, đồng thời tập sự luật sư
với Luật Sư Trương Đình Du…
12.
Hỏi: Theo chỗ chúng tôi biết thì ông Ngô Đình Nhu từng có 5 nhiệm vụ
quan trọng: một là dân biểu Quốc Hội, hai là Cố Vấn Chính Trị của Tổng
Thống, ba là thủ lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, bốn là Tổng Bí Thư đảng Cần
Lao Nhân Vị, và sau hết vào năm cuối cùng ông còn là chủ tịch ủy ban
liên bộ về Ấp Chiến Lược. Vậy ông ấy có một lực lượng nhân sự nào đáng
kể để giúp thi hành chừng ấy nhiệm vụ không? Ví dụ ông ấy có mấy văn
phòng? Có bao nhiêu nhân viên được ăn lương?
Đáp: Ông
ấy chỉ có một mình thiếu tá Phạm Thu Đường làm chánh văn phòng, thường
được gọi là chánh văn phòng ông Cố Vấn. Và dưới quyền thiếu tá Đường chỉ
có 5 nhân viên, hầu hết tự túc. Không có ngân khoản nào dành cho ông Cố
Vấn. Và phải nói thực khó hiểu là chính chức Cố Vấn này cũng chẳng được
một văn kiện nào bổ nhiệm hay quy định nhiệm vụ. Thực tế ông Nhu chỉ
giúp việc cho riêng ông Diệm với tư cách là phụ tá cho Tổng Thống. Người
ta thấy việc ông làm thì gọi ông là Cố Vấn vậy thôi. Vì thế ông không
có quyền hạn và nhiệm vụ gì chính thức.
Còn về thủ
lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, thì ông chỉ thị cho chúng tôi, phải tự túc.
Mọi đoàn viên đều tự nguyện và tự túc theo tinh thần cách mạng. Cho nên
cũng chẳng có quyền lợi gì.
Về văn
phòng dân biểu, ông cũng không có. Thực ra ông ấy rất ít đi họp Quốc
Hội. Chỉ khi nào có vấn đề chính sách quan trọng như Ấp Chiến Lược chẳng
hạn, hay vấn đề “Giáo Dục nhân bản”, vấn đề “kinh tế tư hữu cơ bản”
v.v.. thì ông mới tới trình bày mà thôi. Cho nên mọi thứ một mình ông
cáng đáng. Tôi thật phục sức làm việc của ông Nhu.
13. Hỏi: Thế còn chức chủ tịch ủy ban liên bộ về Ấp Chiến Lược thì sao? Có văn thư nào quy định không?
Đáp: Chức
này thì có. Nhưng cũng chỉ là một thông tư của phủ Tổng Thống gửi đến
các bộ, để việc ông chủ tọa các phiên họp Ủy Ban Liên Bộ được danh chính
ngôn thuận. Ông Nhu quan niệm chương trình Ấp Chiến Lược là một cuộc
cách mạng xã hội và chính trị, chứ không phải chỉ là một chiến lược để
đối phó với sự xâm nhập và khủng bố của Cộng Sản mà thôi. Ông thúc đẩy
các tỉnh trưởng khai hóa người dân quê theo tinh thần tam túc, nghĩa là
tự túc về tư tưởng, tự túc về tổ chức và tự túc về kỹ thuật, để có thể
làm chủ cuộc đời mình, làm chủ được xã hội, không bị lệ thuộc vào bên
ngoài, vào ngoại bang.
Ông để rất
nhiều thì giờ đích thân soạn những bài thuyết trình có tính lý luận cao
dành cho các cấp lãnh đạo chính phủ và cán bộ cao cấp, chỉ cho họ cách
thức đưa những tư tưởng cao vào đầu óc thường dân qua những hình ảnh và
ngôn ngữ bình dân dễ hiểu. Mục đích của ông là tiến dần tới một xã hội
có tổ chức cao, có đầy đủ các phương tiện truyền thông, giao tế, kinh
tế, văn hóa cao trong đó mỗi con người, “mỗi nhân vị”, đều được quan tâm
đồng đều, chứ không biến con người thành những “cái đinh, con ốc” trong
một guồng máy xã hội theo kiểu Cộng Sản. Ông tin tưởng rằng phương pháp
đó về lâu về dài sẽ làm cho CS phải đầu hàng. Chứ không phải chỉ dựa
vào những hàng rào giây kẽm gai. Dĩ nhiên ban đầu thì việc rào ấp là cần
thiết để giữ cho Ấp Chiến Lược được an toàn trước sự phá hoại và tấn
công của du kích CS. Quốc sách Ấp Chiến Lược mà thành công thì Cộng Sản
sẽ thành cá bị tát ra khỏi ao, nằm trên đất.
14. Hỏi: Về đảng Cần Lao Nhân Vị, nó thành hình ra sao, và ai là những đồng chí cốt cán nhất của ông Nhu?
Đáp: Hai
người cùng với ông Nhu sáng lập ra đảng Cần Lao Nhân Vị là các ông Trần
Quốc Bửu và Huỳnh Hữu Nghĩa. Nhưng ban đầu các ông không gọi tên đảng là
Cần Lao mà gọi là đảng Công Nông. Nhưng vì không muốn gợi ý về cái liên
minh công nông của Cộng Sản, nên về sau các ông đổi ra là Cần Lao. Còn
vế Nhân Vị thì sau nữa mới thêm vào theo đề nghị của ông Nhu. Ông Bửu,
chủ tịch Liên Đoàn Lao Công có kinh nghiệm về đấu tranh nghiệp đoàn, đã
quen ông Nhu khi còn ở bên Pháp. Và ông Huỳnh Hữu Nghĩa một tín đồ Cao
Đài, là cố vấn chính trị của tướng Trình Minh Thế. Ông Nghĩa đã giúp ông
Nhu chinh phục được tướng Thế, chứ không phải như có người Mỹ cho rằng
ông Nhu có được ông Thế là nhờ đại tá Edward Lansdale. Ông Lansdale có
can thiệp để quân của tướng Thế được hợp thức hóa và trả lương như Quân
Đội Quốc Gia thì đúng. Người nào bảo Lansdale dùng tiền mua Tướng Thế là
cố tình xuyên tạc để hạ uy tín của một vị tướng kiên cường anh dũng,
thanh liêm mà anh em ông Diệm rất quý trọng. Khi nghe tin tướng Thế tử
trận Tổng Thống Diệm đã ngất xỉu. Điều này tướng Lansdale có ghi trong
hồi ký.
Văn phòng Tổng Bí Thư đảng Cần Lao cũng do một mình Thiếu Tá Phạm Thu Đường quán xuyến, kiêm nhiệm.
15. Hỏi: Ông Ngô Đình Diệm có giữ vai trò gì trong đảng Cần Lao không?
Đáp:
Không. Ông ấy hoàn toàn ở ngoài và trên đảng Cần Lao. Với ông Diệm chỉ
có Tổ Quốc và Quốc Dân. Tôi còn nhớ khoảng năm 1956, Tổng Thống gọi tôi
vào bảo tôi lên cao nguyên đèo heo hút gió để quan sát nghiên cứu tìm ra
những địa điểm thích hợp để lập các khu dinh điền, hòng đưa người kinh
lên trấn giữ địa điểm mà ông bảo là vô cùng quan trọng về mặt chiến
lược. Tôi thấy mình đi thì ông Nhu thiếu một trợ lý. Lại cũng hơi ngán
cảnh cô đơn ở nơi xa lạ. Tôi bèn thưa với Tổng Thống: Công tác đoàn thể
của ông Cố Vấn đang thiếu người. Tổng Thống nói: Đoàn thể gì. Dẹp. Tuy
nhiên rồi ông cũng đấu dịu. Cứ đi đi. Thỉnh thoảng tôi sẽ lên với anh…
Cũng cần thêm rằng ông Diệm rất quan tâm đến vùng cao nguyên. Ông thường
nói: giữ được cao nguyên thì giữ được miền Nam. Và ông tìm cách đưa
nhiều cán bộ và những người dân có kinh nghiệm với Cộng Sản lên đó lập
nghiệp.
16. Hỏi: Ông nghĩ gì về việc chính phủ Ngô Đình Diệm tổ chức trưng cầu dân ý truất phế ông Bảo Đại?
Đáp: Nhiều
người chê ông Diệm, là nhà Nho mà bất trung, không giữ lời thề trung
thành với cựu hoàng. Nhưng tôi thấy không đúng. Trước hết chính cựu
hoàng bảo ông Diệm chỉ thề trước Thánh Giá trung thành với Tổ Quốc. Thứ
nữa, khi cựu hoàng triệu ông sang Pháp, ông Diệm đã sẵn sàng lên đường,
dù biết sang đó sẽ mất chức thủ tướng.
Nhưng
chính nhóm liên khu Tư chúng tôi đã thuyết phục ông, gần như làm áp lực
với ông, để ông bỏ ý định sang Cannes . Chúng tôi xúm vào yêu cầu ông ở
lại lấy cớ tình hình không cho phép vắng mặt. Chúng tôi phải nói với thủ
tướng rằng nếu Cụ bỏ chúng tôi lại mà đi một mình thì sinh mệnh chúng
tôi ai sẽ lo? Chúng tôi đã bỏ tất cả vào đây là vì cụ, vì tin cụ sẽ bảo
vệ phần đất tự do còn lại này, bảo vệ chúng tôi. Nay cụ nỡ lòng nào bỏ
chúng tôi, bỏ đất nước này cho Thực dân, Cộng Sản? Rồi nhiều đoàn thể
họp nhau lại đặt ông Diệm trước sự việc đã rồi là tự ý hạ bệ ông Bảo
Đại. Cuộc trưng cầu dân ý của chính phủ Ngô Đình Diệm tổ chức sau đó chỉ
là để hợp pháp hóa hành động của chúng tôi.
17.
Hỏi: Có sử gia Mỹ bảo ngày 22 tháng 8 năm 1963, Thanh Niên Cộng Hòa đã
tấn công chùa Xá Lợi cùng với Cảnh Sát và Lực Lượng Đặc Biệt. Điều này
có đúng không?
Đáp: Hoàn toàn bịa đặt. Tổ chức này không phải để dùng vào những việc như vậy. Nó là tổ chức phi vũ trang mà.
18.
Hỏi: Sử gia Mark Mayor viết trong tác phẩm Triumph Forsaken rằng gần
ngày đảo chính, tỉnh trưởng Định Tường báo cáo với ông Nhu rằng đại tá
Có là phụ tá của tướng Đính rủ ông ta làm đảo chính. Ông Nhu hỏi lại
tướng Đính, thì tướng Đính xin đi chém đầu Có. Ông có biết vụ này không?
Đáp: Không cần tỉnh trưởng Định Tường báo cáo thì ông Nhu đã biết rồi. Nhưng ông muốn cứ để vậy để theo dõi.
19. Hỏi: Khi ông cùng ông Nhu đi gặp Phạm Hùng ở Bình Tuy, ông Nhu có cho ông biết hai người họ bàn chuyện gì không?
Đáp: Lúc
ấy thì không. Chỉ biết chúng tôi cùng đến Quận Tánh Linh ở đây có một
vùng do Cộng quân kiểm soát. Ban đầu cứ tưởng đi săn cọp như mọi khi.
Nhưng đến nơi ông Nhu bảo chúng tôi ở ngoài, còn ông đi về phía trước độ
vài trăm mét. Có Phạm Hùng chờ ở đó. Sau này về nhà tôi cũng không tiện
hỏi ông Nhu. Nhưng qua những gì ông tự ý nói ra vào một lúc nào đó thì,
nội dung câu chuyện trên một tiếng đồng hồ, gồm nhiều điều cho đến nay
vẫn chưa được tiết lộ. Có một điều mà phía họ rất quan ngại, nếu không
bảo là sợ, rất sợ chương trình Ấp Chiến Lược. Họ yêu cầu cho biết ai là
người chủ trương và mục đích để làm gì? Ông Nhu trả lời: đó chỉ là một
chủ trương của chính phủ nhằm bảo vệ sinh mạng và tài sản của người dân,
ngăn ngừa sự xâm nhập, phá phách của du kích các ông… Các ông bảo cán
bộ đừng tìm cách đánh phá làng xã, thì chúng tôi sẽ bỏ luật 10/59. Cán
bộ các ông có thể về sống với dân lành tại các ấp…
Về các điều kiện để hiệp thương thì nhiều lần Tổng Thống Diệm đã nói, phải có 6 giai đoạn:
Về các điều kiện để hiệp thương thì nhiều lần Tổng Thống Diệm đã nói, phải có 6 giai đoạn:
- Bắt đầu bằng việc cho dân hai miền trao đổi thư tín tự do.
- Rồi cho dân qua lại tự do
- Thứ 3 là cho dân hai bên được tự do chọn đinh cư sang bên kia nếu muốn
- Thứ 4 mới đến giai đoạn trao đổi kinh tế. Ví dụ miền Nam đổi gạo lấy than đá của miền Bắc chẳng hạn.
- Qua được các giai đoạn đó rồi mới tiến tới hiệp thương.
- Và sau cùng là tổng tuyển cử.
Có lần ông
Nhu tính với chúng tôi: Ông dự đoán rằng, nếu cho dân tự do chọn nơi
định cư, thì căn cứ theo tình trạng về tự do dân chủ tồi tệ và kinh tế
kiệt quệ của miền Bắc lúc ấy, sẽ có khoảng 3 triệu người dân sẽ dần dần
vào định cư ở miền Nam. Vì vậy “mình” phải chuẩn bị đất cho dân. Ông
cũng tính rằng hiện dân số miền Bắc có tới 23 triệu, trong khi dân số
miền Nam chỉ có 17 triệu. Nếu có được 3 triệu dân Bắc vào định cư ở miền
Nam thì dân số 2 bên sẽ cân bằng. Bầu cử tự do, với sự giám sát của
Quốc Tế thì chắc mình sẽ thắng.
20.
Hỏi: Lần ông tháp tùng ông Nhu đi dự lễ đăng quang của quốc vương Ma-rốc
năm 1962, ông có cho biết là sau đó các ông đến Paris gặp ông Pinay,
đại diện Tổng Thống Charles De Gaulle, bàn chuyện hiệp thương với ông
Hồ. Lúc ấy có mặt giáo sư Bửu Hội không?
Đáp: Dĩ
nhiên là có. Vì Giáo sư Bửu Hội là đại sứ của VNCH ở Ma-rốc, và là bạn
học với ông Nhu ở bên Pháp. Ông Bửu Hội lại từng là cố vấn cho Hồ Chí
Minh. Nên trong việc này, có thể nói vai trò của ông Bửu Hội cũng quan
trọng không kém ông Nhu. Ông Nhu và chúng tôi ở khách sạn Grillon cả
tháng. Cuộc tiếp xúc xảy ra nhiều lần mà hầu như lần nào cũng có sự hiện
diện của giáo sư Bửu Hội. Ông Nhu cho biết lúc ấy ông Hồ Chí Minh đã
nhờ ông Jean Sainteny xin Tổng Thống De Gaulle giúp. Ông Hồ biết là ông
De Gaulle đang có chủ trương trung lập Đông Dương, lại hận Mỹ đã “hất
cẳng” Pháp. Ông Hồ nhờ Sainteny xin Tổng Thống De Gaulle can thiệp để
tiếp xúc với Sài Gòn. Tổng Thống Pháp rất sốt sắng trong việc này. Sau
chuyến đi này ít tháng thì xảy ra vụ ông Nhu “đi săn cọp” ở Tánh Linh.
21. Hỏi: Gần ngày đảo chính đại sứ Cabot Lodge có điện đàm với Tổng Thống Diệm. Lúc đó ông có ở bên cạnh Tổng Thống không?
Đáp: Không.
22.
Hỏi: Trong cuốn Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cựu
đại tá Nguyễn Hữu Duệ viết rằng ông ta xin phép Tổng Thống đem xe tăng
thiết giáp lên bộ tổng Tham Mưu để bắt các tướng và dẹp đảo chính. Nhưng
Tổng Thống không cho. Ông có biết chuyện này không?
Đáp: Lúc
ấy tôi đang ở bên Tổng Thống Diệm và ông Nhu tại dinh Gia Long. Chính
tôi nghe điện thoại của ông Duệ và trình lên Tổng Thống.
Tổng Thống
la tôi: Các anh muốn gì? Ở với tôi bấy lâu mà không hiểu ý tôi sao? Dân
Nghệ An các anh chỉ thích làm loạn. Đem quân đội chống quân đội là cách
bảo vệ tổ quốc hả?
Tôi thưa: Nhưng người ta đánh mình thì mình phải đánh lại chứ Tổng Thống. Chẳng lẽ để phải chết sao?
Ông quát lên: Chết thì đã sao.
Đúng, đối
với ông chết thì đã sao. Nhưng đối với chúng ta thì cái chết của ông là
cái chết dần của miền Nam. Ông còn nói quân đội là để bảo vệ tổ quốc chứ
không phải để bảo vệ cá nhân Tổng Thống.
Ông bảo
tôi liên lạc với ông Trương Vĩnh Lễ, chủ tịch Quốc Hội yêu cầu cho triệu
tập Quốc Hội để ông ra từ chức trước Quốc Hội, hòng tránh cảnh đổ máu.
Nhưng tôi gọi ông Lễ 4 lần không được. Lúc ấy không phải chỉ có Lữ Đoàn
xin lên tấn công tổng hành dinh của nhóm đảo chính. Mà còn có cả một đại
đội biệt kích thuộc Lực Lượng Đặc Biệt đi hành quân ở Tây Ninh vừa về
đến Sài Gòn cũng báo cáo là lực lượng phòng vệ của các tướng đảo chính ở
Tổng Tham Mưu rất yếu, đại đội biệt kích xin phối hợp với 2 tiểu đoàn
của Lữ Đoàn Phòng Vệ phủ Tổng Thống để đột kích vào bắt hết các tướng
đảo chính. Tướng Nguyễn Văn Phú, lúc ấy còn là Thiếu Tá đã tiếp xúc với
tôi về việc này. Nhưng như vừa nói. Tổng Thống không chấp thuận.
Viên đại
úy đại đội trưởng Biệt Kích đề nghị cho lực lượng của Lữ Đoàn Phòng Vệ
Phủ Tổng Thống có xe bọc thép dẫn đầu tiến tới bao vây bộ Tổng Tham Mưu,
còn đại đội của anh ta sẽ đột kích bọc hậu từ phía sân vận động vào bắt
sống các tướng. Tôi rất buồn bực và lấy làm khó hiểu tại sao ông cụ lại
không cho đánh. Ông Nhu ngồi cạnh đó cũng chẳng nói gì.
23. Hỏi: Theo ông trong số các tướng lãnh lúc ấy ai có khả năng nhất?
Đáp: Tôi
hầu như không tiếp xúc với các tướng. Ngay cả Phó Tổng Thống cũng vậy.
Hầu như chẳng bao giờ gặp. Nhưng tôi có nghe ông Nhu nói ông Nguyễn Văn
Thiệu, lúc ấy mang lon đại tá, là một tư lệnh (sư đoàn 5) giỏi nhất. Ông
Nhu có nhận xét đó sau khi nghe ông Thiệu thuyết trình ở hội trường
Suối Lồ Ồ.
Còn các
tướng thì rất sợ Tổng Thống Diệm mỗi khi phải thuyết trình cho ông về
tình hình an ninh. Bởi vì ông nắm vững tình hình và nhất là địa hình địa
vật… địa lý của từng vùng. Kiến thức về quân sự của ông cũng rất uyên
bác. Tôi được biết, khi mới về nước làm thủ tướng, ông đã yêu cầu tổng
lãnh sự ở Hồng Kông mua cho ông tất cả tác phẩm của Mao Trạch Đông, Chu
Đức, Lâm Bưu, Bành Đức Hoài để đọc và bắt ông Nhu phân tích nghiên cứu
trình lên.
24. Hỏi: Nghe nói ông bà Nhu có một biệt thự đẹp lắm ở Đà Lạt. Ông có tới đó bao giờ không?
Đáp: Ông
nói đến cái biệt thự này, tôi lại nhớ tới cái ông luật sư Trương Phú Thứ
ở Seattle. Ông ấy muốn tìm cách phỏng vấn bà Ngô Đình Nhu mà không sao
được. Chẳng rõ tại sao ông ta biết nhà tôi, tìm đến xin tôi giới thiệu
với bà Nhu. Tôi biết đã từ lâu bà ấy ẩn dật không muốn báo chí nhắc tới.
Nhưng tôi biết bà ấy hãy còn quyến luyến ngôi nhà hai phòng ngủ của một
người Pháp, bỏ hoang đã lâu mà anh em chúng tôi hùn tiền mua cho ông bà
ấy vào khoảng năm 1960, mà không đủ tiền sửa chữa, cho nên đến khi ông
Nhu bị sát hại và bà Nhu sống lưu vong, cũng mới chỉ sửa được phân nửa.
Tôi bảo
ông Thứ hãy về Việt Nam, lên Đà Lạt chụp ảnh ngôi nhà ấy rồi mang theo
sang Pháp, tìm cách đưa tấm hình đó tận tay bà Nhu thì may ra bà ấy cho
gặp. Thì quả thật chắc ông đã biết, ông Thứ đã viết một bài cho tờ Văn
Nghệ Tiền Phong nói về bà Nhu ở tuổi gần bát tuần sống như một nhà tu ở
Paris. Tôi mong ông Thứ có dịp phổ biến tấm hình này để độc giả thấy cái
“ngôi biệt thự xinh đẹp” của ông bà Nhu.
25.
Hỏi: Thống tướng Maxwell Taylor, Đại sứ Frederick Nolting và nữ ký giả
Marguerite Higgins đều nói được Tổng Thống Diệm tiếp hơn kém khoảng 5
giờ đồng hồ. Ông có biết điều đó và có ý kiến gì không?
Đáp: Lúc ấy nhiều người nói tổng thống tiếp khách lâu quá. Tôi có trình ông, bảo người ta phê bình tổng thống độc thoại!
Ông cười.
Ông bảo: Người Mỹ họ ít hiểu về dân tôc mình về lịch sử của nước mình.
Mình phải lợi dụng lúc họ chịu nghe để nói cho họ hiểu chứ. Mấy người
này đều chăm chú nghe tôi và đặt nhiều câu hỏi. Tôi phải trả lời cho họ
chứ.
26.
Hỏi: Gần ngày đảo chính Tổng Thống có mời ông bà Đại Sứ Mỹ lên Đà Lạt
nghỉ tại biệt điện của Tổng Thống và dự dạ tiệc thân mật. Ông có biết họ
thảo luận về việc gì không?
Đáp: Tôi
có biết và nhớ là Tổng Thống đề nghị chính phủ Mỹ thông cảm những khó
khăn của miền Nam và đừng ép ông phải cải cách gấp rút. Ông cũng hứa sẽ
xem xét những đề nghị của chính phủ Mỹ một cách nghiêm chỉnh. Nhưng cần
phải có thời gian. Phía ông Lodge thì nằng nặc đòi Tổng Thống phải đưa
ngay ông Nhu ra ngoại quốc. Nhưng dĩ nhiên không bao giờ Tổng Thống
nhượng bộ điều này được.
27.
Hỏi: Xin ông tha lỗi, ông là Phật tử chứ ạ? Và trong vụ Phật Giáo có ai
nhờ ông làm trung gian để thương lượng giàn xếp giữa chính quyền và bên
Phật Giáo đấu tranh không?
Đáp: Phải,
tôi là Phật tử đã quy y… – Ông vào phòng lấy ra một cuộn giấy mở cho
tôi thấy tờ PHÁI QUY Y rồi nói tiếp – Tôi quy y với thầy Thích Minh
Châu. Khi vụ Phật Giáo xảy ra tôi có ra Huế gặp thầy Thích Trí Thủ để
nhờ thầy can thiệp với Thượng Tọa Thích Trí Quang… nhưng Hòa Thượng Trí
Thủ nói bây giờ các thầy trẻ học thức nhiều, họ có đường lối riêng, các
sư già chúng tôi nói họ không nghe. Nên không kết quả. Nhiều người khác
cũng can thiệp nhiều ngả khác, cũng không hơn gì. Hồi ấy còn cả một ủy
ban của chính phủ gồm nhiều Phật tử đứng đầu là phó Tổng Thống Nguyễn
Ngọc Thơ cố gắng dàn xếp. Nhưng bên Phật Giáo tranh đấu chỉ muốn lật đổ
chính phủ thôi. Nên họ cố đưa ra những yêu sách không cách nào làm được.
Tôi rất ân hận là không giúp gì được với tư cách là một Phật tử.
28. Hỏi: Theo ông thì ai cố ý giết hai ông?
Đáp: Theo
tôi thì người ra lệnh trực tiếp là tướng Dương Văn Minh. Còn ông Minh có
nhận lệnh ở trên nào không thì không biết. Sở dĩ tôi dám quả quyết ông
Minh, là vì chính ông Minh sai cận vệ của ông ta là đại úy Nguyễn Văn
Nhung cùng đi với tướng Mai Hữu Xuân, để “thi hành nhiệm vụ”(!). Và
Nhung đã leo lên xe bọc thép trong đó có hai anh em Tổng Thống. Nhung là
một tay giết người không gớm tay, y còn khắc dấu vào cán dao găm mỗi
lần giết được một người. Ngay tối mồng hai y còn khoe “con dao lịch sử”
của y với con của tướng Đôn cơ mà. Đó là theo chính lời của tướng Đôn
thuật lại trong Việt Nam Nhân Chứng. Còn tướng Xuân thì khi “đi đón ông
cụ” về và ông cụ đã chết rồi, đã tới trước Dương Văn Minh giơ tay làm
dấu, miệng nói: “Mission accomplie” (Nhiệm vụ hoàn thành). Cứ theo những
lời trên của tướng Đôn, thì không nghi ngờ gì người chủ trương và ra
lệnh giết hai ông là tướng Big Minh.
29.
Hỏi: Thời gian quấy rầy ông đã quá dài. Nhất là trong lúc ông còn bịnh
nhiều. Xin cám ơn ông đã mất công trả lời những câu hỏi của chúng tôi.
Và nếu có thể được xin ông cho một cảm tưởng chung về Tổng Thống Ngô
Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu.
Đáp: Tôi
cũng xin cám ơn ông đã tốn công đi từ xa đến để cho tôi được có dịp nói
lên vài điều trong số những gì mình còn nhớ được về thời gian dài phục
vụ Đất Nước bên cạnh hai nhân vật lịch sử mà tôi hằng kính mến. Cứ mỗi
lần nhớ đến hai cụ, tôi đều ngậm ngùi xót xa. Nhất là đối với cụ Diệm.
Ông quá ngay thẳng, quá quân tử, quá rộng lượng, lúc nào cũng nghĩ tới
làm cho dân được ấm no hơn. Vậy mà người ta nỡ hãm hại ông. Không phải
chỉ có những ngày giỗ hai ông tôi mới khóc.
——-
Cụ Vỹ dằn cơn xúc động bắt tay tôi khi tôi từ biệt ra về…
Minh Võ
VRNs đặt tựa
Nguồn:
http://www.vietthuc.org/2012/06/14/ong-cao-xuan-vi-k%E1%BB%83-vi%E1%BB%87c-ong-ngo-dinh-nhu-bi-m%E1%BA%ADt-g%E1%BA%B7p-ong-ph%E1%BA%A1m-hung-%E1%BB%9F-khu-r%E1%BB%ABng-tanh-linh-binh-tuy/
http://www.chuacuuthe.com/?p=40569
0 comments:
Post a Comment