Kiêu ngạo cộng sản là bệnh do chính miệng của Lenin nói ra.
Bệnh này gồm hai thành tố. Thành tố thứ nhất là sự ngu dốt
chậm tiến không theo kịp đà tiến hóa của nhân loại. Thứ hai là
sự ham thích bạo lực, từ thời Trung Cổ để lại, vẫn còn tồn
tại. Hai thành tố này hợp lại thành bản chất của những người
lãnh đạo cộng sản, từ khi chủ nghĩa này xuất hiện.
Mỗi khi cướp được chính quyền tại một nơi nào những người
cộng sản thường vênh mặt khoe rằng “cách mạng” của họ đã
thành công”. Và khi cách mạng của họ đã thành công rồi thì
các nhà chính trị “ăn cướp” này thường bất chấp pháp luật.
Họ quan niệm rằng họ đủ tài năng để lãnh đạo ngành tư pháp,
sẽ bắt buộc ngành tư pháp phục vụ triệt để chính trị mà
không cần đến những nguyên tắc căn bản của pháp lý.
Kết qủa là chẳng bao lâu bộ máy tư pháp trở thành hư hỏng.
Không những nó không củng cố được tình hình mới mà còn gây
nhiều khó khăn cho “cách mạng”. Hơn bất cứ dân tộc nào khác,
dân tộc Việt Nam đã có rất nhiều kinh nghiệm và đồng thời
cũng đã chịu rất nhiều hậu quả đau thương do sự sai lầm nghiêm
trọng này gây ra.
Ai đã sống qua thời Việt Minh, chắc chắn còn nhớ rằng hồi đó
họ đưa ra khẩu hiệu “Thà mười người bị chết oan còn hơn một
địch sống sót”. Hậu qủa là họ giết người văng mạng và hành
động vô lý này, qua cuộc “Cải cách ruông đất” đã làm thiệt
mạng khoảng 500.000 người. Uy tín của họ từ đấy bị sút giảm
trầm trọng.
Cũng một vấn đề này nhưng trong một chế độ pháp trị thì khác hẳn: “Thà bỏ sót mười địch còn hơn một người bị chết oan”.
Mười kẻ địch còn sót không phải là vấn đề cần lo lắng vì
khi đã nắm được chính quyền thì sẽ không có địch nào thoát
được. Không cần phải so sánh ta cũng thấy là khẩu hiệu “pháp
trị” hơn hẳn vì theo khẩu hiệu này thì không ai bị chết oan
cả.
Đây là một căn bệnh chung của các chế độ cộng sản. Lenin đã
lên án nặng nề cái bệnh ấu trĩ chậm tíến này nhưng cũng
không đâu chữa được. Hậu quả là trên thế giới hàng trăm triệu
người đã bị chết oan. Lý do là vì những người cộng sản đã
không biết đưa ra giải pháp pháp lý để điều hòa với giải pháp
chính trị trong việc trị nước an dân ngõ hầu vừa tôn trọng
đạo lý dân tộc vừa tôn trọng sinh mạng con người.
Người dân trong xã hội cộng sản nào cũng phải cắn răng chịu
đựng những lỗi lầm nghiêm trọng của giai cấp lãnh đạo. Lỗi lầm
của họ là do đâu? Tất cả có ba lý do: thứ nhất, quan điểm
bạn thù của họ rất mơ hồ; thứ hai, người cộng sản nào cũng
bất chấp pháp luật; thứ ba, người cộng sản nào cũng bất chấp
chuyên môn.
Quan điểm bạn thù mơ hồ
Hiện tượng “ta lại giết ta” là một hiện tượng thông thường
trong các chế độ cộng sản. Trong xã hội Việt Nam thì qua cuộc
Cải Cách Ruộng Đất ta đã thấy biết bao nhiêu chiến sĩ bảo vệ
chế độ, với huy chương gắn đầy ngực, đã bị kết án là phản
động và bị hành hình. Đó là không nói gì đến số quần chúng
bị hy sinh oan uổng. Làm như vậy, thử hỏi còn gì là lý tính.
Tại sao họ lại làm như vậy? Câu trả lời là: họ không phân biệt
được giữa bạn và thù và đây là một điều cực kỳ quan trọng.
Nguyên do là họ đã được nhồi nhét một tinh thần cảnh giác quá
khích đến nỗi mù quáng mà Lenin gọi là bệnh “ấu trĩ cách
mạng”. Bệnh này được thể hiện trên thực tế trong quan điểm bạn
thù rất mơ hồ. Và suốt trong quá trình phát sinh và phát
triển của hiện tượng cộng sản căn bệnh này không nơi nào chữa
khỏi. Nói khác, không một người cộng sản nào bất cứ ở đâu,
đã có được sự trưởng thành chính trị.
Bất chấp pháp luật
Trong trường hợp những cuộc đảo chính thành công như trường hợp
của Việt Minh, chính trị say sưa với thắng lợi thường lâm vào
tình trạng tự mãn và bao biện. Họ không hiểu rằng xây dựng
một chính quyền mới là một việc vô cùng khó khăn chứ không dễ
dàng như những khi xuống đường hô khẩu hiệu.
Nếu nhà chính trị tiếp tục bao biện thi chắng chóng thì chầy
sẽ xảy ra những hiện tượng oan trái làm người ta đau sót. Trên
con đường bao biện các nhà chính trị cộng sản cho rằng pháp
lý chỉ là cái gậy chọc bánh xe, nhưng họ không hiểu rằng
chính pháp lý giúp xe khỏi lật và khỏi gây tại nạn. Nguy hại
hơn nữa khi chính trị ngồi trên pháp luật thì trường hợp này
tạo ra thói quen độc đoán, thói quen lộng quyền, nghĩa là thói
quen hành động tùy tiện từ phía những người lãnh đạo. Lộng
quyền là một hành động phi pháp không thể không trừng phạt.
Bất chấp chuyên môn
Các nhà chính trị cộng sản thường bất chấp luật pháp nhưng
nếu họ hỏi ý kiến những nhà chuyên môn thì những người này
cũng yêu cầu họ dùng luật pháp để phục vụ chế độ. Cộng sản
đã chiếm lĩnh tất cả các khu vực trong nhận thức con người,
dẫn họ đến tình trạng chối bỏ chân lý. Nhưng chân lý thì cho
biết rằng chính trị không thể nào thay thế được chuyên môn vì
không thể làm được việc của chuyên môn mà luật pháp thì nằm
trong lãnh vực của chuyên môn.
Trong chế độ cộng sản, chính trị đã chèn ép chuyên môn như thế
nào, đã xua đuổi những người trí thức ra ngoài hệ thống
chính quyền ra sao, kinh nghiệm đau đớn này tất cả mọi người
đều đã biết. Lãnh đạo cộng sản đã cố tình ném vào thùng
rác tiêu cực cái vốn chuyên môn của anh em trí thức. Với những
động thái thuộc loại này chính quyền cộng sản đã dần dần xa
rời quần chúng. Tình trạng này đã khiến những người lãnh đạo
cộng sản đi vào tệ quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi, độc đoán,
độc tài. Nói khác là thiếu dân chủ.
*
Phương pháp để sửa chữa sai lầm nói trên là thiết lập một chế
độ pháp trị chân chính và một chế độ dân chủ theo đúng
nghĩa.
Một chế độ pháp trị chân chính
Đối với Việt Nam ngày nay vấn đề không phải chỉ là tăng cường
chế độ pháp trị mà phải là xây dựng chế độ pháp trị. Nhân
dân đòi hỏi những người có công phải được thưởng và những
người có tội phải đền tội. Trách nhiệm của tất cả mọi người
từ dưới lên trên và từ trên xuống dưới phải được quy định rứt
khoát. Như thế mới yên được lòng dân và thu phục được nhân tâm.
Kinh nghiệm lịch sử khổ đau đã dạy CSVN điều ấy.
Kinh nghiệm đau đớn của dĩ vãng đòi hỏi họ phải xây dựng lại
quan điểm “thù địch” trên cơ sở pháp lý và pháp trị. Các đau
khổ trong dĩ vãng cũng như trong thời điểm ngày nay bắt ngồn
từ một quan điểm chính trị về “địch”. Họ cần phải xác định
rõ ràng trong hình luật thế nào là “địch”. Có như thế họ mới
đánh đúng “địch”, mới ổn định được nhân tâm, thực hiện được
đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân, bảo đảm được cho quần
chúng một đời sống tự do, thoát khỏi mọi đe dọa của lộng
quyền, bênh vực được các quyền căn bản và thiết yếu của con
người.
Một chế độ dân chủ theo đúng nghĩa
Mặc dầu nói chuyện dân chủ với tập đoàn lãnh đạo CSVN chỉ là
nước đổ đầu vịt nhưng những dòng viết này chủ yếu là để
cống hiến những người dân đang bị đàn áp trong nước. Phải nói
lên để anh chị em hiểu rõ những nét cần nắm bắt của một nền
dân chủ theo đúng nghĩa.
Một nền dân chủ theo đúng nghĩa phải là một chế độ trong đó
người dân được làm chủ trên đất nước, kkông những trong hiến
pháp mà cả trên thực tế nữa. Dân chúng cần được đàm thoại
với lãnh đạo để thông tri cho họ biết ý kiến của mình về
chính sách do lãnh đạo xây dựng. Nếu lãnh đạo chỉ tiếp xúc
với quần chúng qua báo cáo của cán bộ đảng viên mà thôi thì
quả là thiếu sót và thiếu sót này nhất định đưa đến sai lầm,
những loại sai lầm nghiêm trọng như ta thấy trong trường hợp
của Việt Nam.
Một chế độ dân chủ theo đúng nghĩa đòi hỏi:
Thứ nhất, những báo cáo trung thực của cán bộ.
Cán bộ nào cố ý xuyên tạc sự thật vì động cơ bất chính phải
bị truy tố về tội giả mạo trước toà án và phải bị trừng
phạt theo luật pháp nếu tội giả mạo đó được toà xác nhận.
Thứ hai, các ủy viên Mặt Trận phải có trách nhiệm
phản ánh lên Mặt Trận ý kiến của quần chúng. Mặt Trận phải
đệ đạt lên lãnh đạo phản ánh của các ủy viên và thông tri về
các ủy viênthái độ của lãnh đạo trong việc giải quyết vấn
đề. Khi Mặt Trận họp hội nghị phải cho quần chúng đến bàng
thính để quần chúng kiểm soát công việc của Mặt Trận và thái
độ của các uỷ viên. Báo chí phải phản ánh trung thực nội
dung của các cuộc thảo luận.
Thứ ba, một chế độ tự do ngôn luận. Quần chúng
phải được nói lên tiếng nói của mình qua báo chí và báo chí
phải được tự do xuất bản.
*
Gần một thế kỷ qua, nhân loại đã nếm trải biết bao đau đớn khổ cực chỉ vì thảm họa “đối đầu”.
Người ta tận dụng mọi thủ đoạn để lừa dối nhau vào thế thù
địch. Kẻ thù đó có khi lại là chính cha mẹ, anh em ruột thịt
cuả mình.
Sau khi Chiến Tranh Lạnh chấm dứt nhân loại hy vọng được sống
trong hòa bình và thế giới nhận ra “nhân quyền” là tín hiệu
chung của mọi người. Nhân quyền được xem như một bằng chứng để
thế giới căn cứ vào đó mà thiết lập mọi tương quan giữa người
với người, giữa dân chúng với chính quyền, giữa quốc gia với
quốc gia. Có thể thế giới vẫn chưa hoàn hảo tuyệt đối nhưng
không thể còn ai chấp nhận có thứ nhân quyền này khác với nhân
quyền khác.
Nhân loại đều đã mặc nhiên lựa chọn : kinh tế thị trường, tự
do chính trị và dân chủ pháp trị để cùng nhau đi vào con đường
phát triển hoà bình. Con đường dân chủ pháp trị là con đường
được thế giới tiếp tay. Vì thế luật pháp phải là quyền lực
cao nhất. Chính quyền chỉ làm theo luật và bị luật chế tài.
Người CSVN hãy mau thức tỉnh./.
Tháng 5 năm 2016
0 comments:
Post a Comment