LÃO MÓC
“Mỗi năm người có mười hai tháng
Ta có trong lòng một tháng Tư”
(Thanh Nam)
Thần
Chết, tức Tử Thần xưa nay vẫn là nỗi ám ảnh, lo sợ của đại đa số con
người. Đông và Tây thuở giờ mang hai nền văn hóa khác biệt. Ai đó đã
từng nói: “Đông là Đông và Tây là Tây”.
Nhưng
theo tôi, Đông Tây vẫn có những cái thống nhất với nhau. Một trong
những cái thống nhất đó là hình tượng Thần Chết. Tử Thần vẫn được Đông
và Tây tượng trưng bằng một bộ xương khô, tay cầm lưỡi liềm. Quả là một
hình tượng làm trẻ già lớn bé khắp nơi, tự cổ chí kim đều sợ hãi. Tôi
cũng vậy, tôi cũng ớn cái lão ấy lắm. Cái lưỡi liềm ghê rợn trên tay lão
lúc nào cũng như múa lên, chực chờ mà cắt phăng đi sinh mạng người ta!
Sợ quá đi chớ! Cái lão Thần Chết đáng sợ ẩn ẩn hiện hiện khắp mọi nơi,
mọi lúc. Tuổi già ư? Lão chẳng tha ai cả. Lão từ tốn ra tay, chậm chạp
nhưng chắc chắn, từng người một.
Tai nạn ư? Lão đột ngột vung lưỡi liềm, số nạn nhân của lão vô chừng, khi nhiều, khi ít.
Bệnh
tật ư? Lão hành hạ người ta chán chê rồi mới xuống tay. Chiến tranh,
dịch bệnh, thiên tai ư? Lão đắc ý vung tay lấy mạng người ta hàng loạt…
Người
ta ít ai ưa lão, mà cũng ít ai không sợ lão. Lão tung hoành ngang dọc,
coi thường mọi sự; kể cả những tiến bộ khoa học của đời nay. Những thứ
đó thì cùng lắm chỉ ngăn cản bớt mức tàn khốc của cái lưỡi liềm trên tay
lão mà thôi. Lâu ngày chầy tháng rồi thì cuối cùng lão vẫn thắng. Có lẽ
lão lấy làm đắc ý với sức mạnh vạn năng của lão. Ai mà chẳng sợ? Lão
nghĩ thế! Mà kể lão cũng đáng sợ thật. Nhưng lẽ đời mà, có cái gì tuyệt
đối đâu. Đại đa số người ta sợ lão, nhưng không phải là tất cả. Có những
người không hề sợ lão.
Ngày 21 tháng Chạp năm Giáp Thân (1248), 50 vạn quân Mông Cổ dưới quyền thống suất của Thái tử Thoát Hoan và hai danh tướng Ô Mã Nhi, Toa Đô
ào ạt kéo sang xâm lăng Đại Việt. Hội quân trên đất Hồ Quảng phía Nam
Trung Hoa: Lục quân do Thoát Hoan điều động tiến vào Lạng Sơn. Thủy quân
từ Quảng Châu theo Toa Đô vượt biển vào Chiêm Thành; tự phía Nam tiến
lên Bố Chánh (Quảng Bình) rồi thẳng ra Nghệ An. Quân Đại Việt bị kẹp
giữa hai gọng kềm.
Ngày 27 tháng Chạp, giặc chiếm Nội Bàng, Hưng Đạo Vương lui về Bái Tân (thượng lưu sông Lục Nam).
Ngày 6 tháng Giêng, giặc đến Bình Than.
Ngày
12 tháng Giêng, giặc chiếm Kinh Bắc (Bắc Ninh), Hưng Đạo Vương chuyển
quân về Thiên Trường. Giặc cậy mạnh đuổi theo rất gấp. Ngài giao Trần Bình Trọng giữ Thiên Trường, còn mình bảo vệ vua Nhân Tông và Thượng Hoàng Thánh Tông lui về Hải Dương.
Ngày
21 tháng Giêng, Trần Bình Trọng chận đánh giặc tại Bãi Thiên Mạc (bên
sông Cái, thuộc tỉnh Hưng Yên). Quân ít, thế cô, ông bị giặc vây bắt
được. Thoát Hoan biết ông là một tướng tài, muốn trọng dụng nên hết sức
vỗ về để dụ hàng. Ông khẳng khái từ chối.
Thoát Hoan hỏi ông:
“Có muốn làm Vương đất Bắc không?”
Trần Bình Trọng quắc mắt đáp:
“Ta chỉ bị bắt thì chỉ có chết mà thôi, đừng nhiều lời vô ích”.
Thoát
Hoan biết không thể lung lạc được ông, đành ra lệnh chém..Lưỡi gươm
Mông Cổ vung lên, cái lưỡi liềm của Tử Thần hạ xuống. Bảo Nghĩa Vương
Trần Bình Trọng giây phút đó chợt trở thành cái tên thiên thu bất tử.
Thần Chết ngỡ ngàng. Lão núp sau lưỡi gươm Thoát Hoan. Lão nghĩ rằng bại
tướng kia sẽ kiêng oai lão. Đứng trước cái oai Thần Chết cùng với miếng
mồi ngon là tước Vương đất Bắc, lão nghĩ người bại tướng nước Nam kia
sẽ khó lòng cưỡng lại. Lão mỉm cười chờ đợi lời quy phục…
“Ninh vi Nam quỷ, bất vi Bắc vương…”
Câu
trả lời ngạo nghễ kia đã tạt vào mặt lão một gáo nước lạnh, làm cho lão
nhớ ra rằng trên đời này vẫn có những con người không hề sợ oai Thần
Chết! Lão cay đắng nhận ra mình mới là người chiến bại.
Tới
gần đây, nhân đọc một bài thơ, tôi mới biết thêm rằng, chẳng những con
dân Đại Việt có rất nhiều người coi thường Thần Chết; mà hơn thế nữa, có
những người còn làm cho Thần Chết sợ họ nữa kia!
Ngày 24-1-1930, tại hội nghị Võng La, Đảng trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng Nguyễn Thái Học tuyên bố: “Chúng ta nhất định phải phát động cuộc Tổng khởi nghĩa. Không thành công thì thành nhân”.
Ngày
10-2-1930, cuộc Võ trang khởi nghĩa do Việt Nam Quốc Dân Đảng lãnh đạo
nổ ra. Cách mạng quân tấn công Yên Báy, Hưng Hoá, Lâm Thao, Sơn Tây, Đáp
Cầu, Phả Lại, Phủ Đức, Vĩnh Bảo và nhiều nơi trong nội thành Hà Nội.
Một số lãnh tụ của Đảng hy sinh hoặc bị bắt.
Ngày 28-3-1930, Hội đồng Đề hình của thực dân Pháp đã mở phiên xử tại Yên Báy với kết quả:
-100 án khổ sai chung thân;
-50 án tử hình.
Đó là chưa kể đến hàng hàng lớp lớp chiến sĩ ái quốc đã bị tù đày và bắn giết ngay sau ngày khởi nghĩa.
5
giờ sáng ngày 17-6-1930, Đảng trưởng Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí
lần lượt bước lên máy chém, và cũng là đài vinh quang đưa tên tuổi họ
vào lịch sử.
Đó là các liệt sĩ:
1- Bùi Tư Đoàn, 37 tuổi, nông dân,
2- Bùi Văn Chuẩn, 35 tuổi, thuộc Binh đoàn Yên Báy.
3- Nguyễn An, 31 tuổi, thuộc Binh đoàn Yên Báy,
4- Hồ Văn Lạo, 35 tuổi, thợ hồ,
5- Đào Văn Nhít, 32 tuổi, thuộc Binh đoàn Yên Báy,
6- Ngô Văn Du, 29 tuổi, thuộc Binh đoàn Yên Báy,
7- Nguyễn Đức Thịnh, 30 tuổi, thuộc Binh đoàn yên Báy,
8- Nguyễn Văn Tiềm, 28 tuổi, thuộc Binh đoàn Yên Báy,
9- Đỗ Văn Sứ, 27 tuổi, thuộc Binh đoàn Yên Báy,
10- Bùi Văn Cửu, 30 tuổi, thuộc Binh đoàn Yên Báy,
11- Nguyễn Như Liên, 27 tuổi, thuộc Binh đoàn Yên Báy,
12- Phó Đức Chính, 32 tuổi, công chức,
13- Nguyễn Thái Học, 29 tuổi, Đảng trưởng.
Muời ba lần, lưỡi gươm máy chém nặng nề rơi xuống. Mười ba tiếng hô “Việt Nam vạn tuế” dõng dạc vang lên…
Trong
buổi sáng sớm của ngày Quốc tang đó, Thần Chết không còn dám núp mình
trong cái khí cụ giết người là cái máy chém kia nữa. Và Tử Thần kính cẩn đứng ghi tên!
Lão Thần Chết lần này không còn cái dáng vẻ đáng sợ như mọi ngày. Thần
Chết giờ đây đang kính cẩn đứng khắc từng cái tên anh hùng vào bia Tuẩn
quốc!
Tôi
có lỗi quá! Không nhớ hết bài thơ, tôi cũng không nhớ được tên tác giả.
Tôi chỉ có được một nén hương lòng. Bằng hữu xa gần, ai nhớ, xin làm ơn
nhắc dùm tôi!
Cũng
vào những ngày này, 38 năm trước; cuộc chiến đấu bảo vệ miền Nam tự do
đã kết thúc một cách bất hạnh. Quân đội miền Nam đã chiến đấu anh dũng
nhưng lực bất tòng tâm, vả lại sinh mạng miền Nam tự do chỉ là một con
cờ trên bàn cờ quốc tế, mà những người có quyền quyết định kết quả đó
không phải là những người Việt yêu tự do ở miền Nam. Và cũng trong những
ngày bi thảm đó, Thần Chết đã phải thêm một lần kính cẩn đón tiếp những
con người Việt Nam bất khuất; những con người mà đứng trước giờ lâm tử
của Tổ quốc họ đã quay ra coi thường Thần Chết. Trái với lệ thường,
những con người kia đã bình tĩnh ra lệnh cho Thần Chết đến trình diện
họ. Và lão đã kính cẩn tuân lệnh.
-Tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh phó Quân đoàn IV & Quân khu IV, nói với sĩ quan và binh sĩ thuộc quyền: “Tôi
chấp nhận chết. Một người Tướng không giữ được nước thì phải chết vì
nước, không thể bỏ dân, bỏ xứ để cầu an cho bản thân, Vĩnh biệt anh em…” Một tiếng súng nổ, 8 giờ tối ngày 30-4-1975.
-Tướng Nguyễn Khoa Nam: “… Chúng tôi là Tướng chỉ huy, nếu chúng tôi không bảo vệ được đất nước thì chúng tôi phải chết theo đất nước”. Một tiếng súng nổ, 6 giờ sáng ngày 1-5-1975.
-Tướng Trần Văn Hai, Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ Binh: “…
Chúng ta đã làm tất cả những gì có thể làm được… Chúng ta đã chiến đấu
hết sức mình, nhưng trong giờ phút này chúng ta đành phải bó tay… Xin
cám ơn và vĩnh biệt các anh em”. Một tiếng súng nổ, sáng ngày 1-5-1975.
-Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ Binh: “…
Tôi nghĩ thân làm Tướng là đã hưởng vinh dự và ân huệ của Quốc gia hơn
các anh em, nên tôi đã nghĩ đến một lối đi riêng cho tôi”. Và lối đi đó đã mở ra bằng một phát súng, trưa ngày 30-4-1975.
-Tướng Phạm Văn Phú: “… Tôi
không thể bỏ ra đi khi đất nước của tôi trong tình trạng như thế này.
Tôi sẽ ở lại đây để chết chớ không đời nào chịu đầu hàng Cộng sản”.
Tướng Phú đã trả lời tướng Smith ngày 27-4-1975 như vậy khi ông này ngỏ ý
mời tướng Phú và gia đình di tản. 32 viên Chloroquines uống vào lúc
khoảng 2 giờ trưa ngày 29-4-1975.
Cái
danh sách mà Thần Chết được lệnh phải đi đón trong những ngày đó còn
dài. Những sĩ quan cấp Tá, cấp Úy, những hạ sĩ quan, binh sĩ, cảnh sát,
công chức, cán bộ… Cái danh sách đó đang được lão Thần Chết trân trọng
giữ gìn, chờ một ngày để trao lại cho những nhà viết sử,
Từ
lâu rồi, lão đã học được một điều, là khi người ta lấy Tổ Quốc, Danh Dự
và Trách Nhiệm làm trọng, thì người ta sẽ không còn sợ lão. Rồi theo lẽ
tự nhiên, lão đâm ra sợ ngược lại những con người kia. Khi họ gọi lão
đến, lão cung kính đến trình diện và mẫn cán làm cái nhiệm vụ mà Danh Dự
và Trách Nhiệm của những người kia giao cho lão. Lão kính cẩn khắc tên
họ vào bia Tuẩn quốc. Như vậy thì xét ra cái lão Thần Chết này cũng
không đáng sợ và đáng ghét cho lắm. Lão là người đôi khi cũng biết điều.
Lão hay dọa dẫm người ta. Nhưng nếu gặp người, gặp lúc lão cũng biết
cách cư xử. Lão cũng làm được nhiều việc đáng làm. Lão rất rạch ròi phân
minh. Lão đã kính cẩn khắc những cái tên Trần Bình Trọng, Nguyễn Thái
Học… vào lịch sử. Lão đã đặt tên ai vào chỗ nào là không bao giờ sai
chạy. Đâu ra đó. Không bao giờ lão lầm lẫn để cái tên Nguyễn Hữu Hạnh,
Dương Văn Minh… lẫn lộn với những cái tên Nguyễn Khoa Nam, Lê Nguyên Vỹ…
Không bao giờ! Bao nhiêu tiền bạc, bao nhiêu sách vở, tài liệu ngụy tạo
dấu diếm đều không qua được mắt lão. Không bao giờ!
Trần
Bình Trọng, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn
Hai, Lê Nguyên Vỹ, Phạm Văn Phú, Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân… cùng những con người khác nữa; đứng trước cổng lịch sử, họ dõng dạc lên tiếng gọi lão. Lão đã kính cẩn mở cái cổng ấy ra, cổng chánh, và kính cẩn, lão rước họ vào!
*
“Đây là điều nhắc nhỡ ta rằng - Không thể bịt miệng một dân tộc
Mà người ta không thể thuyết phục - Bằng lưỡi kiếm của đao phủ”
-nói theo cách nói của nhà thơ Luis Aragon.
Những người lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam - những Thái Thú tân thời của Trung Cộng - không thể bịt miệng dân tộc Việt Nam, một dân tộc có những người không sợ chết và biết cách chết!
LÃO MÓC
tieng-dan-weekly.blogspot.com
0 comments:
Post a Comment