Lê Trọng Hiệp
Ngày 23.10.2012 Thông tấn xã Việt Nam phát đi bản tin “Vụ Tiên Lãng:
Nguyên phó chủ tịch Nguyễn Văn Khanh bị tạm giam” với nguyên văn như
sau:
“Tin từ Công an TP.Hải Phòng cho hay, ngày 22.10, văn phòng cơ
quan Cảnh sát điều tra Công an TP.Hải Phòng đã mời ông Nguyễn Văn Khanh,
nguyên phó chủ tịch huyện Tiên Lãng đến trụ sở Công an thị trấn Tiên
Lãng để tống đạt quyết định khởi tố bị can và bắt tạm giam.
Ông Nguyễn Văn Khanh bị tạm giam 4 tháng về tội “hủy hoại tài sản”.
Trước đó, ngày 5.1.2012, UBND huyện Tiên Lãng thực hiện việc
cưỡng chế tài sản tại khu vực đầm nuôi trồng thủy sản của ông Đoàn Văn
Vươn, ở xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng do đã hết thời hạn cho thuê.
Tuy nhiên, ông Đoàn Văn Vươn đã có hành vi chống người thi hành công vụ làm 6 chiến sĩ công an và quân đội bị thương.
Ngày 6.1, ngôi nhà của ông Đoàn Văn Quý (em trai ông Đoàn Văn Vươn) không nằm trong khu vực cưỡng chế nhưng đã bị phá bỏ.
Đến ngày ngày 8.2, Công an TP.Hải Phòng đã ra quyết định khởi tố
vụ án “Hủy hoại tài sản” để điều tra vụ phá nhà ông Đoàn Văn Quý.
Liên quan đến vụ việc này, ngày 7.2, thành ủy Hải Phòng quyết định đình chỉ công tác đối với ông Nguyễn Văn Khanh.
Hết thời gian bị đình chỉ, ông Khanh được bố trí làm chuyên viên
văn phòng UBND huyện Tiên Lãng cho đến thời điểm bị bắt tạm giam.
Ngay sau khi tống đạt quyết định khởi tố và bắt giam đối với ông
Khanh, cơ quan công an đã tiến hành khám xét nơi ở của ông Khanh tại thị
trấn Tiên Lãng, huyện Tiên Lãng.”
Đây là diễn biến mới trong vụ cưỡng chế Tiên Lãng và, thêm một lần
nữa, thực tế đã chứng tỏ rằng cơ chế công quyền của chế độ cộng sản tại
Việt Nam là một cơ chế “ăn thịt người.”
Ăn thịt người
Nhưng tại sao con người có thể ăn thịt đồng loại?
Trước hết phải nhìn vào loài thú. Trừ một vài ngoại lệ như chó sói,
đa số loài thú ăn thịt chỉ ăn thịt các con thủ khác loài, thí dụ hổ
không ăn thịt hổ, sư tử không ăn thịt sư tử. Người tiền sử cũng vậy: họ
ăn thịt người nhưng chỉ ăn thịt người khác bộ lạc. Như thế họ ăn vì cho
rằng con mồi “khác loài” với mình, là giống loài đang “cạnh tranh sinh
tồn” với mình, giành rừng, giành núi với mình!
Đó là ăn thịt nghĩa đen, còn “ăn thịt” theo nghĩa bóng nữa: đối xử với đồng loại của mình như thể một sinh vật khác loài!
Trong “Nhật ký người điên”, nhà văn Lỗ Tấn đã nhận xét rằng văn hoá
Khổng giáo của Trung Quốc là một thứ văn hoá “ăn thịt người”. Lỗ Tấn là
nhà văn khuynh tả và vì ông qua đời năm 1936 nên không thấy rằng những
phần tử “tả” nhất trong xã hội hiện đại Trung Quốc đã đẩy cái “văn hoá
ăn thịt người” ấy lên mức cao nhất.
Văn hoá Khổng giáo kiểu Tống Nho đùn đẩy con người đi đến chỗ “ăn
thịt” nhau nhưng ít ra vẫn “giữ lấy lề”, không cạn tàu ráo máng với nhau
trước các ràng buộc đạo lý hay giềng mối đạo lý.
Người ta có thể “ăn thịt” kẻ lạ nhưng khó mà vượt qua những ràng buộc
gia đình, thân tộc, bè bạn hay ràng buộc ân tình. Tuy nhiên Mao Trạch
Đông đã làm thay đổi hẳn điều này. Thu tóm được quyền lực trong tay và
áp dụng các phương pháp đấu tố chỉnh huấn sắt máu, họ Mao đã xây dựng
một “hệ thống ăn thịt người” chặt chẽ từ trên xuống dưới.
Trong tiểu luận “Consuming Counterrevolution: The Ritual and Culture
of Cannibalism in Wuxuan, Guangxi, China, May to July 1968” đăng trên
tạp san Comparative Studies in Society and History số 37, tháng 1 năm
1995; học giả Donald S. Sutton đã gọi đích danh trò đấu tố trong cuộc
cách mạng văn hoá là những “nghi thức ăn thịt người”.
Các trò đấu tố này được xem như là “nghi thức ăn thịt người” vì, theo
chủ trương của Mao, những thành phần được diễn tả là “hữu khuynh”,
“chậm tiến”, “phản cách mạng” hay “kẻ thù của nhân dân” đã bị đối xử như
loài thú, không còn xứng đáng làm người, không cùng chủng loại với
“nhân dân”. Họ bị đội mũ rơm trên đầu, đeo bảng ô nhục giữa chốn công
cộng.
Các biện pháp mà họ Mao áp dụng ở Trung Quốc đã được đám học trò Hồ
Chí Minh, Trường Chinh, Hoàng Xuân Việt “phát huy sáng tạo” ở Việt Nam
từ thời chỉnh huấn, đấu tố và truyền bá cho chẳng có khác gì “ăn thịt
người”.
Để “thành công” hay thậm chí đơn giản chỉ để tồn tại, để yên thân
sống giữa cái hệ thống chặt chẽ ấy thì người ta không thể không ăn thịt
người, không thể không chai lì và dửng dưng trước cái ác.
Trong một cơ chế như thế thì những cán bộ – đảng viên từ cấp cao nhất
có thể xấu, có thể sai lầm, có thể có khuyết điểm, có thể tham nhũng
nhưng họ không thể khác với đồng loại hay đồng chí của mình.
Để hiểu trường hợp Nguyễn Văn Khanh, chúng ta hãy nhìn lại những nhân vật đi trước.
Trần Xuân Bách và Nguyễn Tấn Dũng
Trần Xuân Bách (1924 – 2006), tên thật là Vũ Thiện
Tuấn, đồng hương Nam Định với Lê Đức Thọ, từng hô hào chủ trương cải
cách cả chính trị lẫn kinh tế để cứu vẫn đất nước trong đầu thập niên
90.
Tuy nhiên, giới bảo thủ trong đảng lo sợ những hậu quả mà cải cách
chính trị này có thể mang đến cho mình. Do đó họ quay sang bám vào Trung
Quốc dẫn đến tình trạng phụ thuộc toàn diện vào ngày hôm nay.
Trần Xuân Bách (TXB) từng làm bí thư tỉnh ủy các tỉnh Nam Định, Sơn
Tây, Nam Hà rồi làm Trưởng ban Tôn giáo Trung ương, Chánh Văn phòng
Trung ương Đảng. TXB đảm nhiệm chức vụ phó chính ủy Bộ chỉ huy chiến
dịch tấn công Campuchia năm 1979 và sau đó làm trưởng ban B68 do Lê Đức
Thọ trực tiếp lãnh đạo, chịu trách nhiệm cố vấn bộ máy chính quyền
Cambodia do Việt Nam dựng lên. Năm 1982 Trần Xuân Bách được thăng lên
làm Bí thư Trung ương Đảng và bốn năm sau (1986) được bầu vào Bộ Chính
trị (BCT).
Trở thành một trong mười nhân vật quyền lực nhất nước, TXB nổi lên
như nhân vật “trí thức” nhất, đọc được tiếng Anh, nói và viết thành thạo
tiếng Pháp. Vì lẽ đó TXB được giao nhiệm vụ phụ trách công tác đối
ngoại, chủ yếu là quan hệ với các nước XHCN và về sau chuyển lãnh đạo
Ban Văn hóa Tư tưởng Trung ương.
Đó là lúc khối XHCN sụp đổ tại Đông Âu và Liên Xô từ năm 1989 đến
1991, TXB được BCT giao nhiệm vụ nghiên cứu về lý luận và tổng hợp cho
đảng nguyên nhân gây ra sự sụp đổ này.
Những gì mà TXB “tổng kết” lại trái với những điều mà hệ thống quyền
lực cộng sản muốn nghe: đa nguyên, đa đảng, cải tổ kinh tế phải đi đôi
với cải tổ chính trị.
Theo TXB thì đảng không thể kiểm soát thông tin một cách tuyệt đối:
cách duy nhất để khỏi bị dồn vào chân tường như Đông Âu là đối mặt với
thực tế, là công khai hóa như Gorbachev ở Liên Xô. TXV chỉ ra cuộc cách
mạng thông tin đang bùng nổ và nhấn mạnh rằng chính quyền cần phải khai
thác thông tin để nâng cao hiệu quả lao động.
Trên thực tế thì từ năm 1986 – 1989, thời Nguyễn Văn Linh là tổng bí
thư, xã hội Việt Nam đã có sự thay đổi đáng kể theo đường lối của
Gorbachev. Thế nhưng khi bức tường Bá Linh sụp đổ vào năm 1989, các lãnh
tụ cộng sản Đông Âu bị hạ bệ nhục nhã và thậm chí còn bị hành quyết một
cách tàn khốc như Ceaucescu ở Rumani, giói lãnh đạo cộng sảm VN đâm ra
hoang mang, lo sợ. Họ trở nên bảo thủ hơn bao giờ hết và để duy trì
quyền lực của mình, họ đã quay sang bám vào Trung Quốc, bất kể lúc đó
Hiến pháp của họ (1983) đã ghi rõ Trung Quốc là “kẻ thù trực tiếp và
nguy hiểm”.
Tháng Ba năm 1990 đảng triệu tập Hội nghị Trung ương thứ 8 để “đấu
tố” TXB. TXB bị khai trừ khỏi BCT và Trung ương đảng và sau đó phải sống
trong sự theo dõi gắt gao. Chỉ ba tháng sau (6.1990) thì các nhà lãnh
đạo cao cấp bí mật đến Thành Đô cầu hòa, và tại đây đã bị Trung Quốc sử
dụng như một thứ bàn đạp để lấy điểm với Tây phương về vấn đề Cambodia,
giữa lúc họ còn đang bị cấm vận vì vụ đàn áp tại Thiên An Môn 1989.
Nhưng chính tai nạn ngoại giao đó đã giúp giới bảo thủ bám chặt quyền
lực và đẩy Việt Nam đi sâu vào sự phụ thuộc với Trung Quốc.
So sánh TXB với Nguyễn Tấn Dũng (NTD) hôm nay chúng ta thấy gì? TXB
chưa gây ra một sai lầm tai hại nào trong quản lý và chính sách. Ông ta
chỉ đề ra một chính sách phát triển để theo kịp thời đại, thế nhưng
chính sách có thể sẽ đe dọa độc quyền cai trị của đảng.
Do đó ông đã bị các ủy viên trung ương đảng khác xem như một thứ
“khác loài”. Nhưng cũng lúc đó, để bảo vệ XHCN, nghĩa là bảo vệ quyền
lực của mình, họ đã quay sang lạy lục để được gọi “kẻ thù trực tiếp và
nguy hiểm” là đồng chí!
Còn NTD thì sao?
Họ Nguyễn va vấp đủ thứ sai lầm: đẩy kinh tế vào vòng lao đao khiến
nền an ninh quốc gia trở nên tổn thương hơn bao giờ hết với các dự án
làm ăn với Trung Quốc, bao che để thân nhân và vây cánh bòn rút tài
nguyên quốc gia. Thế nhưng NTD đã không làm gì tổn hại đến cơ chế, đến
quyền lợi của giai tầng thống trị. NTD không từ bỏ thủ đoạn nào để đè
bẹp các tiếng nói dân chủ, thậm chí sử dụng thủ đoạn “bao cao su đã qua
sử dụng” để phục vụ cho mục đích này.
NTD phạm những lỗi tày đình nhưng NTD là kẻ thù của dân chủ, và Dũng
vẫn còn là “đồng lọai” của các ủy viên chăm chăm o bế quyền lợi và quyền
lực của mình, bất kể vận nước đến đâu.
Đến Nguyễn Văn Khanh
Địa danh “Tiên Lãng” từng là cái tên nóng trên báo chí Việt ngữ trong và ngoài nước.
Sự việc này khiến dư luận báo chí chú ý. Sau khi vạch ra nhiều sai
trái của chính quyền huyện Tiên Lãng, họ nhắc lại vụ án Nọc Nạn tương tự
thời Pháp thuộc và nêu ra sự công minh của chính quyền thực dân.
Vụ án được báo chí Nam kỳ thời ấy bóc trần đến tận cùng sự thật và
được toà án thuộc địa xét xử một cách “khẩu phục tâm phục”. Nhắc lại vụ
án này, họ đặt vấn đề: liệu nền báo chí và tư pháp xã hội chủ nghĩa có
đủ dũng khí và sự vô tư để xử sự công bằng và hợp tình hợp lý với người
nông dân như thời Pháp thuộc hay không? Đây được xem là một thí dụ cho
những bất cập của Luật Đất Đai và sự lộng hành của các cường hào đỏ khi
lạm dụng những điểm bất cập này để trục lợi.
Cho tới nay hầu hết báo chí tại Việt Nam đều lên án “chính quyền
huyện”, lên án âm mưu tư lợi và phá hoại kinh tế cũng như trò giấu nhẹm
sự thật qua các trò “kiểm duyệt báo chí” của chính quyền huyện Tiên
Lãng.
Nhưng thực chất cái gọi là “chính quyền huyện” ở đây chỉ là một “nhóm
lợi ích” quanh bí thư huyện ủy Bùi Thế Nghĩa và hai anh em: Lê Văn Hiên
chủ tịch huyện và Lê Văn Liêm, chủ tịch xã Vinh Quang, nơi xảy ra vụ
cưỡng chế.
Nhân vật chính là Đoàn Văn Vươn, xuất thân từ một “gia đình cách
mạng”, từng đi bộ đội, có bằng kỹ sư nông nghiệp. Sau khi xuất ngũ năm
1986, ông Vươn đã kiên trì bỏ ra hàng chục năm lấp đầy một khoảng đất
tương đương 70 héc ta tại đầm Cống Rộc thuộc xã Vinh Quang, nào là đắp
đê và để trồng rừng ngăn sóng, bảo vệ cái đầm do ông và hàng trăm gia
đình khác thuê của huyện để nuôi cá tôm. Nhờ thành tích này nên ông Vươn
đã được báo chí nhà nước ca ngợi, xem là “kỳ nhân” làm thay đổi bộ mặt
cả một vùng biển.
Tuy nhiên sóng gió lại nổi lên khi bộ ba Nghĩa – Hiền – Liêm thèm thùng vùng đất này.
Theo Nghị định 28.08.1999 thì gia đình ông Vươn có quyền sử dụng phần
đất này cho đến ngày 9.4.2017, tính từ ngày huyện giao đất. Trong
trường hợp huyện “ăn gian”, chỉ “tính” từ ngày “Luật Đất đai có hiệu
lực”, tối thiểu cũng phải đến ngày 15.10.2013 mới hết hạn.
Thế nhưng tỉnh đang thành lập dự án xây phi trường tại đây, do đó đất sẽ lên giá ào ào, họ muốn đón đầu thời cờ.
Huyện đã ra lệnh thu hồi và không đền bù cho ông Vươn và nhiều chủ
đầm khác. Tức thì phó chủ tịch Nguyễn Văn Khanh phản đối việc này, viện
lẽ làm vậy là phá hoại kinh tế và bất công với người dân: họ đang yên ổn
làm ăn, cớ sao lại đuổi ra đường và bẻ đi cái cần câu cơm.
Tuy nhiên thế của “nhóm lợi ích” Nghĩa – Hiên đang mạnh, ông Khanh không làm gì được.
Trước “chính sách” của huyện, ông Vươn và các chủ đầm khác kiện chính
quyền huyện ra tòa. Thoạt đầu toà huyện xử huyện thắng và họ kiện lên
tỉnh. Thấy huyện trái rành rành, toà này ra lệnh phải hoà giải. Hiểu
rằng không thể thắng nên “huyện” bắt đầu dở trò lưu manh.
“Huyện” cam kết rằng nếu ông Vươn không kiện, chịu rút đơn, huyện sẽ
tiếp tục cho thuê hoặc giao đất. Tin “huyện” ông Vươn rút đơn, nhưng khi
đơn rút rồi thì “huyện” lật lọng, triệu tập ông Vươn ra trụ sở xã để
“tống đạt quyết định cưỡng chế thu hồi”. Tuy nhiên ông Vươn không chịu
ký và mang giấy tờ lên cấp trên khiếu kiện lần nữa.
Khoảng 7.30 sáng 5.1.2012, khi ông Vươn đã mang giấy tờ đến trụ sở
Viện kiểm sát thành phố kêu cứu từ sáng sớm thì chính quyền Tiên Lãng
đưa “lực lượng cưỡng chế” đến để tịch thu đầm thủy sản của ông Vươn.
Để “chơi” lại kẻ đã dám phản đối mình, chủ chơi đòn độc: giao cho ông Nguyễn Văn Khanh làm trưởng ban cưỡng chế.
Nhưng sự việc địa phương này lại biến thành một sự kiện quốc gia và
thu hút sự chú ý của quốc tế. “Lực lượng” tiến vào thì mới biết đây là
một trận địa, do em trai của ông Vươn là Đoàn Văn Qúy bày bố. Trên lối
đi duy nhất vào nhà là rơm rạ đã gắn bom xăng, kíp nổ của quả mìn làm
bằng bình gas lớn đã bị kích hoạt tuy nhiên bình gas không phát nổ nên
chỉ hất văng 2 công an viên. Sau đó thì súng hoa cải từ trong nhà bắn ra
khiến Trưởng Công an huyện cùng 5 công an – bộ đội bị thương.
Huyện xin tăng viện. Hàng trăm công an – bộ đội chia thành 3 mũi, sử
dụng cả lựu đạn cay dọn đường, nhưng khi tiến vào bên trong thì chỉ thấy
căn nhà trống.
Lực lượng đập nát căn nhà thế nhưng đây là căn nhà ông Đoàn Văn Qúy,
không nằm trong phần diện tích 19.3 ha mà huyện muốn “cưỡng chế”.
Lúc đó báo chí nhấn mạnh đến yếu tố pháp lý: lực lượng cưỡng chế chỉ
thu hồi đầm tôm, hoàn toàn không có quyền phá nhà, ai chịu trách nhiệm?
Sau đó vài ngày, trong thư khiếu nại vụ phá nhà, vợ con ông Đoàn Văn
Vươn cho biết họ đã được ông Khanh bảo vệ nhưng bất thành và không hề
oán trách ông Khanh trong vụ cưỡng chế. Cùng lúc đó, Liên chi hội thủy
sản Hải Phòng cũng có văn bản gởi các cơ quan hữu trách bảo vệ ông
Nguyễn Văn Khanh.
Thế nhưng chỉ khoảng 9 tháng sau, Công an Hải Phòng ký lệnh bắt ông Nguyễn Văn Khanh với tội phá nhà!
“Đại đội ủy viên”
Ở tầm mức quốc gia, quyền lợi của đảng “tập trung” ở con số 175 ủy viên trung ương, tức khoảng hơn một “đại đội”.
Do ngu dốt, do lỡ tay hay cố tình mà làm điều xấu, thậm chí gây đại
họa quốc gia nhưng họ không đi ngược lại quyền lợi của cả “đại đội”, kẻ
đó có thể được tha thứ, bất chấp mọi tiêu chí công lý.
Đó là trường hợp của Nguyễn Tấn Dũng, tức “Đồng chí X”.
Ngược lại, nếu một ủy viên nào đó dám đặt quyền lợi của trên 80 triệu
người dân lên trên quyền lợi của “đại đội ủy viên”, họ sẽ bị cả “đại
đội” xem là kẻ khác loài.
Ở tầm mức địa phương, bản chất của vấn đề vẫn như vậy.
Ông Nguyễn Văn Khanh đã vì quyền lợi của các gia đình nuôi tôm mà đi
ngược lại quyền lợi của bộ sậu Nghĩa – Hiên, ông ta bị xem là kẻ khác
loài và do đó bị bộ sậu này “ăn thịt” theo cách của họ.
Nhưng quyền lợi của bộ sậu Nghĩa – Hiên – Liêm lại gắn chặt với quyền
lợi của Bí thư thành ủy Hải Phòng Nguyễn Văn Thành, do đó mới có lệnh
bắt từ Công an Hải Phòng.
Mà quyền lợi của bí thư thành ủy này lại gắn chặt với đến quyền lợi
của “Đồng chí X”: trong Hội nghị trung ương vừa qua, trong những lá
phiếu cứu “Đồng chí X” thoát nạn chắc chắn có lá phiếu của viên bí thư
này.
Thế có nghĩa chúng vẫn tồn tại, vẫn hành xử ngang trái vì chúng là
đồng loại của nhau, bâu quanh cái đại đội ngồi trên đầu trên cổ nhân
dân.
Còn những ai dám đứng về phía nhân dân, về phía lương tri sẽ bị chúng đè ra ăn thịt.
Đừng kể là “nhân dân”, một “nhân dân” bé bỏng như nữ sinh viên Phương
Uyên: chỉ một bài thơ căm thù Trung Quốc xâm lược thôi, sinh viên này
đã bị bộ máy công quyền này bí mật bắt cóc, di lý từ Sài Gòn đến tận
Long An, khi bị phanh phui thì vu cáo cho tội rải truyền đơn!
Lê Trọng Hiệp
0 comments:
Post a Comment