Cao-Đắc Tuấn (Danlambao) - Tóm Lược: Bạo động (BĐ) hay bất bạo động (BBĐ) thường là đề tài quan trọng trong một cuộc đấu tranh. Đa số những khảo cứu, tài liệu, ý kiến đều cổ võ phương pháp BBĐ. Thống kê về lịch sử và các cuộc đấu tranh trong thế kỷ thứ 20 và 21 đều cho thấy xác suất thành công của phương thức BBĐ rất cao so với BĐ. Tương tự, các lý thuyết Cơ-đốc giáo và Phật giáo đều chủ trương BBĐ. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa BBĐ có giá trị tuyệt đối trong mọi trường hợp, trong mọi không gian và thời gian. Có những trường hợp đặc biệt và ngoại lệ cho phép dùng bạo lực. Ngay cả Mahatma Gandhi, vị lãnh tụ phong trào BBĐ tại Ấn độ thế kỷ thứ 20 và Nelson Mandela tại Nam Phi đều chấp nhận BĐ cần thiết cho vài trường hợp. Đặc biệt, Cơ-đốc giáo khuyến khích dùng bạo lực để trừng phạt kẻ ác và bảo vệ người hiền lành. Phật giáo cũng chấp nhận bạo lực khi đối phó với kẻ tàn ác, miễn là được thực hiện trong lòng từ bi và cảm thông. Do đó, trong cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ, người dân Việt Nam nên cân nhắc tình huống một cách kỹ lưỡng và nên lựa chọn phương pháp hữu hiệu nhất phù hợp với tình huống, khả năng và niềm tin của mình, và không nên khăng khăng theo một quy luật tuyệt đối nào.
*
Trong các cuộc tranh đấu hoặc cách mạng, chùng ta thường nghe hai từ ngữ: bạo động (BĐ) và bất bạo động (BBĐ). Chúng ta hãy tìm câu trả lời cho câu hỏi: "Cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ tại Việt Nam nên theo phương pháp bạo động hay bất bạo động?"
Trong bài trước - "Những ý nghĩa chính đáng trong tôn giáo và triết học về chính quyền và cuộc đấu tranh", tôi trình bày những lý do chính đáng trong tôn giáo và lý thuyết về chính quyền cổ võ cho việc lật đổ chính quyền khi chính quyền đi ngược lại nguyện vọng người dân và đàn áp người dân một cách tàn bạo. Bài này sẽ trình bày những khía cạnh tổng quát về BĐ và BBĐ nhưng sẽ không đi sâu vào những đề tài đã được biết đến nhiều như sự thành công của BBĐ và việc tôn giáo chủ trương hòa bình và BBĐ. Bài này sẽ chú trọng đến những khía cạnh ít được biết đến về phương thức BĐ trong những trường hợp cần thiết. Mục đích là truyền bá thông tin để giúp những độc giả không có phương tiện tiếp cận tài liệu sách vở do nhiều học giả trên thế giới, phát huy ý tưởng cân bằng về những lý thuyết về BĐ và BBĐ.
Đã có nhiều tài liệu, sách vở, và nghiên cứu về sự hữu hiệu của các phương pháp trong các cuộc đấu tranh hoặc cách mạng. Một cách tổng quát, đa số các nghiên cứu cổ võ BBĐ là phương pháp hữu hiệu hơn BĐ. Tuy nhiên, như trong mọi nghiên cứu, chúng ta không nên vội vã tổng quát hóa cho mọi trường hợp, và cần phải phân tách các nét đặc thù của mỗi trường hợp và áp dụng thích ứng.
A. Lý thuyết về BĐ và BBĐ qua các cuộc cách mạng hoặc nổi dậy:
Trong bài trước (Cao-Đắc 2018), tôi trình bày những lý thuyết về chính quyền của nhiều vị triết gia Đông Tây từ ngàn xưa cho tới thời cận đại. Hầu hết trong các lý thuyết này (ngoại trừ tôn giáo), việc lựa chọn phương thức BĐ hay BBĐ không là việc chính vì phương thức BĐ dường như là việc đương nhiên. Vào thời xưa và ngay cả cho tới thế kỷ 18, chính quyền thường không có độc quyền trong việc phát triển kỹ thuật chiến tranh, thiết bị, và võ khí. Người dân có thể trang bị võ khí, gươm giáo hoặc súng đạn, như quân đội cùa chính quyền. Quan trọng hơn, khái niệm về tự do ngôn luận và tinh thần dân chủ chưa được thịnh hành. Do dó, khi người dân bất mãn với chế độ, họ thường nổi dậy và dùng biện pháp BĐ chống lại chính quyền. Tuy có vài phong trào BBĐ, những phong trào này ít được biết đến. Từ thế kỷ thứ 19, lý thuyết về cơ cấu chính quyền dân chủ và các quyền người dân (thí dụ tự do ngôn luận, biểu tình) được phát huy rộng rãi. Do đó, qua giai đoạn chuyển tiếp ở thế kỳ 19, chúng ta bắt đầu thấy nổi lên phong trào đấu tranh BBĐ bắt đầu từ thế kỷ thứ 20 và bùng lên mạnh mẽ trong thế kỷ thứ 21.
Chenoweth và Stephan (2013, 6-7) nghiên cứu 323 chiến dịch hoặc phong trào BĐ và BBĐ từ năm 1900 tới năm 2006 trên khắp thế giới với hơn 100 vụ BBĐ. Dưới mục tiêu thay đổi chế độ, có 111 phong trào BĐ và 81 phong trào BBĐ. Xác suất thành công cùa các phong trào này là 27% (BĐ) và 59% (BBĐ) (tlđd., 73). Tuy có một vài sai lầm trong việc phân loại, cuộc nghiên cứu có nhiều lý luận hợp lý. Thí dụ, họ lý luận rằng các chiến dịch BBĐ thành công hơn trong việc huy động người tham gia nhiều hơn và đa dạng hơn các chiến dịch BĐ (tlđd., 61). Tuy nhiên, nghiên cứu của Chenoweth và Stephan không xác định chắc chắn rằng phong trào BBĐ luôn luôn thành công hoặc phong trào BĐ luôn luôn thất bại. Cho dù các phân loại BBĐ và BĐ của họ chính xác, kết luận của họ chỉ đưa ra những con số định lượng tổng quát và không trình bày đầy đủ các khía cạnh định chất và đặc thù. Thống kê giúp hướng dẫn cách làm việc hoặc suy nghĩ, nhưng không có giá trị tuyệt đối. Xác suất thành công về một việc nào đó giúp chúng ta chuẩn bị nhưng không nhất thiết là quyết định tối hậu cho một lựa chọn. Nếu không, sẽ không có lý thuyết khuyến khích chấp nhận rủi ro cho một mục tiêu nào đó.
Trong suốt thế kỷ thứ 20 và 21, có nhiều cuộc đấu tranh BBĐ xẩy ra trên thế giới với các mức độ thành công khác nhau (Ackerman và Duvall 2001, 3-4; Wikipedia 2018). Từ cuộc bất tuân dân sự của Mahatma Gandhi chống lại người Anh (1930-1931), cuộc tẩy chay và tuần hành lật đổ chính sách kỳ thị màu da do Martin Luther King, Jr. tổ chức tại miền Nam Hoa Kỳ từ 1954 – 1968, cho tới việc thành lập công đoàn Solidarity do Lech Wałęsa tại Ba Lan năm 1980 chống lại chính quyền cộng sản, phong trào BBĐ chống lại chính sách phân biệt chủng tộc do các lãnh tụ tôn giáo tại Nam Phi hợp tác giúp Nelson Mandela được ra khỏi tù năm 1990 và được bầu Tổng thống Nam Phi năm 1994, những cuộc đấu tranh này đạt thành công và cho thấy sức mạnh của người dân. Gần đây, phong trào Otpor! tại Serbia đưa đến việc lật đổ chính phủ Slobodan Milošević năm 2000, các cuộc cách mạng màu (thí dụ, tại Ukraine năm 2004-2005, Tunisia năm 2011, Ai Cập năm 2011) lật đổ chính quyền và các cuộc biểu tình (thí dụ tại Nam Hàn năm 2016-2017 dẫn đến việc Tổng thống Park Geun-hye bị buộc tội tham nhũng) càng xác định sức mạnh to tát của người dân. Tuy nhiên, có nhiều cuộc đấu tranh BBĐ thất bại. Thí dụ như cuộc cách mạng cà sa ở Miến điện năm 2007 và cuộc cách mạng dù tại Hồng Kông năm 2014.
Ngược lại, nhiều cuộc đấu tranh BĐ dẫn đến thất bại. Đa số những cuộc đấu tranh này là do nhóm vũ trang chống lại chính quyền và thường tạo ra cuộc nội chiến. Thí dụ, nhóm Tamil Tigers tại Sri Lanka (1983-2009) và nhóm ly khai ETA tại Vùng Basque ở Tây Ban Nha (1959-2018). Họ không tài nào sánh nổi vũ lực của chính phủ mà họ chống đối (Ackerman và Duvall 2001, 466). Ngay cả khi BĐ có vẻ chắc chắn tạo nên sự thay đổi, hành động BBĐ có thể có hiệu quả bằng hoặc hơn (tlđd.) Ngoài ra, cho dù BĐ thành công trong việc thay đổi quyền lực, văn hóa BĐ có thể hủy hoại cơ hội đạt được một trật tự chính trị bền vững (tlđd., 468).
Nhược điểm của đấu tranh BĐ là kẻ cầm quyền có ưu thế trong việc dùng bạo lực, và người dân trước sau gì cũng thua (Engler và Engler 2017, 237). Tuy nhiên, việc đó chỉ đúng nếu người dân tự trang bị võ khí và đối đầu chính quyền trực tiếp. Ngoài ra, khi cuộc đấu tranh lan tràn và biến thành một cuộc nội chiến thì chưa chắc phần thắng sẽ về ai.
Có nhiều trường hợp khi nhóm đấu tranh không khởi động bạo lực, nhưng chính quyền tìm cách kích động họ để có cớ đàn áp bằng bạo lực. Thí dụ, chính quyền phái nhân viên xâm nhập trà trộn vào hàng ngũ nhóm đấu tranh để khiêu khích cho việc bạo động (Engler và Engler 2017, 241). Tuy nhiên, việc gì cũng có hai chiều. Nếu phe chính quyền sai người len lỏi vào hàng ngũ người dân, kích động bạo lực để kiếm cớ dùng bạo lực đàn áp, thì người dân có thể phản ứng mạnh bạo trước việc dùng bạo lực đó. Một khía cạnh quan trọng về việc dùng bạo lực cho cả hai phe là tính chất không tiên đoán được của việc dùng bạo lực (Dalai Lama 1998, 105). Cả hai phe đều phải thận trọng trong việc dùng bạo lực đối với phe kia. Nhiều khi chính quyền tưởng người dân sợ bạo lực và sẽ nằm yên như những con cừu non, nhưng khi người dân phản ứng bằng bạo lực với cường độ và số lượng vượt quá mức dự trù, cảnh sát, công an, quân đội sẽ bị bất ngờ, và dễ bị hoảng kinh bỏ chạy. Một khi việc đó xảy ra, sẽ không còn gì có thể cản trở sức mạnh người dân. Sự thành công của các phong trào đấu tranh gần đây cho thấy việc đó.
Nghiên cứu về các phong trào hoặc lý thuyết về BĐ và BBĐ để tìm ra giải pháp cho một cuộc đấu tranh dường như là một việc cực kỳ khó khăn vì tính chất đa dạng và đặc thù của mỗi phong trào. Tuy nhiên, chúng ta có thể học hỏi và rút tỉa những kinh nghiệm hoặc bài học quý giá từ các lý thuyết hoặc các nhân vật nổi tiếng. Sau đây là phần thảo luận về ba nhân vật và đường lối của họ có ảnh hưởng lớn trong phong trào đấu tranh: Gene Sharp đề xướng BBĐ hầu như tuyệt đối, Mahatma Gandhi chủ trương BBĐ tích cực nhưng với BĐ cho trường hợp ngoại lệ, và Nelson Mandela cổ võ BĐ là biện pháp hữu hiệu khi mọi biện pháp BBĐ không đem lại kết quả.
1. Gene Sharp đề xướng phương thức BBĐ hầu như tuyệt đối:
Gene Sharp, học giả Hoa Kỳ nổi tiếng về đấu tranh BBĐ, là tác giả nhiều sách về đấu tranh BBĐ. Sharp (2005) tin rằng kỹ thuật BBĐ là sự lựa chọn tối thượng trong các cuộc đấu tranh. Đấu tranh BBĐ đôi khi pha lẫn chút BĐ, nhưng hấu hết rất ít hoặc không có BĐ (tlđd.,14-15).
Sharp lập ra 198 phương pháp cách làm việc BBĐ (Sharp 1973a; Sharp 2005, 51-65; Engler và Engler 2017, 14). Theo Sharp (1973b; 2005, 41-43), có ba loại hoạt động chính: Loại thứ nhất là biểu tình và thuyết minh bất bạo động (thí dụ như viết tuyên bố, kiến nghị, rải truyền đơn, biểu tình, đeo các biểu tượng, ca hát, đồng hành, im lặng, và quay lưng). Loại thứ hai là bất hợp tác dưới ba hình thức: xã hội (thí dụ như tẩy chay, sinh viên học sinh bãi khóa, ở nhà không đi làm), kinh tế (thí dụ như lao động đình công, rút tiền ra nhà băng, đóng cửa kinh tế), và chính trị (thí dụ như tẩy chay bầu cử, bất tuân dân sự, cố tình chậm trễ). Loại thứ ba là can thiệp bất bạo động làm đình trệ hoặc rối loạn các hoạt động bình thường của chính sách (thí dụ như tuyệt thực, ngồi án ngữ, chiếm đóng bất bạo động, giữ tài sản, làm quá tải các hệ thống hành chánh). Mức độ thành công hoặc tác dụng của các phương pháp này thay đổi nhiều tùy trường hợp. Điểm quan trọng không phải là những phương pháp này sẽ dẫn đến việc sụp đổ tức khắc của chế độ hoặc phe cầm quyền, mà chúng sẽ cấu tạo nền tảng vững chắc cho cuộc tranh đấu và làm tiêu hủy dần dần cơ cấu và tinh thần của phe đàn áp (Sharp 1973b, 118).
Srđa Popović, lãnh tụ phong trào sinh viên Otpor!, dựa vào lý thuyết của Sharp và đề xướng nhiều kỹ thuật và đường lối hoạt động BBĐ. Một cách quan trọng là không nhắm thẳng vào nhóm cầm quyền, mà nhắm vào những cột trụ nâng đỡ (pillars of support) của chính quyền (Popović và Miller 2015, 93). Theo lý thuyết này, bất cứ chế độ nào cũng được giữ vững bằng vài cột trụ. Do đó, chỉ cần tạo áp lực lên một hay nhiều cột trụ này là cả hệ thống sẽ sụp đổ (tlđd.). Thí dụ, khi một công ty ngoại quốc to lớn phải đóng cửa, việc đó có thể tạo ảnh hưởng dây chuyền, và phá hủy cột trụ kinh tế địa phương hay toàn quốc (tlđd., 91-95).
2. Mahatma Gandhi, tuy là người chủ trương BBĐ, chấp nhận dùng BĐ nếu không còn cách nào hơn:
Mahatma Gandhi (1869-1948) vị lãnh tụ phong trào độc lập Ấn độ chống lại giới cai trị Anh vào đầu thế kỷ 20, cổ võ chống đối bằng BBĐ. Ông từng tuyên bố, "Bất bạo động là lực duy nhất trên đời" (Merton 2007, 37). Đối với Gandhi, "bất bạo động là luật tối thượng" và "không có chuyện bị thua trong bất bạo động" (tlđd.). Theo ông, cách mạng BBĐ không phải là chương trình nắm quyền mà là chương trình biến đổi những mối liên hệ, chấm dứt bằng một sự chuyển nhượng quyền lực ôn hòa (tlđd., 40). "Nguyên tắc đầu tiên của hành động bất bạo động là không hợp tác với bất cứ cái gì có tính cách hạ nhục" (tlđd, 42). Ngoài ra, Gandhi dường như chịu ảnh hưởng của tôn giáo trong triết lý đấu tranh của ông. "Gandhi cũng coi BBĐ là sự vâng lời Đức Chúa Trời vô điều kiện" (Trocmé, 159).
Tuy nhiên, không phải lúc nào Gandhi cũng cổ võ BBĐ. Theo Gandhi, "nếu không còn cách nào hơn, những người không thể thực hành tận tụy bất bạo động nên bảo vệ quyền lợi của họ và công lý bằng bạo lực" (Merton 2007, 49). Thực ra, Gandhi khuyến khích dùng bạo lực chống lại kẻ đàn áp khi cần. Ông tuyên bố (tlđd, 50), "Người nào mà không thể bảo vệ chính mình hoặc người thân thương mình hoặc danh dự của họ bằng cách đối diện cái chết một cách bất bạo động thì có thể và phải làm việc đó bằng cách đối phó với kẻ đàn áp bằng bạo động."
3. Nelson Mandela, ngay sau khi ra tù, vẫn cổ võ BĐ khi chính quyền đàn áp dân:
Nelson Mandela (1918 - 2013), Tổng thống Nam Phi và là người lãnh giải Nobel hoà bình năm 1993 cùng với Frederik Willem de Klerk, từng chủ trương BĐ chống lại chính quyền. Cùng với hai người khác, ông thành lập tổ chức Umkhonto we Sizwe (The Spear of the Nation, Ngọn giáo quốc gia), viết tắt là MK vào năm 1961 trong lúc ông là thành viên Hội đoàn quốc gia Phi châu (African National Congress, ANC) chống lại chính sách kỳ thị màu da (apartheid).
Ông hô hào tiến hành những hành động bạo lực chống lại chính quyền. Trong 4 cách bạo lực: phá hoại (sabotage), chiến tranh du kích (guerrilla warfare), khủng bố (terrorism), và cách mạng công khai (open revolution), Mandela và tổ chức MK chọn phá hoại vì cách đó gây hại ít nhất cho người ta (Mandela 1995, 336). Theo ông, "Chúng tôi đột kích vào các cơ sở quân đội, nhà máy điện, các đường liên lạc điện thoại và giao thông; những mục tiêu không những làm đình trệ hoạt động chính quyền, mà còn khiến những kẻ ủng hộ Đảng Quốc gia khiếp đảm, đầu tư ngoại quốc sợ hãi, và làm suy yếu nền kinh tế" (tlđd.). Ông và các người đồng chí hướng chỉ muốn mang chính quyền tới bàn thương lượng. Ông ra chỉ thị nghiêm ngặt là không được gây ra việc làm chết người. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh rằng "nếu phá hoại không dẫn đến kết quả mong muốn, chúng tôi chuẩn bị bước qua giai đoạn kế tiếp: chiến tranh du kích và khủng bố" (tlđd.).
Vì những hoạt động phá hoại, Mandela và một số người khác bị bắt và xử tòa vào năm 1964. Mandela sau đó lãnh án tù chung thân, bắt đầu từ năm 1964. Ông được thả ra năm 1990 và được bầu làm Tổng thống năm 1994.
Ngay sau khi ra tù, Mandela vẫn không thay đổi ý kiến về việc dùng bạo lực chống chính quyền. Ông tuyên bố, "Khi một chính quyền quyết định cấm các tổ chức chính trị của những người bị đàn áp, tăng cường đàn áp, và không cho phép bất kỳ họat động chính trị tự do nào, cho dù ôn hòa và bất bạo động cách mấy, thi người dân không còn cách nào hơn là viện đến bạo lực" (Mandela 1990).
Đoạn phim trên YouTube về diễn văn của Nelson Mandela về bạo động:
B. Lý thuyết về BĐ và BBĐ trong tôn giáo:
Tôn giáo liên hệ đến chính trị khá nhiều, kể cả việc tạo niềm tin cho cuộc đấu tranh chống bạo quyền hoặc bất công, tạo áp lực trên chính quyền, và các hoạt động khủng bố trên các quốc gia. Nhiều phe dùng khủng bố là phương tiện để đạt mục đích nào đó. Những kẻ khủng bố dùng tôn giáo, thường với các yếu tố xã hội, chính trị và các yếu tố khác, để bào chữa hành động của họ (Juergensmeyer 2017, 4-5).
Một cách tổng quát, hầu như không tôn giáo nào khuyến khích phương pháp BĐ trong cuộc đấu tranh. Tuy nhiên, có những trường hợp ngoại lệ khi BĐ là biện pháp hữu hiệu như sẽ được trình bày sau.
Tôn giáo cũng tham gia trực tiếp vào các cuộc đấu tranh hoặc các phong trào đòi hỏi tự do dân chủ. Cuộc cách mạng cà sa (Saffron Revolution) tại Miến điện kéo dài hơn hai tháng từ 15 tháng 8 năm 2007 cho tới cuối tháng 10, là một thí dụ điển hình (Xem, Burma Campaign UK). Vào cao điểm trong 2 tháng, có đến 100 ngàn tăng sĩ và dân trong mọi thành phần biểu tình tại thủ đô và các cuộc biểu tình chống đối lan tràn khắp nơi. Cuộc cách mạng cà sa tuy không đạt được mục tiêu cho tự do dân chủ ngay sau đó, nhưng là một bước tiến quan trọng cho Miến điện tiến tới nền dân chủ vào năm 2015 qua sự thành công của bà Aung San Suu Kyi trong cuộc tổng tuyển cử (RFA 2017).
Như trong bài trước, bài này sẽ chú trọng đến hai tôn giáo chính yếu tại Việt Nam: Cơ-đốc giáo và Phật giáo.
1. BĐ và BBĐ trong Cơ-đốc giáo:
Như mọi tôn giáo, Cơ-đốc giáo chính yếu chủ trương BBĐ và đem tình thương yêu đến mọi người. Chúa Giêsu kêu gọi chống đối bất bạo động chủ động (active nonviolent resistance) (Borg 2008, 229). Chỉ trích công khai giới quyền lực là một hình thức chống đối bất bạo động (tlđd., 247). BBĐ không có nghĩa là thụ động, vì như thế là khuyến khích tà ác. BBĐ phải chủ động, thách thức tà ác, và không thối lui (Trocmé 2003, 153). "BBĐ của Cơ-đốc giáo mọc rễ từ lòng yêu thương" (tlđd, 160).
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là Cơ-đốc giáo bỏ qua các biện pháp BĐ. Thực ra, một vấn đề gây nhiều tranh cãi và khiến nhiều người theo Cơ-đốc giáo nhức đầu và hoang mang là sự mâu thuẫn giữa các diễn giải về bạo lực và tình yêu nhân loại trong Kinh Thánh, nhất là những hình ảnh và lời lẽ tàn bạo trong Cựu Ước và những khuyên dạy yêu thương trong Tân Ước. Đã có biết bao nhiêu sách vở, nghiên cứu, phân tích, diễn giải, và tranh luận về vấn đề này nhưng vấn đề vẫn chưa ngã ngũ. "Một mặt, Chúa Giêsu dạy chúng ta thương yêu kẻ thù và cầu nguyện những kẻ đối xử tàn bạo với chúng ta (Matthew 5:44). Mặt khác, chúng ta đọc luật của Moses về Đức Chúa Trời trong Cựu Ước ra lệnh cho các con Ngài 'không thương tiếc chúng' (Deut 7:2) và 'giết mọi sinh vật' (Deut 20:16)" (Flood 2014, 1). Vài học giả cho rằng Chúa Giêsu có nhiều mâu thuẫn, lúc thì kêu gọi hòa bình vô điều kiện, lúc thì cổ võ bạo động và tranh chấp (Aslan 2014, xxiv).
Có ba cách chính giải quyết vấn đề này trong việc truyền bá hoặc học hỏi Kinh Thánh. Cách thứ nhất là không chấp nhận Cựu Ước là Kinh thánh của Cơ-đốc giáo, không đề cập đến những việc bạo lực trong Cựu Ước, hoặc chỉ nhắc đến Cựu Ước sơ sài và tránh né những khía cạnh bạo lực. Cách thứ nhì là cố giải thích những bạo lực trong Cựu Ước dưới ý nghĩa trong Tân Ước. Cách thứ ba là giải thích Cựu Ước dựa vào chứng cớ lịch sử và các đoạn văn khác trong Cựu Ước, làm giảm bớt tính chất tàn bạo của Cựu Ước. Cả ba cách này dường như không hoàn toàn thoả đáng. và tranh cãi vẫn còn tiếp tục. Trong bài này, tôi sẽ không đi sâu vào chi tiết đề tài này, vì đề tài quá bao la và nó chỉ có liên hệ một phần nhỏ với ý chính của bài.
Trong Cựu Ước, Yahweh là Đức Chúa Trời. Nhiều học giả đưa ra những lý thuyết giải thích việc dùng bạo lực trong Cựu Ước. Thí dụ, những hành động bạo lực trong Cựu Ước là do ác quỷ Satan (Flood 2014, 93), do Đức Chúa Trời dùng cách "dĩ độc trị độc" (Boyd 2017, 144-146), hoặc do kỹ thuật giảng dạy theo lối thiên khải đạo đức tăng dần (Fleischer 2017, 9). Cho dù dưới lý thuyết nào, các giải thích đều đồng ý việc Đức Chúa Trời dùng bạo lực chống lại kẻ tàn ác, vì lý do hòa bình, hoặc để bảo vệ người dân yếu đuối. "Khi Đức Chúa Trời trong Cựu Ước hành động bạo lực Ngài hành động vì có lý do, và Ngài thường hành động để thúc đẩy hòa bình" (Lamb 2011, 94). "Yahweh sẵn sàng trừng phạt nặng nề con người và ngay cả quốc gia để bảo vệ kẻ yếu đuối và bảo tồn sinh mạng" (Lamb 2011, 99, 177). "Yahweh dùng bạo lực chỉ để trừng phạt kẻ gian tà hoặc để bảo vệ người yếu đuối" (Lamb 2011, 112). Ngay cả luật trả đũa "mắt đổi mắt, răng đổi răng" (luật mà Chúa Giê-su sửa đổi thành "đưa má kia cho họ tát" trong Bài Giảng Trên Núi) là phương tiện hữu hiệu làm giảm bớt tội bạo hành và cổ võ hòa bình trong con người (Lamb 2011, 106).
Không những thế, nhiều học giả liên kết Yahweh trong Cựu Ước với Chúa Giê-su trong Tân Ước. "Yahweh và Chúa Giê-su, tuy có cá tính riêng biệt, đều là Đức Chúa Trời và thiết thực là một. Và quan trọng hơn, cả hai đều được mô tả bằng tình yêu thương" (Lamb 2011, 178). Sự liên kết này có thể giải thích những dấu vết bạo lực trong Tân Ước, và biểu lộ phần nào qua hành động và lời giảng của Chúa Giê-su. "Chính Chúa Giê-su cũng thỉnh thoảng chấp nhận, tha thứ, và kích động bạo lực" (Desjardins 1997, 73). Những nét bạo lực này không có mức độ tàn bạo như trong Cựu Ước nhưng cũng có những khía cạnh phản ứng mạnh mẽ qua phương tiện vật chất.
Theo vài học giả, Tân Ước cổ võ cả BĐ lẫn BBĐ. Xem, thí dụ như, Desjardins 1997, 121. Một mặt, Tân Ước cổ võ hòa bình và thông điệp hòa bình được phân phối rộng rãi (Desjardins 1997, 60). Mặt khác, Tân Ước cũng cổ võ bạo lực (Desjardins 1997, 62). "Xuyên suốt Tân Ước, Chúa Giê-su và những người theo Ngài có thể thấy là chấp nhận, tha thứ, và ngay cả kích động bạo lực" (Desjardins 1997, 66). Tân Ước đồng ý việc dùng bạo lực chống lại bạo lực trong tình trạng hai phe đối đầu nhau. "Đức Chúa Trời còn phản ứng các lực tà ác với bạo lực cực kỳ" (Desjardins 1997, 72). Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là người dân khi bị thất thế, thí dụ bị dưới sự khống chế của chính quyền, dùng bạo lực chống lại chính quyền, theo "Bài Giảng Trên Núi" của Chúa Giê-su (Xem, thí dụ như, Cao-Đắc 2018).
Chúa Giê-su không hề dạy không chống lại kẻ ác, và còn nhấn mạnh việc dùng bạo lực là việc cần thiết để tiêu diệt kẻ ác. C.S. Lewis (2001, 64-90), một học giả gốc Ái Nhĩ Lan nổi tiếng, trong bài luận văn nhan đề "Tại sao tôi không phải là người theo chủ nghĩa hòa bình,” lập luận rằng các diễn giải về Kinh Thánh không thuyết phục ông trở thành người theo chủ nghĩa hòa bình (2001, 88). Bạo lực được dùng để đem lại cuộc sống tốt đẹp cho mọi người và duy trì công lý. "Quan điểm trong Tân Ước là bạo lực đội khi cần thiết để tạo nên những thay đổi tốt đẹp" (Desjardins 1997, 70). "Qua khắp Tân Ước, bạo lực của Đức Chúa Trời được coi là cần thiết để cho con người tốt hơn, cho họ được đến gần thánh thiện hơn, để thưởng họ công bằng khi họ chết, và để dẹp bỏ thế giới tà độc" (Desjardins 1997, 72). Đức Chúa Trời có tác động bạo lực, gieo rắc cơn giận dữ cùa Ngài lên những kẻ bất lương (Gager và Gibson 2005, 17). "Phúc âm [Matthew] cũng xác nhận rằng sự bạo lực nào đó, nghĩa là bạo lực của Đức Chúa Trời, vị lãnh tụ tối cao là Thượng Đế của đất trời ([Matthew] 11:25), và Chúa Giê-su đại diện Đức Chúa Trời, thì hợp lý và cần thiết" (Carter 2005, 102).
Bằng chứng rõ rệt nhất về việc dùng bạo lực trong Tân Ước là câu chuyện Chúa Giê-su tẩy uế đền thờ (Desjardins 1997, 75-76; Juergensmeyer 2017, 34). Trong bài trước (Cao-Đắc 2018), tôi thảo luận việc này, và do đó sẽ không ghi lại những chi tiết ở đây, nhưng chỉ nhắc đến để cho thấy một thí dụ về phản ứng mạnh bạo chống lại sự gian tà. "Chúa Giê-su quả thực nóng giận trong việc 'tẩy uế' đền thờ" (Lamb 2011, 43). Có người tin rằng việc xảy ra tại đền thờ cho thấy Chúa Giê-su chủ trương BBĐ và là một hành động có tính toán (Friesen 2010, 86; Desjardins 1997, 76). Tuy nhiên, cho dù hành động tẩy uế đền thờ là do một kế hoạch nào đó, người dân không biết đến kế hoạch đó (và Chúa Giê-su cũng không tiết lộ) mà chỉ thấy Chúa Giê-su dùng vũ lực (tuy không mạnh bạo như dùng vũ khí gây thương tích) và bộc lộ cơn giận dữ.
Ngoài ra, Chúa Giê-su giảng dạy dùng bạo lực qua các dụ ngôn (parables). Trong các dụ ngôn, bạo lực được coi là cách đối phó hoặc trừng phạt những kẻ hung dữ hoặc có tội. Thí dụ, "[c]ác thiên sứ sẽ ném [những kẻ ác] vào lò lửa hực" (Matthew 13:40-43; Matthew 13:47-50); "các ngươi đã bị kết án vào lửa đời đời, là hình phạt dành sẵn cho Kẻ Quỷ Quyệt và các ác thần theo hắn... Và những kẻ này sẽ chịu hình phạt là sự chết vĩnh viễn, còn người công chính thì nhận được sự sống vĩnh cửu" (Matthew 25:31-46); "Ai rơi trên đá ấy sẽ tan xương nát thịt, và đá ấy rơi trúng ai thì sẽ đè nát người đó" (Matthew 21:33-46).
Có nhiều lý lẽ giải thích các quan điểm hòa bình và bạo lực trong Tân Ước. Một nhận xét rằng hai phe cổ võ hòa bình và cổ võ bạo lực thực ra hỗ trợ nhau chứ không phải mâu thuẫn nhau (Desjardins 1997, 112). Tuy nhiên, cho dù có những lý do giải thích việc dùng bạo lực, Kinh Thánh cho thấy BĐ là phương thức cần thiết chống lại kẻ ác khi mọi biện pháp hòa bình thất bại. Cựu Ước "được viết để kể chuyện về những gì Đức Chúa Trời đã làm, đang làm và sẽ làm đối với kẻ ác độc" (Wright 2006, 45).
2. BĐ và BBĐ trong Phật giáo:
Như tất cả các tôn giáo, Phật giáo chủ trương không dùng bạo lực. Tuy nhiên. "lịch sử và nhiều giảng dậy của Phật giáo không hoàn hảo" (Juergensmeyer 2017, 142). Thí dụ, những cuộc chiếm đóng quân sự vương quốc Sinhalese tại Sri Lanka được thực hiện dưới danh nghĩa truyền thống Phật giáo và thường được chấp thuận bởi các tăng sĩ Phật giáo. Phòng thủ vũ trang - ngay cả chiến tranh - từng được bào chữa trên lý do rằng các hành vi bạo lực đó có tính chất đáp ứng chứ không phải là cố tình gây bạo lực (tlđd.).
Đức Dalai Lama thứ 14 chủ trương BBĐ nhưng chấp nhận biện pháp BĐ trong vài trường hợp, nhất là khi dùng để chống lại kẻ tàn ác. Ngược lại, Ngài lên án những chính quyền cai trị dân bằng bạo lực, nhất là các chế độ độc tài như cộng sản. Theo Ngài, những chính phủ cộng sản cố hết sức kiểm soát xã hội họ và dẫn dắt công dân họ làm việc cho việc tốt chung, nhưng chủ nghĩa cộng sản thất bại thê thảm vì nó dựa vào bạo lực để thúc đẩy niềm tin (Dalai Lama 1993). Những kẻ dùng thủ đoạn lừa đảo và bạo lực có thể đạt được thành công ngắn hạn đáng kể, nhưng trước sau gì họ sẽ bị lật đổ (Dalai Lama 1993).
Một trong những lý do Phật giáo chủ trương BBĐ là khái niệm nhân quả. Khái niệm nhân quả nhấn mạnh đến những mối liên hệ lệ thuộc nhau giữa con người và hành động. Phật giáo chống bạo động, coi đó là sản phẩm cùa các trạng thái tâm thần liên quan đến tham, sân, và si (Keown 2013, 121). Điểm chính yếu của quan điểm thế giới theo Phật giáo gồm có bất bạo động và sự phụ thuộc lẫn nhau (Dalai Lama và Chan 2014, 229). Không hại người khác là khái niệm nối dài từ sự phụ thuộc lẫn nhau. Vì mọi thứ là một phần của chúng ta, hại người khác sẽ tự hại chúng ta (Dalai Lama và Chan 2014, 229). Do đó, nếu ta dùng bạo lực lên người khác, việc đó sẽ có tác dụng ngược lại lên chính mình.
Thực ra, Phật giáo không chủ trương BBĐ một cách mù quáng. "Từ thời nguyên thủy của Phật giáo, lý thuyết bất bạo động không bao giờ được trình bày mà không có vài giới hạn" (Dalai Lama và Carrière 2001, 167). Chúng ta phải hành xử tùy trường hợp và không phải lúc nào cũng khư khư giữ chính sách BBĐ.
Đức Dalai Lama dường như khuyến khích việc dùng bạo lực để chống lại sự hung ác. Khi được hỏi về việc ám sát Osama bin Laden, Ngài nói, "Tha thứ không có nghĩa là quên những gì xảy ra... Nếu sự việc trầm trọng và cần phải có biện pháp đối phó, ta phải dùng biện pháp đối phó" (Richmond 2011). Khi kẻ hung ác phạm tội mà không ai đối phó, việc đó sẽ tạo ra hậu quả cực kỳ xấu cho kẻ hung ác đó. Thí dụ, hắn có thể tiếp tục phạm tội, gây thêm nghiệp chướng. và càng gây tác hại cho những người vô tội khác. Do đó, người ta có thể hành động bằng biện pháp mạnh mẽ chống lại kẻ phạm tội đó, miễn là hành động đó do bởi lòng từ bi và cảm thông cho kẻ phạm tội, và không tạo ra giận dữ hoặc hận thù (Dalai Lama 1997, 10).
Việc dùng bạo lực chống lại kẻ ác độc với lòng từ bi và cảm thông được giải thich qua câu chuyện "Vị Thuyền Trưởng Nhân Từ" trong Kinh "Tài Năng Về Phương Tiện/ Phương Tiện Thiện Xảo (Skill in Means)." Tôi đã trình bày câu chuyện này trong bài trước (Cao-Đắc 2018) và do đó sẽ không nhắc lại chi tiết. Một cách vắn tắt, câu chuyện đó kể về kiếp trước của Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong kiếp đó, Ngài là một thuyền trưởng, ra tay giết một kẻ tàn ác trước khi kẻ đó giết 500 người vô tội khác trên thuyền. Ý chính câu chuyện là Phật giáo cho phép giết người ác độc để cứu người hiền lành, nhưng việc đó phải được cân nhắc kỹ lưỡng và phải được thực hiện với niềm cảm thông và lòng từ bi.
Việc dùng bạo lực trong trường hợp cần thiết thực ra nằm trong lý thuyết Phật giáo. Đức Dalai Lama nói, "Một trong những giới luật trong lời tuyên thệ Bồ tát là dùng biện pháp đối phó mạnh khi tình huống đòi hỏi. Nếu không, thì việc đó vi phạm một trong những lời thề đó" (Dalai Lama 1997, 10; Richmond 2011). Ngài nói thêm, "Nếu bạo lực dẫn đến lòng cảm thông, từ bi, và trắc ẩn (compassion) thì đó là chuyện tốt" (Dalai Lama và Carrière 2001, 163). Thurman cho rằng BBĐ có thể biến dạng thành BĐ. "Bất bạo động đôi khi chuyển sang bạo động chính xác" (Thurman 1999, 122).
Ngoài ra, Đức Dalai Lama dạy rằng bạo động hay bất bạo động không nhất thiết do hình thức của hành động. Chính nội dung hoặc mục tiêu của hành động xác định hành động đó là bạo động hay bất bạo động. "Nếu chúng ta có động cơ thành thật, với lòng từ bi và quan tâm trong trí tuệ, cho dù chúng ta nói lời nặng nề, dùng lực vật chất, những hành động này là bất bạo động. Nhưng với động cơ tiêu cực, một cử chỉ thân thiện dùng ngôn từ tử tế và nụ cười to, và ráng bóc lột người khác, đó là loại bạo động tồi tệ nhất" đó (Dalai Lama và Chan 2013; Dalai Lama và Chan 2014, 226). Ý định là yếu tố quan trọng nhất (Deshung 2003, 220).
Tuy nhiên, cho dù tình trạng cho phép và với lòng từ bi và cảm thông, Đức Dalai Lama không chủ trương chủ động dùng bạo lực, mà chỉ dùng bạo lực là một phản ứng cho một bạo lực khác. Ngài nói, "[N]ếu bạn thấy bạn ở trong một tình huống mà bạn rõ ràng phải hành động một cách mạnh bạo để tự vệ hoặc phòng thủ, thì bạn phải đáp ứng thích hợp" (Dalai Lama và Chan 2014, 226).
Câu hỏi là thế nào là "tự vệ" hay "phòng thủ"? Phòng thủ có nhất thiết tương ứng với một hành động đang xảy ra tại hiện trường, hay là một loạt hành động xảy ra trong một khoảng thời gian? Thí dụ, một nhóm cai trị tàn ác đánh đập, cướp bóc, giết chóc người dân trong nhiều năm trời. Có cần khi nhóm tàn ác đó ra tay cướp bóc thì người dân mới phản ứng "phòng thủ" bằng bạo lực? Người dân có thể dùng bạo lực để ra tay trước trong tiến trình "phòng thủ" cho những hành động tàn ác của nhóm tàn ác đó trong tương lai? Nếu chờ bọn chúng giở trò cướp bóc giết người mới ra tay "phòng thủ" thì việc đó quá trễ, và còn gây ra hậu quả tác hại. Ngoài ra, nếu dùng bạo lực chỉ để tự vệ khi bị tấn công thì tác dụng sẽ không hiệu quả, vì kẻ tàn ác sẽ leo thang dùng bạo lực để trả thù, vì chúng nghĩ rằng người dân dùng bạo lực tự vệ vì bị dồn đường cùng chứ thực sự không có khả năng chống trả.
Câu chuyện về vị thuyền trưởng bồ tát giết kẻ cướp trên thuyền dường như hỗ trợ cho việc phòng thủ bằng cách ra tay trước. Câu chuyện cho biết kẻ cướp gian ác đó là một người điêu luyện về võ khí. Việc giết kẻ cướp đó chắc chắn được thực hiện khi kẻ cướp đó không đề phòng vì vị bồ tát không thể đối đầu kẻ cướp một-đối-một trong một cuộc đánh nhau có chuẩn bị. Hành động của vị thuyền trưởng bồ tát đó không phải là để tự vệ hoặc để phòng thủ khi kẻ ác ra tay. mà để tiêu diệt kẻ ác đó trước khi hắn ra tay giết người lương thiện.
Ngoài ra, một khía cạnh quan trọng trong câu chuyện "Vị Thuyền Trưởng Nhân Từ" là bản chất cao cả của sự bảo vệ người khác. Vị thuyền trưởng ra tay hành động không phải vì ông muốn bảo vệ mạng sống của ông mà ông muốn bảo vệ mạng sống của 500 người khác. Cứu người khác ra khỏi nguy hiểm là món quá thứ nhì trong 4 món quà quý báu nhất (Deshung 2003, 331). Cái tính chất cao cả đó là tính chất căn bản của hầu hết những cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ, đặc biệt là cuộc đấu tranh tại Việt Nam. Hầu hết những người đấu tranh thực sự (không kể những kẻ đấu tranh "cuội" hoặc "quốc doanh") không hành động vì bảo vệ quyền lợi của mình, mà vì muốn bảo vệ quyền lợi người khác, cho những người thấp cổ bé miệng, và cho những thế hệ sau này.
Tóm lại, Phật giáo chủ trương Bi Trí Dũng, nhấn mạnh đến ba khía cạnh tối quan trọng trong cuộc sống: từ bi (compassion), trí tuệ sáng suốt (wisdom), và lòng dũng cảm (courage). Tín đồ Phật giáo không nên nhầm lẫn các khía cạnh này mà phải biết phối hợp cả ba trong cuộc đấu tranh.
C. Kết Luận:
Trong cuộc biểu tình hoặc những cuộc biểu tình sắp tới, người dân Việc cần phải nhận rõ những yếu tố quan trọng trong cuộc đấu tranh về các phương thức BBĐ, thí dụ các kỹ thuật của Gene Sharp và kinh nghiệm của phong trào Otpor!, và rút tỉa những kinh nghiệm và lời khuyên cùa những nhà hoạt động thành công như Mahatma Gandhi và Nelson Mandela. Những người có niềm tin vào tôn giáo, thí dụ Cơ-đốc giáo và Phật giáo, nên tìm hiểu một cách sáng suốt những lời giảng dạy có tính chất tổng quát về BBĐ và những trường hợp đặc biệt khi phương thức BĐ không những được chấp thuận mà còn được khuyến khích.
Sự thành công trong cuộc đấu tranh không nên đặt nặng quá nhiều vào hình thức, vì chính nội dung sẽ quyết định hình thức nào. Người dân nên chú trọng vào các yếu tố quan trọng trong tinh thần đấu tranh. Popović, thủ lãnh phong trào Optor! tại Serbia, chia sẻ cảm nghĩ của ông về sự thành công của phong trào Otpor! "Otpor! thành công vì nó có đầy rẫy nhiệt tình và sáng tạo - cả hai đặc tính đó phải nằm trong con tim và trí óc bạn và tất cả mọi người đang hoạt động với bạn." (Popović và Miller 2015, 247).
Popović kết luận với yếu tố quan trọng nhất. "Tuy nhiên, phần can đảm hoàn toàn ở bạn." (tlđd., 260).
Tài Liệu Tham Khảo:
tlđd.: tài liệu đã dẫn, thay cho "sđd." (sách đã dẫn) để chỉ tài liệu (sách, trang mạng, liên lạc riêng, v.v.) đã trích dẫn xuất hiện ngay trước trích dẫn này.
Ackerman, Jack và Duvall, Jack. 2001. A Force More Powerful. A Century of Nonviolent Conflict. St. Martin's Griffin. New York, NY., U.S.A.
Aslan, Reza. 2014. Zealot. The Life and Times of Jesus of Nazareth. Random House, New York, NY., U.S.A.
Borg, Marcus J. 2008. Jesus - Uncovering the Life, Teachings, and Relevance of a Religious Revolutionary. HarperOne, New York, NY. U.S.A.
Boyd, Gregory A. 2017. Cross Vision. How the Crucifixion of Jesus Makes Sense of Old Testament Violence. Fortress Press, Minneapolis, MN., U.S.A.
Carter, Warren. 2005. Constructions of Violence and Identities in Matthew's Gospel, trong "Violence in the New Testament," Shelley Matthews và E. Leigh Gibson Eds. T & T Clark International, New York, NY., U.S.A.
Chenoweth, Erica và Stephan, Maria J. 2013. Why civil resistance works. The strategic logic of nonviolent conflict. Columbia University Press. New York, NY., U.S.A.
Dalai Lama, The. 1998. Laurence Freeman (giới thiệu và Bối Cảnh Ki-tô giáo), Thupten Jinpa (dịch và ghi chú), Robert Kiely (Biên tập và Lời Nói Đầu). The Good Heart. A Buddhist Perspective on the Teachings of Jesus. Wisdom Publications. Somerville, MA., U.S.A.
Dalai Lama, The. 1997. Thupten Jinpa (dịch). Healing Anger: The Power of Patience from a Buddhist Perspective. Snow Lion Publications, Ithaca, NY., U.S.A.
Dalai Lama, The và Chan, Victor. 2014. The Wisdom of Compassion – Stories of Remarkable Encounters and Timeless Insights. Riverhead Books, New York, NY. U.S.A.
Dalai Lama, His Holiness The và Carrière, Jean-Claude. 2001. Violence & Compassion - Dialogues on Life Today. Image Books, Doubleday, New York, NY., U.S.A..
Deshung Rinpoche. 2003. Translated by Jared Rhoton. The Three Levels of Spiritual Perception - A Commentary on The Three Visions. Wisdom Publications. Somerville, MA., U.S.A.
Desjardins, Michel. 1997. Peace, Violence, and the New Testament. Sheffield Academic Press. Sheffield, England.
Engler, Mark và Engler, Paul. 2017. This is an Uprising. How Nonviolent Revolt is Shaping the Twenty-First Century. Nation Books. New York, NY., U.S.A.
Fleischer, Matthew Curtis. 2017. The Old Testament Case for Nonviolence. Epic Octavius the Triumphant, LLC, Oklahoma City, OK., U.S.A.
Flood, Derek. 2014. Disarming Scripture: cherry-picking liberals, violence-loving conservatives, and why we all need to learn to read the Bible like Jesus did. Metanoia Books. San Francisco, CA., U.S.A.
Friesen, Philip E. 2010. The Old Testament Roots of Nonviolence. Abraham’s Personal Faith, Moses’ Social Vision, Jesus’ Fulfillment, and God’s Work Today. Wipf & Stock. Eugene, OR., U.S.A.
Gager, John G với Gibson, E. Leigh. 2005. Violence Acts and Violent Language in the Apostile Paul, trong "Violence in the New Testament," Shelley Matthews và E. Leigh Gibson Eds. T & T Clark International. New York, NY., U.S.A.
Keown, Damien. 2013. Buddhism: A Very Short Introduction. Second Edition. Oxford University Press. Oxford, UK.
Juergensmeyer, Mark. 2017. Terror in the Mind of God. The global rise of religious violence. 4th edition. University of California Press. Oakland, CA., U.S.A.
Lamb, David T. 2011. God Behaving Badly. Is the God of the Old Testament Angry, Sexist and Racist? InterVarsity Press. Downers Grove, IL., U.S.A.
Lewis, C.S. 2001. The Weight of Glory. HarperOne. New York, NY. U.S.A.
Mandela, Nelson. 1995. Long walk to freedom. Abacus. London, U.K.
Merton, Thomas (Ed.). 2007. Gandhi on Non-Violence. Reissued. New Directions Publishing Corporation. New York, NY., U.S.A.
Popović, Srđa và Miller, Matthew. 2015. Blueprint for revolution. Spiegel & Grau, Random House. New York, NY., U.S.A.
Sharp, Gene. 2005. Waging nonviolent struggle. Extending Horizons Book, Porter Sargent Publishers, Inc.. Manchester, New Hampshire, U.S.A.
_________.1973a. 10th printing 2012. Power and Struggle - Part One. The Politics of Nonviolent Action. Extending Horizons Books, Porter Sargent Publishers, Inc. Manchester, New Hampshire, U.S.A.
_________.1973b. 9th printing 2012. The Methods of Nonviolent Action - Part Two. The Politics of Nonviolent Action. Extending Horizons Books, Porter Sargent Publishers, Inc. Manchester, New Hampshire, U.S.A.
Thurman, Robert. 1999. Inner Revolution – Life, Liberty, and the Pursuit of Real Happiness. First Riverhead paperback edition. The Penguin Group. New York, New York, U.S.A.
Trocmé, André. 2003. (Edited by Charles E. Moore.) Jesus and the nonviolent revolution. Revised and expanded edition. Plough Publishing House. Walden, New York, U.S.A.
Wright, N.T. 2006. Evil and the Justice of God. InterVarsity Press. Downers Grove, IL., U.S.A.
Nguồn Internet:
© 2018 Cao-Đắc Tuấn