Lời giới thiệu: TS Vũ Ngọc Hoàng, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó
Trưởng Ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương chẩn bệnh chế độ
toàn trị rất đúng: tham quyền, lạm dụng quyền lực, tham nhũng và lợi ích
nhóm. Nhưng khi bốc thuốc ông lại muốn giữ việc kiểm soát quyền lực vẫn
thuộc độc quyền của đảng. Tức là nguyên nhân của mọi nguyên nhân vẫn
không dám động tới!
Cách này ông thừa biết chỉ là thói vừa đánh bóng vừa thổi còi, rất uổng
công vô ích! Bằng chứng điển hình nhất là năm 2010 khui ra vụ Tập đoàn
nhà nước Vinashin. Trong đó các quan tham đầu sỏ đã chia chác nhau và
phung phí ngân sách quốc gia lên đến trên 86.000 tỉ đồng (4,5 tỉ Mĩ
kim), mặc dầu các cơ quan của chính phủ và của đảng đã cử tới 10 đoàn
thanh tra khác nhau, nhưng vẫn không tìm ra thủ phạm! Cuối cùng Nguyễn
Tấn Dũng trơ trẽn chỉ nhận trách nhiệm suông. Sau đó hai phe Nguyễn Phú
Trọng và Nguyễn Tấn Dũng thỏa hiệp ngầm với nhau để Nguyễn Phú Trọng lên
nắm chức Tổng bí thư trong Đai hội 11 và Nguyễn Tấn Dũng giữ chức Thủ
tướng thêm nhiệm kì nữa!
Cuối cùng ông Hoàng lại còn hô hoán: "Một dân tộc muốn tiến lên cần
phải có bộ tham mưu chiến lược. Có sự lãnh đạo của một đảng chân chính
và trí tuệ là yêu cầu khách quan." Khẳng định này của Vũ Ngọc Hoàng
hoàn toàn chủ quan và cực kì sai lầm. Ông không dám nhìn thẳng vào sự
thực, ở các chế độ Dân chủ đa nguyên trên thế giới các tệ trạng trong
chính trị được giảm tới tối đa, vì ở các xã hội này các cơ quan kiểm
soát như Quốc hội, Tòa án hoàn toàn độc lập. Ngoài ra còn có hệ thống
báo chí độc lập và các đoàn thể dân sự cũng độc lập được tự do hoạt
động. Nó là các bộ phận, tai mắt và tứ chi rất cần thiết như một cơ thể
lành mạnh.
Mục tiêu bài viết của Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương không có ý
định làm sạch chế độ mà chỉ là cách ru ngủ dư luận trước Đại hội 12
trước mắt. Họ cố làm bộ là lần này sẽ làm thực! Hiện nay các phe đang
gầm ghè nhau, dọa nạt nhau cốt chỉ để đặt điều kiện trong việc giữ ghế
chia phần; nhưng các phe vẫn giữ chung mục tiêu là duy trì bằng được chế
độ độc đảng. Có như vậy thì mới tiếp tục giữ quyền và hôi tiền bạc!
Điều này thể hiện rất rõ trong "Dự thảo Báo cáo chính trị của Đại hội
12" vừa công bố, trong đó đòi ĐCS nắm độc quyền được lập đi lập lại rất
nhiều lần!
Như vậy thói lên giọng đạo đức, chống đối tham nhũng và lợi ích nhóm giả
dối của Vũ Ngọc Hoàng không đánh lừa được ai, ngay cả nhiều đảng viên
tiến bộ và biết tự trọng cũng đang đứng lên công khai tố cáo!
*
TCCS - Lịch sử thế giới đã chứng minh mỗi quốc gia
chỉ có thể thành công khi việc trao quyền lực được thực hiện
một cách đúng đắn, bảo đảm mọi quyền lực thực sự là của
nhân dân và có cơ chế kiểm soát để người được trao quyền không
bị thoái hóa, biến chất. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện
nay, một quốc gia muốn thành công cần phải có phương thức lãnh
đạo trao quyền cho những người có đạo đức, có tài năng và cần
tập trung kiểm soát quyền lực, bổ sung các cơ chế thực thi dân
chủ rộng rãi trong đảng và trong xã hội.
Trong buổi bình minh của nhân loại, khi con người còn hoang sơ,
cuộc sống còn phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, người ta
đã nghĩ và tin rằng, quyền lực thuộc về tự nhiên, do các thần
linh nắm giữ. Sau đó, nhờ trình độ nhận thức tăng lên, con
người đã dần dần nhận ra và phân biệt được sức mạnh của tự
nhiên và sức mạnh của mình trong chế ngự tự nhiên và quản lý
xã hội. Từ đó quyền lực bắt đầu xuất hiện.
Quyền lực, khởi nguyên là của nhân dân, của cộng đồng mà không phải
cá nhân ai bỗng nhiên có được. Khi mọi người tự nguyện đồng lòng tôn
vinh ai đó là thủ lĩnh, là người phụ trách để thay mặt họ xử lý công
việc chung, thì đồng thời cũng là trao quyền lực cho người ấy. Bắt đầu
từ đó, người thủ lĩnh, người phụ trách có quyền lực. Về bản chất thì
quyền lực không phải của họ mà họ được nhân dân trao quyền, ủy quyền để
sử dụng cho mục đích chung.
Khi quyền lực được trao cho người có nhân cách tốt thì nó được sử
dụng đúng mục đích, bảo vệ và đem lại lợi ích cho cộng đồng. Người xưa
có câu: “Đức trọng, quyền cao”. Câu ấy có thể hiểu là dựa trên cơ sở
của đạo đức, nhân cách mà trao quyền lực. Người có đạo đức là mười thì
có thể trao quyền lực đến bảy, tám, tức là trao quyền lực ít hơn, càng
không trao vượt quá. Người có đạo đức ít, thấp mà trao quyền lực
nhiều, cao thì vô cùng nguy hiểm, giống như “gửi trứng cho ác”, sai
lầm, tai họa là nhất định không tránh khỏi. Theo đó, người có chức quyền
càng lớn thì đạo đức, nhân cách phải càng lớn hơn. Không biết từ bao
giờ, câu “Đức trọng, quyền cao” lại bị người ta nói chệch sang là “Chức
trọng, quyền cao”, tức là trọng chức tước chứ không phải trọng nhân
cách.
Khi quyền lực trao cho người không đủ nhân cách, thì nó trở thành
công cụ phục vụ cho lợi ích cá nhân, “lợi ích phe nhóm”, thậm chí là
công cụ để làm việc ác. Trong lịch sử thế giới và Việt Nam đã có nhiều
trường hợp nhân dân trao quyền và bị mất quyền, trở thành đối tượng cho
quyền lực cai trị. Như vậy, quyền lực có thể đem lại công bằng, hạnh
phúc và cũng có thể đem lại tai họa, đau khổ cho con người. Điều đó phụ
thuộc vào việc quyền lực được trao vào tay ai.
Trong thực tế đời sống xã hội có nhiều trường hợp quyền lực của một
cộng đồng đã bị người khác (hoặc một nhóm người) dùng thủ đoạn tước
đoạt, tranh cướp mất. Quyền lực vốn là của nhân dân, nhưng trong chế độ
chiếm hữu nô lệ, các chủ nô đã chiếm giữ và sử dụng nó để cai trị xã
hội, biến nhân dân (vốn là chủ nhân của quyền lực) thành những người bị
mất quyền, phải làm nô lệ. Trong chế độ phong kiến, quyền lực của nhân
dân rơi vào tay vua và tập đoàn phong kiến, còn nhân dân nói chung không
có quyền, ngoài một số quyền ít ỏi nào đó do nhà vua ban cho; ngay cả
đến quyền sống cũng không có, “ý vua là ý trời”, vua đại diện cho pháp
luật, muốn giết ai thì giết, thậm chí giết luôn cả dòng họ, cả mấy đời
(tru di tam tộc, tru di cửu tộc) của người đó. Thời kỳ đầu của chế độ tư
bản chủ nghĩa, quyền lực do giai cấp tư sản, nhất là giới tài phiệt
chi phối, chiếm giữ và sử dụng. Ngày nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại
đã tiến bộ rất nhiều theo hướng dân chủ, tuy vậy, nhìn chung, giới tài
phiệt ở các nước vẫn còn chi phối đáng kể quyền lực. Dân chủ là một vấn
đề khách quan, tùy thuộc vào trình độ phát triển của mỗi nước, nhất là
trình độ dân trí, quan trí và sự phát triển của lực lượng sản xuất xã
hội.
Quyền lực luôn có mặt trái là làm tha hóa những người nắm giữ và sử
dụng quyền lực nếu như họ không đủ nhân cách. Với những người như vậy,
nếu quyền lực mà họ nắm giữ càng lớn thì nguy cơ tha hóa của họ càng
nhiều. Một người khi giữ chức vụ thấp hơn thì nguy cơ tha hóa ít hơn.
Mặc dù vậy, nói chung phần lớn quan chức đều tham vọng có nhiều quyền
lực. Không có gì hấp dẫn, cám dỗ bằng quyền lực. Nó là “ma túy” gây
nghiện, là “ma quỷ” xui khiến. Khi có quyền lực là có thể có gần như
tất cả, nếu muốn. Vì vậy, quyền lực hấp dẫn bằng các thứ hấp dẫn khác
cộng lại. Người ta đam mê nó, suốt ngày nghĩ về nó, dùng mọi thủ đoạn
sống chết để giành và giữ lấy nó, dù phải mất nhân cách, dù phải làm
việc ác. Có quyền lực rồi thì muốn có quyền lực lớn hơn, lớn rồi vẫn
chưa đủ lại muốn lớn hơn nữa. Cứ thế, gần như không có điểm dừng, thậm
chí không cần biết có nhiều quyền lực để làm gì. Bản thân việc ấy đã là
biểu hiện của sự tha hóa. Quyền lực làm tha hóa con người một cách nhanh
nhất. Không ít người chỉ cần sau một cuộc bỏ phiếu hoặc sau một quyết
định phong chức, họ có thể bỗng nhiên khác hẳn, họ bắt tay theo kiểu
khác, chào hỏi kiểu khác, dáng đi bệ vệ hơn, nói năng ra oai hơn...
Quyền lực không chỉ làm tha hóa mấy con người cụ thể, mặc dù đúng là
bắt đầu từ đó, mà còn làm tha hóa cả một chế độ, một vương triều. Nhìn
lại các triều đại phong kiến Việt Nam, hầu hết, lúc đầu được nhân dân
ủng hộ lên nắm quyền, làm được nhiều việc lớn cho đất nước, dân tộc
nhưng sau đó thì bị tha hóa bởi quyền lực, từ tha hóa ở một số người đến
một bộ phận rồi thành việc phổ biến của một vương triều, rồi sụp đổ,
vương triều khác lên thay, sau một thời gian lịch sử lặp lại y như vậy.
Nhà Ngô, nhà Đinh, Tiền Lê có công lớn nhưng mỗi triều đại chỉ tồn tại
trong khoảng 15 - 30 năm. Nhà Lý, nhà Trần nhiều lần đánh thắng quân
Tống và quân Nguyên nhờ biết “lấy dân làm gốc” mà chiến thắng, cầm quyền
được lâu nhất, trên dưới 200 năm mỗi triều đại, dù vậy nhưng cuối cùng
cũng do bị tha hóa mà kết thúc. Nhà Hồ tồn tại quá ngắn, mặc dù có một
số tư tưởng và chủ trương cải cách nhưng ngay từ khi mới lên đã không
được dân chúng đồng tình, mâu thuẫn quyền lực trong giới quý tộc và mất
nước vào tay ngoại xâm. Nhà Hậu Lê (Lê sơ) mặc dù lúc đầu được nhân dân
ủng hộ mạnh mẽ, đứng lên làm khởi nghĩa Lam Sơn, thắng giặc Minh hung
bạo, nhưng khi lên cầm quyền rồi lại tha hóa, sát hại các trung thần vì
họ can ngăn những việc làm sai trái và sợ họ chi phối quyền lực. Nguyễn
Trãi cũng bị mưu hại trong giai đoạn này. Nhờ có minh quân mà nhà Hậu Lê
gượng lại được một thời gian gần trăm năm, nhưng cuối cùng cũng tha
hóa. Nhà Mạc cũng vậy, chỉ tồn tại khoảng 65 năm. Tiếp theo là thời kỳ
vừa có vua, vừa có chúa, chúa giành nắm hết quyền lực, nhiều khi vua chỉ
là hình thức cho có vì, các chúa cũng tranh giành nhau quyền lực, đến
mức phải cát cứ vùng này, vùng kia, chia cắt đất nước ra để mỗi bên cai
trị một vùng. Triều Tây Sơn với chiến công oanh liệt, lẫy lừng là thế,
vậy mà sau khi Quang Trung mất thì tha hóa, tham nhũng và sụp đổ, tồn
tại chỉ có 24 năm. Phần lớn các triều đại ấy đã thoái hóa ngay cuối đời
vua thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, chứ không lâu, ngoại trừ một ít trường
hợp. Lâu nay lịch sử nước ta đã ghi lại khá rõ các chiến công lừng lẫy
của cha ông, nhưng lịch sử chưa viết kỹ về thời kỳ suy thoái, sự tha hóa
quyền lực và nhất là nguyên nhân của nó. Đây rất có thể là một khiếm
khuyết trong viết sử. Chính vì vậy mà không rút được kinh nghiệm đầy đủ
để phòng ngừa, nên tha hóa quyền lực cứ lặp đi lặp lại.
Liên Xô trước đây cũng vậy, thời kỳ đầu thực hiện khá tốt tư tưởng
nhà nước của dân, quyền lực về tay các xô-viết là cơ quan thật sự đại
diện cho đại đa số nhân dân, làm việc vì nhân dân nên đã lập nên nhiều
công tích lớn lao, vĩ đại, đánh thắng 14 nước đế quốc đến bao vây, bảo
vệ được chính quyền nhân dân non trẻ, chiến thắng trong Đại chiến thế
giới thứ 2, cứu nhân loại khỏi thảm họa phát-xít, thực hiện thành công
công nghiệp hóa ở một đất nước rộng lớn nhất thế giới trong thời gian
ngắn, đưa một nước chủ yếu còn nông nghiệp, thủ công lên thành một nước
công nghiệp hàng đầu thế giới, một cường quốc, dẫn đầu nhiều lĩnh vực;
vậy mà sau đó không lâu giới lãnh đạo đất nước bị tha hóa về quyền lực,
về đạo đức, bảo thủ và giáo điều, không chịu đổi mới, ai nói khác thì bị
quy chụp là “xét lại”, là “muốn đưa đất nước đi theo con đường tư bản
chủ nghĩa”... và cuối cùng thì Liên bang Xô-viết bị sụp đổ đến mức
khó hiểu nổi. Trước đây có nhiều lần giải thích rằng, Liên Xô đổ là do
các thế lực thù địch phá bằng thủ đoạn “diễn biến hòa bình”. Địch thì
lúc nào chẳng phá, do nó phá nên mới gọi là địch, mà phá sao bằng trước
đó, khi 14 nước đế quốc đến bao vây Nhà nước Xô-viết còn non trẻ, khi
trong Đại chiến thế giới thứ 2 quân đội phát-xít tập trung toàn lực tấn
công Liên Xô làm chết hàng chục triệu người. Liên Xô sụp đổ chính là “tự
đổ”, do suy thoái, tha hóa mà đổ. Liên Xô đã tự đánh gục chính mình.
Sự tha hóa về quyền lực có thể dẫn đến cha con, anh em, chồng vợ giết
nhau, người ta giết cả vua, gây ra những cuộc chiến tranh mất bao nhiêu
sinh mạng để tranh giành quyền lực, thậm chí người ta bán rẻ Tổ quốc và
đem dân tộc làm nô lệ cho ngoại bang để đổi lấy ngai vàng.
Tất nhiên trong xã hội thời nào cũng có nhiều người tốt,
nhiều nhân cách đáng trọng. Đối với họ, quyền lực được giao là
để phụng sự nhân dân, dùng để bảo vệ dân, đất nước và bảo vệ
lẽ phải, đạo nghĩa, chống gian trừ tà. Họ luôn sẵn sàng trao
trả quyền lực trở lại cho nhân dân khi đủ điều kiện. Đã có
những ông quan thanh liêm treo ấn từ quan vì xét thấy mình không
còn đủ sức gánh vác chuyện sơn hà hoặc là không muốn có lỗi với
dân vì không ngăn cản nổi những điều ngang trái. Đã có những ông vua
từ bỏ ngai vàng, trao quyền lực cho lớp người trẻ, kể cả vào
chùa để thúc đẩy các công việc thánh thiện cho đời và cho muôn dân.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, giành lại
được một đất nước đã mất, người có công lớn nhất lãnh đạo
cuộc cánh mạng là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng lúc đầu Người
kiên quyết từ chối làm Chủ tịch nước, không muốn công danh quyền
lực. Chỉ khi tập thể phân tích đây là trách nhiệm trước quốc
dân đồng bào, là gánh vác trọng trách và khó khăn, Người mới
nhận lãnh trách nhiệm, phát biểu trước đồng bào sẽ làm hết
sức mình để phụng sự nhân dân và mong nhanh có người thay thế
để được về vui sống với điền viên, giản dị và thanh bạch. Chí
sĩ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng cũng là một con người như vậy.
Khi đang ở ẩn trong vườn mít ở miền tây tỉnh Quảng Nam, ông
được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ra làm Phó Chủ tịch nước, rồi
làm Quyền Chủ tịch nước khi Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp, ông
không cần mong vinh hoa phú quý, chỉ đem toàn bộ tâm lực phục
vụ nhân dân. Đó là những con người có nhân cách lớn, quyền lực
không đe dọa được và cũng không cám dỗ được. Thời gian vừa qua, ở
nơi này nơi khác, thỉnh thoảng có những đồng chí bí thư thành ủy,
thường vụ tỉnh ủy đã tự nguyện chủ động từ chức sớm, khi chưa hết tuổi
và chưa hết nhiệm kỳ, để những vị trí lãnh đạo cho các đồng chí trẻ
hơn... Tất cả những con người ấy đều đáng trân trọng, không
được “vơ đũa cả nắm” đối với những người có quyền lực được trao.
Ngược lại, trong xã hội, ở chốn quan trường, không ít người
đầy tham vọng quyền lực. Khi quyền lực được gắn với chữ
“tham”, lòng tham, thì đó chính là động cơ, nguyên nhân và biểu
hiện của tha hóa quyền lực. Không thể hy vọng và tin tưởng gì
ở họ, ngược lại phải hết sức cảnh giác, đề phòng bị lừa
phỉnh, phủ dụ, mị dân, đừng “gửi trứng cho ác”, đừng đem sự
nghiệp của dân, của nước trao vào tay họ.
Mặt khác, quyền lực không thể trao cho ai mà không cần kiểm
soát. Nó là con dao hai lưỡi. Nó có thể biến người sử dụng
nó từ một người chưa xấu trở thành người xấu, biến người sử
dụng nó thành nô lệ cho nó. Mấy chục năm sau khi thống nhất đất
nước, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về xây dựng Đảng. Nội dung
các văn bản ấy nhìn chung đều đúng, không sai, việc tổ chức thực hiện
cũng tích cực, thậm chí có lúc vất vả nữa, nhưng tình trạng tham nhũng,
“lợi ích nhóm”, “mua quan bán chức”,... gọi chung là thoái hóa, không
dừng lại mà còn tăng lên, lan rộng hơn, gây nhức nhối hơn, làm cho lòng
tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước tiếp tục giảm sút đến mức báo
động. Vì sao vậy? Chắc chắn không phải việc chống các tiêu cực ấy là ta
chủ trương giả vờ, không chống thật; mà là chống chưa được, chưa hiệu
quả. Vậy còn thiếu cái gì? Có hai vấn đề còn thiếu, coi như chưa làm, mà
nếu không làm thì không khắc phục được tình trạng trên và có thể nó sẽ
còn tiếp tục trở nên xấu hơn, không tránh được. Đó là tập trung kiểm
soát quyền lực và bổ sung mạnh các cơ chế thực thi dân chủ rộng rãi
trong Đảng và trong xã hội.
Quyền lực, như đã nói, luôn có mặt trái là làm tha hóa những người
nắm giữ và sử dụng nó mà không đủ nhân cách. Nó như con dao hai lưỡi,
con ngựa bất kham, luôn lồng lên quật ngã những người cưỡi nó, nếu họ
không đủ nhân cách, bản lĩnh, năng lực cầm cương. Nhất thiết phải kiểm
soát quyền lực, không thể chủ quan, lơ là, không thể đùa với lưỡi dao
nhọn. Đã có rất nhiều bài học thực tiễn, thực tế đã chứng minh điều
đó; phải bàn kỹ và có quyết tâm chính trị để thực hiện. Đảng ta phải
tập trung cao, tích cực lãnh đạo công việc này. Đây là công việc quan
trọng vào bậc nhất, trong đó có các việc, như cơ cấu và phân bổ lại chức
năng, quyền hạn của các cơ quan nhà nước theo hướng kiểm soát và điều
chỉnh lẫn nhau (để Nhà nước thật sự là một cơ thể thống nhất và tự kiểm
soát, tự điều chỉnh được mình, có sức đề kháng cao với căn bệnh thoái
hóa quyền lực, có khả năng sửa sai nhanh nhất...); đổi mới căn bản nội
dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, trong đó có phương thức lãnh đạo
xây dựng Nhà nước thật sự của nhân dân, bảo đảm quyền lực là của nhân
dân. Nhân dân ủy quyền cho Nhà nước. Ủy quyền mà không mất quyền. Ủy
quyền và kiểm soát được quyền lực, không để lộng quyền.
Một dân tộc muốn tiến lên cần phải có bộ tham mưu chiến lược. Có sự
lãnh đạo của một đảng chân chính và trí tuệ là yêu cầu khách quan. Nhưng
khi trở thành đảng cầm quyền thì hoạt động của đảng không tránh khỏi có
nhiều việc liên quan với quyền lực. Đảng ta luôn ý thức về sự lãnh đạo
của mình chủ yếu phải bằng giá trị (văn hóa) chứ không phải bằng quyền
lực, và Đảng phải nghĩ ra các cơ chế để đảng viên, nhân dân và pháp luật
kiểm soát mình, kể cả nhân cách và việc sử dụng quyền lực, để Đảng được
rèn luyện liên tục, thường xuyên; từ đó mà không bị thoái hóa và ngày
càng trưởng thành hơn. Thực hiện điều ấy bằng cơ chế kiểm soát quyền lực
và cơ chế thực thi dân chủ. Để có thể thành công, bản thân Đảng phải
gương mẫu, từng cấp ủy và từng cán bộ lãnh đạo phải gương mẫu, vượt qua
chính mình. Đảng phải là “con” của nhân dân, là “con nòi” của dân tộc,
là đứa con trung hiếu và trưởng thành, để “lòng dân yêu Đảng như là yêu
con” như cách nói của Bác Hồ và nhà thơ Tố Hữu. Làm được như vậy, Đảng
sẽ được nhân dân luôn tin yêu, nhờ đó mà giữ vững được vai trò lãnh đạo
của mình để làm tròn sứ mệnh phụng sự nhân dân và Tổ quốc./.
Vũ Ngọc HoàngTS, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương
Trích: Tạp chí CS 15.9: http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Sinh-hoat-tu-tuong/2015/35208/Tham-vong-quyen-luc-va-su-tha-hoa.aspx
*
Mục Thời sự Tạp chí Dân chủ & Phát triển điện tử:
Email: dcvapt@gmail.com
0 comments:
Post a Comment