Phạm Hồng Sơn - Mới
hơn 4 tháng đầu năm 2012 ở Việt Nam đã xảy ra ba vụ cưỡng đoạt đất có
đổ máu: Tiên Lãng (Hải Phòng): 05/01/2012, Văn Giang (Hưng Yên):
24/04/2012 và Vụ Bản (Nam Định): 09/05/2012.
Đất là một trong những tài nguyên hiếm, nguồn
lực cơ bản cần cho sự sinh tồn, phát triển của con người. Đối với Việt
Nam, nước có mật độ dân số đứng vào nhóm chật chội trên thế giới[i], thì đất lại càng hiếm và quí giá hơn nữa.
Theo kinh tế học, có hai cách cơ bản để việc
phân bổ các nguồn lực hiếm trong xã hội được công bằng, đó là thông qua:
thị trường và nhà nước.
Cách phân bổ của thị trường có thể tóm gọn qua
cụm từ đầy tính gợi hình của Adam Smith: “bàn tay vô hình” (invisible
hand). Bàn tay phân bổ vô hình chính là sự tương tác, tự điều phối, cân
chỉnh của vô số những dự định, ước muốn vô cùng đa dạng, luôn biến đổi,
không thể biết hết, và không một lực lượng nào có thể kiểm soát được hết
của con người trong thị trường, gọi là quan hệ cung-cầu, trên hai
nguyên tắc có tính nền tảng là sự tự nguyện (không cưỡng ép) và cùng
hưởng lợi (hai bên cùng thấy có lợi). Bình thường, khi một giao dịch về
đất trên thị trường được thực hiện cũng đồng nghĩa với việc cả bên bán
(giao) và bên mua (nhận) đều hài lòng vì đều đã thu được lợi ích (hoặc
ít ra là họ tự nghĩ rằng đã thu được lợi ích) qua giao dịch trên cơ sở
quyết định cuối cùng là của chính họ. Nhưng bản chất của con người là
bất định và bất toàn nên sự phân bổ của thị trường sẽ có những khiếm
khuyết như lừa đảo, cưỡng ép, nhầm lẫn, bất lực v.v.
Chính những khiếm khuyết đó của thị trường mới
làm cho cách phân bổ thông qua nhà nước trở nên cần thiết và quan trọng.
Nhưng vai trò quan trọng đó của nhà nước không có nghĩa, như đã từng bị
hiểu lầm, rằng nhà nước phải thay thế hoàn toàn thị trường hay phải can
thiệp vào tất cả các phân bổ (giao dịch) của thị trường. Bởi nhà nước
cũng là những con người cụ thể, nếu lại được hoàn toàn quyết định cho
các giao dịch thì cũng sẽ lại phạm vào những khiếm khuyết của thị
trường. Nói cách khác sự phân bổ của nhà nước đối với các nguồn lực hiếm
trong xã hội để đảm bảo tính công bằng thì phải và chỉ là để trám sửa
(bổ khuyết và sửa chữa) các khiếm khuyết của thị trường: giữ cho mọi
giao dịch được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, minh bạch. Nhà nước phải
sẵn sàng đứng giữa, chứ không phải đứng trên, các bên có xung đột trong
một phân bổ (giao dịch) của thị trường, để lắng nghe các bên, tìm hiểu
và cuối cùng là phán xét không thiên vị. Nghĩa là để có thể có được vai
trò “trám sửa” đó, nhà nước (dù hiểu theo nghĩa nào) phải ít nhất là một
nhà nước không bị khống chế bởi (hoặc không phải của) một cá nhân, một
đảng phái hay một nhóm người nào trong xã hội – thị trường.
Việt Nam hiện nay, ngoài yếu tố đất chật người
đông, vẫn thuộc những nước đang phát triển, nghĩa là các tiềm năng, nhu
cầu và sự gia tăng về kinh doanh còn rất lớn do đó điều chắc chắn là các
giao dịch, phân bổ về “đất” (một trong bốn thành tố cơ bản của nguồn
lực cần cho kinh doanh: đất, vốn (tiền), nhân công và tinh thần kinh
doanh) sẽ còn gia tăng rất mạnh. Và đương nhiên các giao dịch, phân bổ
bất thường, bất công về đất trên thị trường cũng sẽ gia tăng và cần phải
có tác động, điều chỉnh của nhà nước để lập lại công bằng. Nhưng đáng
tiếc, cả về mặt lý thuyết lẫn thực tế, nhà nước ở Việt Nam hiện nay chỉ
là một cơ quan cấp dưới của một đảng chính trị hiện tồn hợp pháp duy
nhất – Đảng Cộng sản Việt Nam – một nhóm người chỉ chiếm khoảng 03% dân
số hoặc chiếm ít hơn nữa nếu chỉ tính 14 người trong Bộ Chính trị. Một
hệ thống quyền lực nhà nước từ trung ương tới địa phương và ở mọi ngành
quyền lực, từ lập pháp, hành pháp hay tư pháp cho tới cả hệ thống báo
chí (“quyền lực thứ tư”) đều chỉ do một tổ chức (đảng) lãnh đạo, bổ
nhiệm hay đề cử thì đương nhiên hệ thống nhà nước đó sẽ không thể có vị
thế độc lập hay trung gian (dù chỉ là tương đối) trên thị trường-xã hội
được. Chưa kể các thành viên, những con người luôn có những ham muốn tự
nhiên về kinh tế, của hệ thống nhà nước đó lại rất có thể chính là một
chủ thể trong các giao dịch, phân bổ đất trên thị trường. Do đó, một
điều tất yếu là chừng nào Nhà nước Việt Nam hiện nay còn là của một nhóm
người (không do toàn dân lựa chọn và bầu ra) và kinh tế còn phát triển
thì những giao dịch, phân bổ bất công về đất (và nhiều nguồn lực quí
hiếm khác như rừng, biển, đảo, kể cả chủ quyền quốc gia v.v.) sẽ còn
tiếp diễn, gia tăng và không thể có cơ chế hữu hiệu để lập lại công
bằng. Và xấu hơn nữa là nhà nước hiện nay đương nhiên sẽ nghiêng về
phía, hoặc đồng thời là, những chủ thể có sức thao túng về kinh tế hay
chính trị (suy cho cùng cũng là kinh tế) trên thị trường, không kể là
nội tộc hay ngoại bang.
Trở lại ba vụ cưỡng đoạt đất có đổ máu ở trên,
diễn tiến trong cả ba vụ đó đều cho thấy rất rõ ràng Nhà nước Việt Nam
đã không chỉ không giữ vai trò độc lập (đứng giữa) cho các bên trong
tranh cãi về đất mà còn dùng vũ lực để buộc một bên (những người nông
dân) phải từ bỏ quyền sử dụng đất hợp pháp cho phía bên kia (các thành
phần kinh doanh đang cần đất). Thực tế này một lần nữa chứng minh rằng
một đảng, bất kể với tên gọi và danh nghĩa gì, khi đã trở thành một tổ
chức siêu quyền lực nằm trên hệ thống nhà nước thì việc sử dụng cái
quyền lực nhà nước đó vào việc gì ( kể cả để huy động toàn dân chống đế
quốc hay cấm toàn dân chống ngoại xâm; để cấm hoàn toàn tư nhân kinh
doanh hay tha hồ thao túng, câu kết với giới kinh doanh, v.v.) là hoàn
toàn tùy thuộc vào việc đảng đó thấy lợi hay hại cho quyền lực của nó mà
thôi. Việc cướp đất cho người này để cấp cho người kia trong những ngày
qua chỉ là một trong vô vàn những ý định tự quyết của cái đảng độc
quyền đó. Ngay cả lương tâm, nhân phẩm, quyền con người và lòng yêu nước
cũng còn bị trấn áp, khinh rẻ, bác bỏ thì còn thứ gì cái đảng đó không
dám chiếm đoạt? Cái bi kịch dở khóc dở cười của hai phóng viên chính thống trong
vụ Văn Giang vừa qua cũng chỉ là hệ quả nhỏ của cái logic tất yếu trong
cướp đoạt. Không bao giờ có kẻ cướp nào lại để cho người khác chứng
kiến, ghi lại cảnh cướp đoạt của chúng.
Đương nhiên trong kỷ nguyên thông tin Internet
hiện nay, ngoại trừ những kẻ được lợi lộc từ kẻ cướp hoặc có đầu óc
không bình thường, không ai lại lên tiếng ủng hộ sự “cướp đoạt”.
Tuy nhiên, sự phản đối cướp đoạt dù căm phẫn,
thống thiết đến mấy, cũng khó có thể hơn được mũi tiêm giảm đau cho con
bệnh đang đau ruột thừa, nếu cứ mãi tránh né cái nguyên nhân gốc rễ của
sự cướp đoạt. Những an ủi, động viên nạn nhân bị cướp đất của ngày hôm
nay nếu lại góp thêm phần củng cố cho niềm tin yêu, sự kính trọng vào
một đảng, một lãnh tụ đã từng gây ra bao cái chết oan khiên cho nông dân
và đã nhón trọn những quyền, những tự do ít ỏi trong tay người dân sang
hết tay đảng, thì cũng chẳng khác nhiều việc nói với cả dân làng đang
nháo nhác tìm công lý rằng cứ yên tâm vì mọi chuyện đã có mẹ con Lý
Thông lo rồi.
Đương nhiên sẽ là hoang tưởng nếu cho rằng
phương thuốc cho những căn bệnh của đất nước có thể dễ dàng tìm thấy
ngay trong một lần hay có thể đến chỉ từ một lối nghĩ, một cách làm.
Nhưng nếu cứ nhất định không chịu tìm, không chịu thừa nhận nguyên nhân
gốc của căn bệnh thì ước mong chữa trị bệnh cũng chỉ là một hoang tưởng
hoặc một sự lừa dối mà thôi.
Việc tìm ra nguyên nhân sâu xa của bệnh tật, bất
kể của con người hay xã hội, luôn phải là việc, là trách nhiệm hàng đầu
của giới có học. Vậy khi giới “tinh hoa” của một xã hội đầy bệnh tật
lại lảng tránh, lại không chịu nói thẳng ra cái nguyên nhân sâu xa của
tình trạng bệnh hoạn của xã hội thì tầng lớp ít học, những nạn nhân chân
lấm tay bùn của xã hội còn biết trông cậy vào ai? Nhưng chính đó lại là
một bi kịch, một oái ăm của mọi xã hội bệnh hoạn kiểu toàn trị: sự bệnh
hoạn xã hội không chỉ “trùm” lên giới có học mà còn “ăn” cả giới “tinh
hoa”. Họ vừa là nạn nhân lại vừa là thủ phạm của xã hội bệnh hoạn. Nhưng
đó chưa hẳn đã là bi kịch chua chát nhất. Có bi kịch nào chua chát hơn
người phải sống mòn trong chiếc lồng kiên cố lại vẫn nhìn kẻ đã tạo ra
chiếc lồng với đôi mắt trìu mến và biết ơn vô hạn?
Nếu thật lắng tâm chúng ta có thể nghe thấy
trong không gian thăm thẳm vẫn vẳng lên đâu đó những tiếng kêu, tiếng
than da diết, não nề. Nhưng khó có thể biết được đó là những tiếng ai
oán của ai, của người nông dân mới bị cướp đất hôm qua ở Tiên Lãng, Văn
Giang, Vụ Bản hay của những nhà nông chịu khó, giỏi giang của dân tộc đã
bị cướp đất, bị nhục mạ, bị cướp cả mạng sống cách đây hơn nửa thế kỷ,
hay của ai khác nữa? Nhưng cái rất đau xót lại là nhiều người trong số
họ đến chết vẫn tin, vẫn ngưỡng mộ, tôn kính cái tổ chức, cái con người
đã dựng ra cái nhà nước chỉ biết phục vụ cho một đảng, “chỉ biết còn
Đảng còn mình” – nguyên nhân gốc của những thống khổ, những băng hoại
hết sức nan giải từ hơn 60 năm qua. Người nông dân, kẻ ít học, có mấy ai
không nghe, không tin vào lời của những người, những tên tuổi có những
bằng cấp, những danh vị, học vị luôn gợi ra sự uyên thâm, lỗi lạc như
giáo sư, tiến sĩ, nhà nghiên cứu, nhà sử học…Thế mà rút cục những lời đó
(nếu) lại không phải là sự thật hoặc chỉ là một nửa sự thật, thì còn
đau xót nào lớn hơn?
© 2012 pro&contra
[i] Mật độ dân số của Việt Nam được xếp hạng 46/239 (Theo Contries of the World) hoặc 52/242 (Theo Wikipedia)
0 comments:
Post a Comment