Cuộc chiến tranh vừa qua, nhiều người lầm tưởng đã kết thúc vào ngày 30.4.1975 và bị đánh giá là cuộc nội chiến Nam Bắc, mà Cầu Hiền Lương vắt qua giòng sông Bến Hải, trên Vĩ Tuyến 17 là biểu tượng cho một giai đoạn xót xa của lịch sử. Thật ra, cuộc chiến tranh đó vẫn được tiếp diễn, nhưng theo thế trận khác và ý nghĩa cũng được nhận định lại đúng đắn hơn!
Sau 30.4.1975: Cộng Sản phơi bày chân tướng là một lũ phỉ quyền tham ác lưu manh; nên Người Quốc Gia giành đoạt được chính nghĩa và tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc hầu có điều kiện đưa đất nước đến phồn thịnh, nhân dân được tự do. Trận quyết đấu nầy, người Quốc Gia đang thắng thế, từng bước chứng minh Cộng Sản Việt Nam là tội phạm nhân loại, là tội đồ Dân Tộc. Nhưng bỗng nhiên hàng ngũ chúng ta có hiện tượng giao động, địch biết tránh né, thoát hiểm. Thì ra, chúng ta đang bị một loại “nội thù” rất nguy hiểm mà mọi người thường gọi bằng tên nghe khá hiền lành “Việt kiều”!.

Tất cả những người Việt Nam, nếu không là bọn có quyền thế sống hoan lạc trên nỗi thống hận Dân Tộc, và nếu có điều kiện đều phải đành lòng chấp nhận gian nan, nghiệt ngã, nguy hiểm, đau nhục để đào thoát ra đi. Sóng nước đại dương, rừng sâu, hải tặc, thổ phỉ…... không cản ngăn được ý chí. Họ đào thoát khỏi Cộng Sản dưới nhiều hình thức như vượt biên, vượt biển, con lai, bảo lãnh đoàn tụ, cựu tù nhân (H.O), cựu nhân viên Chính phủ Hoa Kỳ (U.11), thuyền nhân hồi hương (ROVR); đào tị khi xuất ngoại như công tác, biểu diễn nghệ thuật, thi đấu, công nhân trong chương trình"xuất khẩu lao động"; ngay cả những du học sinh hay du lịch… v.v...phần đông trong thâm tâm họ cũng mơ ước cho toàn dân Việt Nam thoát khỏi ách nạn Cộng Sản.

Ðối với Việt cộng, những người hội đủ điều kiện được tái định cư ở nước ngoài khi trở về Việt Nam đều bị xếp vào loại người có danh xưng là “Việt Kiều”.

Nếu lấy 30.4.1975 làm thời điểm, thì trước đó đã có nhiều đợt người Việt Nam đến sinh sống tại nhiều nước khác với nhiều lý do:

A. Tị nạn do bị bức hại:

I/ Thời nhà Lý có hai đợt ra đi của hai Thân Vương nhà Lý và cùng trôi giạt vào nước Cao Ly (hay còn gọi là Triều Tiên hoặc Ðại Hàn):

1/ Ðại Ðô Ðốc Kiến Hải Vương Lý Dương Côn cùng chiến thuyền binh sĩ thuộc quyền, gia nhân và gia thuộc ra đi vì sợ bị phía bà Chiêu Hiếu Thái Hậu và Cảm Thánh Hoàng Hậu giết chết trong âm mưu tranh đoạt ngai vàng cho Hoàng tử Thiên Tộ (tức vua Lý Thần Tôn).

2/ Các Ðô Ðốc Kiến Bình Vương Lý Long Tường, Bình Hải Công Lý Quang Bật cùng hạm đội dưới quyền và khoảng 6.000 người vì tránh họa diệt tộc của Thái Sư Trần Thủ Ðộ trong mưu đồ tiếm đoạt Vương quyền nhà Lý cho nhà Trần.

II/ Thời nhà Nguyễn cũng có nhiều đợt với nhiều lý do, đa số cư ngụ tại Bangkok Thái Lan:

1/ Nhóm cùng bôn tẩu theo Nguyễn Ánh (tức vua Gia Long), vào cuối thế kỷ thứ 18.
2/ Nhóm theo Thiên Chúa giáo lánh nạn sát đạo dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị (1820 –1847).
3/ Nhóm thuộc hạ của Cụ Phan Ðình Phùng trốn giặc Pháp vào khoảng 1895.
4/ Nhóm theo Cụ Phan Bội Châu (1908 – 1909).

B. Vì những lý do khác:

Bị Thực Dân Pháp lưu đày, ép buộc trong chương trình mộ dân, gia nhập Quân Đội Liên Hiệp Pháp, du học và không trở về hoặc xuất bôn chiến đấu giành chủ quyền cho Tổ Quốc. Phần đông lưu trú tại Pháp hay các quốc gia thuộc Pháp, hoặc Trung Hoa, Cao Mên, Ai Lao. Ngoài ra còn có một số ít định cư tại những quốc gia khác vì nhiều lý do.

Trước khi đất nước rơi vào tay Cộng Sản, những người có nguồn gốc Việt Nam, đang sinh sống ở nước ngoài được gọi là Kiều bào để phân biệt những sắc dân khác trú ngụ trên lãnh thổ Việt Nam như Ấn kiều, Hoa kiều, Pháp kiều. Nên khi Cộng Sản gọi những người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài là Việt Kiều đã hàm chứa ý nghĩa những người nầy không còn là người Việt Nam. Số phận Việt Kiều chơi vơi giữa người Ngoại Quốc và người Việt Nam tùy theo từng trường hợp, nhưng bao giờ Việt Kiều cũng bất lợi kể cả trường hợp so sánh giữa Việt Kiều và những người thuộc các sắc dân khác cùng vào lãnh thổ Việt Nam trong cùng thời gian và cùng có lý do phạm pháp giống nhau.

C. So sánh giữa Việt kiều và ngoại kiều:

1/ Giống nhau: Tất cả mọi ràng buộc về pháp lý, hành chánh, thuế khóa, kiểm soát; những quy định gắt gao về giá trị kim ngạch hối xuất. Tóm lại không có sự khác biệt về phương diện kiểm soát quản lý và những gì thuộc về kinh tế, tài chánh.

2/ Khác nhau: Nếu vì bất cứ lý do gì có liên quan đến pháp lý thì ngoại kiều được chi phối bởi luật pháp và thói quen mà quốc tế đã chuẩn nhận. Nhưng trong trường hợp nầy thì Việt Kiều bị xem là "Công dân Việt Nam”. Nghĩa là chúng thông báo, hoặc xử phạt tùy theo ý chúng.

Chưa quốc gia nào có chính sách kỳ thị và ti tiện với Kiều bào của mình như ngụy quyền Cộng Sản Việt Nam. Dưới mắt chúng, Việt Kiều là thành phần nguy hại cho sự tồn tại chế độ chúng, mặc dầu Việt Kiều cũng là con bò sữa giúp chúng hồi sức, đồng thời Việt Kiều cũng là những kẻ vong thân, nên Việt Kiều bị Việt Cộng xem như là những kẻ nô lệ dùng để kháng cự và tấn công các tổ chức yêu nước chân chính. Tóm lại, Cộng Sản Việt Nam xem khinh, sử dụng sai khiến Việt Kiều nhưng lúc nào cũng rắp tâm hãm hại Việt Kiều .

Khi nền kinh tế kiệt quệ, Cộng Sản thử nghiệm chính sách chiêu dụ Việt Kiều bằng nhiều hình thức như: Gởi tiền, gởi quà, trở về thăm thân nhân, du lịch, hợp tác, đầu tư làm ăn tại Việt Nam.

Có khá nhiều trường hợp những Người Quốc Gia chân chính rất khổ tâm khi phải gởi tiền hay phải về Việt Nam vì tình cảm, vì trách nhiệm đối với thân nhân, đồng bào, đang lâm cảnh thiên tai, lao đao cơ cực, hay đồng đội bị lăng nhục: xin được chia xẻ những hoàn cảnh cần có sự cảm thông ấy. Ðồng thời cũng xin chân thành nghiêng mình cảm tạ, ngưỡng mộ những anh hùng trở lại quê hương đối diện trực chiến với quân thù với quyết tâm lật đổ bạo quyền Cộng Sản Việt Nam.
Ðối tượng câu chuyện hôm nay là những Việt Kiều trở về trên tư thế của kẻ “hãnh tiến”, loại "áo gấm về làng", những kẻ đi tìm hoan lạc trên nỗi đau thương bất hạnh của đồng bào, đồng đội, những kẻ ích kỷ manh tâm đồng lõa với Cộng Sản bất chấp lương tâm, làm chậm hoãn ngày bạo quyền sập đổ. Hãy nhìn lại Việt Kiều đã lưu lại dấu vết gì với đồng bào, đồng đội trong nước:

D. Việt kiều đã làm đồng bào, đồng đội trong nước thêm tủi nhục, cơ cầu:

Một Mỹ kim có giá trị tương đương khoảng trên 20.000 đồng Việt Cộng nên Việt Kiều tiêu xài hoang phí làm ảnh hưởng vật giá gia tăng trong khi tiền lương không gia tăng. Tầm cách biệt giữa người có hay không có thân nhân hoặc thành phần sống bám theo ảnh hưởng Việt Kiều dài ra và cao thêm. Ðồng tiền ấy cũng xô đẩy những hạng người nầy với Việt Cộng gần nhau hơn và từ dó, hình thành ra giai cấp mới gọi là liên minh thống trị. Ðồng tiền Việt Kiều cũng là nguyên nhân chủ yếu của các tệ nạn hối lộ tham nhũng, mãi dâm, trộm cướp, cờ bạc dẫn đến bất công áp bức, và dĩ nhiên nạn nhân vẫn là lương dân nghèo khó.

E. Việt kiều giúp cho Việt Cộng chạy tội vi phạm nhân quyền:

Dù vô tình, thiển cận hay có toan tính, Việt Kiều tung những thông tin, những hình ảnh phiến diện, biện hộ cho Cộng Sản; làm lu mờ chính nghĩa, làm hàng ngũ chống Cộng bị ngộ nhận, bị trở ngại. Dưới nhiều hình thức như hợp tác, đầu tư, cố vấn, giao lưu “văn hóa, nghệ thuật”, và dù khoác chiếc áo “tình thương, cứu trợ”. Việt Kiều vẫn là lực lượng tiếp sức hữu hiệu cho bọn Việt Cộng. Bởi vì chính bọn Việt Cộng mới là kẻ được thụ hưởng còn những người cùng khổ là đại đa số người dân Việt Nam nghèo đói, khốn cùng chỉ được làm “vật nhân danh”, thậm chí còn tủi nghèo cơ cực hơn, và bọn Việt Cộng càng phè phỡn tàn ác hơn. Thế nhưng chưa bao giờ Việt Kiều dám nhìn nhận sự ấu trĩ, hèn nhát, phản bội, và bất nhân của họ.

Tùy thuộc vào những gì Việt Kiều có và những gì Việt Cộng cần mà bọn chúng đổi thay sách lược. Sách lược hay chính sách là chiến thuật. Chiến lược là: trấn lột là trả thù không bao giờ thay đổi! Hãy đi ngược thời gian để thêm lần nữa nhận diện Việt Cộng đổi thay về cái gọi là chính sách đối với Việt Kiều.

F. Việt Kiều là Phản Quốc:

Cộng Sản xem những người vượt biên, vượt biển trốn chạy chúng là phản quốc, phản động, phản bội, là cặn bã, là bọn quen ăn bám, là vong bản, dĩ điếm, lười biếng v.v. không một hình dung từ xấu xa nhơ bẩn nào mà VC không dùng để ám chỉ, mô tả những người nầy, và dĩ nhiên Việt Cộng cũng có chính sách trả thù. Nếu không thoát được thì họ có thể bị bắn chết, bị hãm hiếp (nếu là nữ giới), bị lao tù đầy ải, tài sản bị tịch thu. Bị gây muôn trùng khó khăn trong đời sống như thân nhân bị giam giữ, bị điều tra, vợ con, cha mẹ, anh chị em bị kềm chế quản lý, bị kỳ thị. Và cuối cùng chỉ có tiền và vàng mới may ra những áp lực những khe khắc được nới lỏng, nhưng cái tội Phản Quốc vẫn còn đó, chờ cơ hội lên án và trừng phạt.

G. Việt Kiều là khúc ruột nối dài:

Khi nền kinh tế trì trệ, tài sản quốc gia bị Việt Cộng đục khoét tham nhũng; lầm than, thống hận vượt tràn qua sức chịu đựng toàn dân, hội đủ những điều kiện làm cuộc bạo loạn. Việt Cộng liền nhớ ra và cải danh bọn “Phản Quốc” kia thành Việt Kiều; rồi hóa thân cho Việt Kiều thành “Khúc ruột nối dài”. Sau thời gian dè dặt thử nghiệm, Việt Cộng thấy rằng còn có thể khai thác tận dụng phần bên trong của cái khúc ruột nối dài nầy. Và từ đó, thượng tầng đảng Mafia đỏ hình thành bộ phận Kiều Vụ Nhiệm vụ chủ yếu của Kiều Vụ là nghiên cứu tìm ra phương cách gom góp ngoại tệ, khả năng, trí tuệ của Việt Kiều hầu giữ vững chiếc ghế quyền lực, để túi tham được phồng thêm. Bộ phận Kiều Vụ không những chiêu dụ Việt Kiều về thăm, làm cái gọi là từ thiện mà còn về mua bán đầu tư, thực hiện chương trình giao lưu làm nền tảng cho bọn tư bản đỏ đi ra, bọn phản bội đi vào. Chúng kết nạp bọn vong thân, bọn bất lương rồi tổ chức những bọn nầy thành lực lượng khuấy phá, tạo hỏa mù làm mờ đi chính nghĩa, làm nản lòng Người tâm huyết.

Nhưng hạnh phúc không bao giờ đến với kẻ phản bội! Không phải đó là lời răn đe mà còn là kinh nghiệm, không những ở tình trường mà còn ở nhân cách. Thật vậy, người Việt Nam định cư nước ngoài tuy vì nhiều lý do nhưng lại cùng một nguyên nhân là kinh tởm Cộng Sản, họ cũng là chứng nhân xác nhận bọn ngụy quyền Cộng Sản Việt Nam là quân vô lại, bất nhân, bạc ác không đáng để được gọi là NGƯỜI nữa. Hầu hết, trước khi ra đi Việt Kiều đều ít nhiều ấp ủ:

Một ước mơ: Cộng Sản phải đổ

Một hoài bão: Nhân dân Việt Nam được sống đúng với giá trị con NGƯỜI.

Thoát được xiềng ách Cộng Sản, họ sẽ thay mặt đồng bào, đồng đội còn lầm than cơ cực, còn bị kềm kẹp để tố cáo tội ác Cộng Sản Việt Nam trước lương tâm nhân loại. Ước mơ và ý chí của họ thật đáng yêu và đáng kính. Họ đã làm rúng động lương tâm loài người, và Nhân loại cũng đã nghiêng mình cảm phục những Người Tị Nạn Cộng Sản Việt Nam họ đã từng được:”thế giới ngưỡng mộ như những anh hùng”.

Nhưng rồi vì một số trong những người Tị Nạn Cộng Sản Việt Nam năm xưa ấy đã nhẫn tâm trở giáo chém anh em cùng chung chí hướng, họ phản bội ngay cả ước mơ ban đầu của chính họ. Và chắc chắn rằng họ sẽ nhận lại hậu quả từ chính những người từng là đồng cảnh, cũng từng là đồng tâm, đồng bào, đồng đội và cũng chính ngay từ kẻ họ đang qùy gối cúi đấu. Sự phản bội đã có hậu quả xảy ra. Tương quan giữa hậu quả và nguyên nhân là tỷ lệ thuận.

H. Loại Việt Kiều áo gấm về làng:

Mang tâm địa của kẻ hãnh tiến nên chúng lấy sự đau xót, thương hận số phận bẽ bàng kém may mắn, hay sự mơ ước của những người vất vả nghèo khổ để tự mãn, để huênh hoang, kiêu căng và thích thú. Chúng bất chấp đạo lý tối thiểu để thỏa mãn hoan lạc dục vọng, thú tính ngay cả với những trẻ vị thành niên (lắm khi là con em của thân nhân, bè bạn, đồng đội năm xưa). Thế nhưng chúng cũng rất hèn hạ với bọn cán bộ Cộng Sản để an toàn. Chính bọn Việt Kiều nầy, phần đông đã cung cấp tin tức, vu khống người Việt hải ngoại cho Việt Cộng, biện hộ và đồng lõa sự tham bạo của Việt Cộng với nhân dân trong nước. Khi trở lại nơi định cư, chúng rỉ tai tuyên truyền, nghe ngóng để báo cáo. Bọn Việt Kiều vô lại nầy tình nguyện làm nô bộc không công, làm con chó giữ nhà và đánh cắp tài sản của người khác, có khi Việt Kiều cống nạp hoặc hỏang sợ trước quyền lực mà cúi đầu phủ phục trước mũi giày Cộng Sản hoặc a tòng với cộng sản trong những mưu đồ bất chính. Thời gian qua, một số trong bọn nầy đã bị Việt Cộng cướp đoạt tài sản qua dàn dựng hoạt cảnh tai nạn lưu thông, du đảng xã hội đen; có tên bị thanh toán bởi ghen tương.

I. Việt Kiều nhân danh tình thương:

`Tình thương và lòng nhân ái, Quê hương và Tổ quốc luôn trên đầu môi chót lưỡi bọn Việt Cộng, Việt Kiều. Kẻ lưu manh tàn bạo thường che giấu chân tướng bằng mỹ ngữ. Nên nạn nhân thiên tai, người nghèo khổ tật nguyền, những đồng đội ngày xưa oanh liệt nay gãy cánh bất hạnh lại bị bọn Việt cộng liên minh với Việt Kiều bất lương kinh doanh. Lấy tình thương làm bình phong. Nếu bị vạch mặt, chúng sẽ lẩn trốn với tấm thẻ bài khẩu hiệu không cấm vận tình thương (nói theo ngôn ngữ của Nhật Tiến). Có người còn tính đến cả chuyện xây nhà, xây trường học, đào giếng, trả tiền lương cho cô thầy giáo, mở trường dạy nghề, xóa đói giảm nghèo v..v...(như của Nguyễn xuân Bảo hay của Vũ thành An nghe đến đây Cộng Sản vừa ngạc nhiên vừa mừng!)

Ðây là trách nhiệm của ngụy quyền Cộng Sản, toàn dân Việt Nam trong và ngoài nước có nghĩa vụ bắt buộc chúng phải trả lại quyền sống, quyền làm Người cho Dân Việt. Tại sao kinh tế quốc doanh bao giờ cũng ghi nhận thua và ngân sách quốc gia phải bù lỗ nhưng chúng không cho giải tư? Bởi vì, toàn bộ các công ty quốc doanh phải đài thọ cho cá nhân và toàn gia đình của non 500 ủy viên trung ương đảng vừa hưởng bổng lộc suốt đời, vừa có tiền gởi ở ngoại quốc để thủ thân khi có biến động, vừa phải chi cấp cho khoảng 2.000 du học sinh là con cháu bọn cán bộ. Theo sự tiết lộ của "Tổng công ty Xuất Khẩu hải sản Miền Nam Seaprodex" (đơn vị trực tiếp chi trả mọi chi phí cho Mai chí Thọ, và tên đại tá quản gia của y, cho Vũ Đình Liệu và một số quan chức đỏ khác) thì cứ 4 tháng 1 du học sinh (loại được du học do lý lịch) phải đóng cho trường học (College hay University) khoảng 1.500 USD học phí, tiền chi tiêu (ăn ở, xe cộ, bảo hiểm...) 1.500 USD nữa. Như thế, cứ mỗi 4 tháng, chỉ riêng cho con cháu bọn cán bộ đang du học thì toàn dân Việt Nam phải móc ra khoảng 6 triệu USD. Có biết nỗi niềm nầy không hỡi phường bất lương?

J. Việt Kiều văn hóa, văn nghệ:

Loại Việt Kiều nầy trở về khúm núm bợ đỡ xin áo cơm (như Hương Lan, Hoài Linh, Lệ Thu, Chí Tài, Chế Linh, Phượng Mai, Ý Lan…).Nhưng áo cơm không đủ cho nô bộc, có đâu cho lũ phản trắc. Bọn nầy bị lừa, chưa về thì háo hức, lúc về bị khó khăn và trở ra bị chê bai là hương sắc tàn phai, là rẻ tiền, là phản giáo dục, là phi nghệ thuật (xem Thời Luận số ra ngày 12 và 19/8/2000) và đương nhiên loại Việt Kiều nầy không tránh khỏi bị Người Việt Tị nạn vốn là những khách hàng đang nuôi sống họ trách cứ hoặc tẩy chay.

Chưa về, cứ tưởng mình ngon
Về rồi cúi mặt như con chó hèn


Hay

Ngậm đầy một miệng bẩn nhơ
Nhổ ra e thẹn, nuốt vào thối tha
Việt kiều về nước hát ca,
Thân con chó ghẻ lê la gầm bàn.

Ước mong các ca sĩ, các trung tâm băng nhạc không dẫm lên nỗi đau của đồng bào dù nhìn với chiều hướng nào.

K. Việt Kiều về hơp tác kinh doanh:

Bọn nầy là những tên thương lái vô lương tâm, chúng biết đồng bào, đồng đội nghèo khó, cần tiền, phải nhẫn nại, chịu đựng, nên chúng móc ngoặc với bọn cường quyền chèn ép bóc lột hà hiếp đồng bào. Những vụ làm sỉ nhục công nhân Việt Nam như bắt quỳ, đánh giày lên đầu, phạt trừ lương…, những chủ Việt Kiều nầy có thái độ gì không? Thưa không, rất rõ ràng là không!

Dưới mắt bọn Việt Cộng thì Việt Kiều phải là vật hy sinh: Để bảo vệ manh mối làm ăn, để tỏ thái độ quyết liệt với nhau khi nội vụ bị phanh phui, để giữ bí mật lưu manh thương trường, lập tức Mafia Việt Cộng xử tử Việt Kiều để bịt đầu mối như vụ bà Nguyễn Thị Hiệp ở Canada, hay vụ tống vào tù để trấn lột như Việt kiều Trịnh vĩnh Bình ở Hòa Lan với số vốn bị tước đoạt lên tới 20 hoặc 30 triệu Mỹ kim; và Việt Kiều Lưu hùng Sơn tức Sonny Lưu 55 tuổi trú tại vùng Little Sài Gòn Nam California, Hoa kỳ đang bị “rắc rối” vì mang số tiền 25 triệu đô la về làm ăn và đang quỵ lụy khẩn cầu được bỏ của cứu lấy thân!
Thực tế người dân trong nước quá bi thương khốn cùng. Đồng bào căm hận Việt kiều đã đóng vai Việt gian, đồng lõa với Việt cộng, gieo bao đau thương tan tác thãm nạn, nên trong nước có câu ca dao mới như sau:

Việt Gian, Việt Cộng, Việt Kiều,
Ba thằng Việt ấy, tiêu điều Việt Nam
.

Hay:

Việt gian, Việt cộng, Việt kiều,
Ba thằng Việt ấy, đem bêu thằng nào?
Việt kiều, Việt cộng, Việt gian
Ba thằng giặc ấy, thằng nào cũng bêu


Ðể chấm dứt câu chuyện trao đổi hôm nay, tôi xin lược trình bài phóng sự của ký giả Xuân Mai báo áp phê số 4 tại Paris:

Ông Nguyễn Minh Tuyền, 59 tuổi, định cư tại Pháp năm 1980 với lá đơn có lời lẽ chân thành thống thiết như sau: "Nếu tôi ở lại, nhà cầm quyền CSVN sẽ bắt giam, đánh đập và bỏ tù tôi không có ngày ra. Vì lý do nhân đạo, tôi trân trọng thỉnh cầu nước Pháp vui lòng chấp thuận cho tôi được tị nạn chính trị, sống tạm dung trên mảnh đất tự do nầy, và tôi chỉ trở về xứ cũ, khi nào Quê hương tôi không còn duy trì chế độ Cộng Sản”.

Nhưng ông Tuyền đã phản bội tư cách tị nạn của ông liên tục từ năm 1995 đến Tết Canh Thìn 2.000 tới 7 lần (Chôn bà nội 3 lần, 2 lần chôn bố và 2 lần chôn mẹ mà không hề xin phép OFPRA (Office Francais de Protection des Réfugiés et Aptrides – Cơ quan bảo vệ những người tị nạn và vô Tổ quốc tại Pháp) hoặc giấy Sauf Conduit (hộ chiếu đặc biệt) của Cảnh sát địa phương).
Ngày 26.7.2000 ông Tuyền và 544 người Việt khác được OFPRA gởi thư thông báo rút lại thẻ tị nạn với lý do: "Ông tự ý trở về xứ cũ, khi chế độ độc tài Cộng Sản chưa chấm dứt, nhưng không hỏi ý kiến hoặc thông báo cho cơ quan chúng tôi biết, để bảo vệ sinh mạng cho ông, tức là ông đã từ bỏ quyền tị nạn chính trị, không cần đến sự che chở của chúng tôi nữa. Chiếu theo đìều I khoản A 2 của Hiệp định Genève ngày 28.7.1951, chúng tôi thu hồi lại thẻ tị nạn. Ðồng thời cũng trình lên Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, kể từ hôm nay, OFPRA không còn chịu trách nhiệm với ông, về tình trạng cư trú, xin việc làm, hưởng trợ cấp xã hội, theo diện tị nạn chính trị”.

Ðược biết từ năm 1988 đến tháng 7 năm 2000, tổng số người Việt lâm vào tình trạng tương tự là 22.417 người. Theo lời ông M.Motu thì người tị nạn có quyền trở về xứ cũ trong trường hợp đặc biệt như con cái, cha mẹ, anh chị em ruột bị bịnh nặng, đang hấp hối, chết; trong các trường hợp đó người tị nạn có thể đến Préfecture sở tại xin cấp Sauf Conduit. Sẽ phạm luật nếu đến tòa Ðại sứ Việt Cộng xin visa trước khi có thông hành đặc biệt. Tên trưởng phòng cấp chiếu khán Việt Cộng rất đểu cán khi giải thích vấn đề nầy: "nhà nước Việt Nam rất có thiện chí trong vấn đề hàng tháng cung cấp danh sách ghi nhận tất cả người Việt Nam mang Titre de Voyage (thẻ thông hành) lên sứ quán xin nhập cảnh cho Préfecture biết để Préfecture thông báo lại cho OFPRA. Chúng tôi hợp tác việc ấy với chính phủ Pháp là nhằm mục đích chứng minh cho dư luận quốc tế thấy rằng, bọn Việt kiều nầy lếu láo, chạy qua đây vì lý do kinh tế, kiếm việc làm, chớ không phải vì nhà nước chúng tôi đàn áp, bắt bớ, tra tấn, giam cầm, chà đạp nhân quyền như bọn họ đã từng vu khống”. Và một giới chức cao cấp trong bộ Ngoại giao Pháp mạnh mẽ phản đối:

Chính phủ Pháp không bao giờ hại người vô tội như thế. Nhà cầm quyền Việt Cộng từ lâu, qua các trào Võ văn Sung, Mai Văn Bộ, Trịnh ngọc Thái, Nguyễn chiến Thắng và Nguyễn mạnh Dũng đã xem người Việt Nam là thành phần cực kỳ phản động, cần phải triệt hạ, khéo léo áp dụng chính sách gậy ông đập lưng ông” .

Dễ dãi trong việc cấp chiếu khán cho người Việt tị nạn về thăm nhà, dù thừa biết rằng, họ không có quyền. Ðây là cách thức giúp người tị nạn phạm pháp, để một ngày kia họ sẽ bị OFPRA rút thẻ tị nạn.

Sau khi cấp chiếu khán bừa bãi, tòa đại sứ lại ra thông cáo cho Bộ Nội Vụ Pháp biết rõ tên tuổi từng người xin cấp visa về Việt Nam.

Một khi bị rút thẻ tị nạn, họ bị mất luôn thẻ thường trú (Carte de séjour). Muốn xin việc làm phải có thẻ Lao động (Carte de travail). Nếu muốn cư ngụ trên 3 năm phải trình Passport của CSVN. Như thế người tị nạn đang được sống Tự do, bỗng trở thành công dân Việt Cộng, đặt mình dưới sự kiểm soát của CSVN cho đến mãn kiếp.

Nhà cầm quyền CSVN cũng phải hiểu rằng, tán trợ, hoặc giúp đỡ người phạm pháp, cũng phạm tội đồng lõa. Cấp visa cho người tị nạn tức là cố ý phạm luật bang giao giữa hai nước. Chúng tôi nghĩ, đã đến lúc nên đặt lại vấn đề nầy với chính phủ CSVN.

Ðồng bào trong Nước đã đầy ắp thống khổ và căm hận. Chấm dứt ngay những con người manh tâm mang "lòng Việt gian" trong chiếc áo Việt Kiều. Những hình ảnh nêu trên chắc cũng đủ thức tỉnh lương tâm một số người, nếu có và còn muốn trở thành VIỆT KIỀU.

Tống Phước Hiến

Ho Chi Minh licked the heels of Marx, Lenin and Mao.
Ho Chi Minh was merely a dog loyal to the Soviet and China.
Ho Chi Minh is a cursed devil
Hồ Chí Minh liếm gót giầy của Marx, Lenin và Mao.
Hồ Chí Minh chỉ là con chó trung thành với Nga & Hoa.
Hồ Chí Minh là con quỷ bị nguyền rủa

All men are enemies. All animals are Comrades
Loài người là thù nghịch. Tất cả súc vật là đồng chí.

Hôm qua Đảng hứa quyết lòng:
Cái kim sợi chỉ, Đảng không tơ hào.
Hôm nay ma quỉ ập vào
Cái kim để lại, bạc vàng cào đi.
Dân khờ trố mắt xầm xì:
Hôm tê giải phóng, bửa ni côn đồ
Đảng rằng: "Đảng có dối chi,
Vàng bạc qúi giá, báu gì kim may"
Luôn luôn hãy nhớ câu nầy
Cướp đêm là giặc, cướp ngày (là) cộng nô
Ngày đi: Ðảng gọi Việt gian
Ngày về: Ðảng lại chuyển sang Việt kiều
Chưa đi: phản động trăm chiều
Ði rồi: thành khúc ruột yêu ngàn trùng
Trốn đi: Ðảng bắt đến cùng
Trở về: mời gọi, săn lùng Đô la

Việt Minh, Việt Cộng, Việt kiều
Trong ba Việt ấy, Đảng yêu Việt nào
Việt Minh tuổi đã khá cao
Việt Cộng ốm yếu xanh xao gầy mòn
Việt Kiều tuổi hãy còn non
Đảng yêu, Đảng quý như con đầu lòng
Việt Minh, Việt Cộng, Việt kiều
Trong ba Việt ấy, Đảng yêu Việt nào
Việt Minh tuổi đã khá cao
Việt Cộng ốm yếu xanh xao gầy mòn
Việt Kiều tuổi hãy còn non
Đảng yêu, Đảng quý như con đầu lòng

Ngày xưa: chửi Mỹ hơn người
Ngày nay: nịnh Mỹ hơn mười lần xưa
Ngày xưa: đánh Mỹ không chừa
Ngày nay: con cái lại lùa sang đây
Ngày xưa: Mỹ xấu, Ðảng hay
Ngày nay: Ðảng ngửa hai tay xin tiền!

*nguồn: http://tvvn.org/forum/content.php?22...c-Hi%E1%BA%BFn