Khi
nói đến Ấp Chiến Lược, thì chỉ những người đã từng sống ở trong các
vòng đai của Ấp Chiến Lược vào thời kỳ đầu của nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng
Hòa; NHƯNG, phải có một lương tâm trong sáng, một tấm lòng chân thành,
thì họ mới viết lại những gì mà họ đã chứng kiến một cách trung thực.
Vậy, để lớp trẻ sau này, còn biết đến một công trình của người đi trước
đã dày công xây dựng; bởi vậy, nên người viết xin phép tác giả Nguyễn
Đức Cung để được trích đoạn trong bài:
Hàng rào xung quanh ấp chiến lược
Tem phát hành kỷ niệm lập Ấp Chiến Lược
Xây
dựng ấp chiến lược Bộ sưu tập tem Ấp Chiến Lược phát hành ngày
26/10/1962 "Từ Ấp Chiến Lược đến biến cố Tết Mậu Thân, những hệ lụy
trong chiến tranh Việt Nam" như sau: 1.2. Khu trù mật và Ấp chiến lược.
Trước khi nói đến các cơ cấu trên đây, thiết tưởng cần nhắc đến chính
sách Dinh Diền được tổ chức trước đó để thấy rằng các nhà lãnh đạo của
nền Đệ Nhất Cộng hòa đã có một cái nhìn xuyên suốt trong Chính Sách An
Dân của mình. Ngày 17.9.1954, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ký nghị định số
928-NV thành lập Phủ Tổng Ủy Di Cư Tị Nạn, ngang hàng với một bộ trong
Nội các, do ông Ngô Ngọc Đối làm Tổng Ủy Trưởng. Bên cạnh đó, vì số
người Công Giáo di cư gần khoảng 70% trên tổng số tị nạn nên có một tổ
chức cứu trợ tư nhân với tên Ủy Ban Hỗ Trợ Định Cư do Giám mục Phạm Ngọc
Chi điều khiển. Tổng số dân rời bỏ miền Bắc để vào miền Nam là 875, 478
người và họ được đưa đến Sài Gòn, Vũng Tàu hay Nha Trang, sau đó đi
định cư các nơi khác tùy ý họ lựa chọn. Nói chung đối với hầu hết các cơ
chế được tổ chức dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa và một khi đã bị giải thể,
hay bị chính quyền kế tiếp coi như là một thứ con ghẻ không hề lưu tâm
tới (trong thời Đệ nhị Cộng Hòa) tất nhiên sự kiện đó đã góp thêm rất
nhiều yếu tố thuận lợi cho biến cố Tết Mậu Thân, mà rõ ràng nhất là hệ
thống khu trù mật và ấp chiến lược được tổ chức và nâng lên thành quốc
sách dưới thời Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ngày nay ai cũng biết hệ
thống tổ chức Khu trù mật và Ấp chiến lược là sáng kiến rất đỗi lợi hại
của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu, nhờ đó mà bọn du
kích Cộng Sản đã một thời khốn đốn không hoạt động được gì hữu hiệu.
Thật ra việc gom dân lập ấp là một kinh nghiệm lịch sử quý báu của tiền
nhân trong lúc đất nước có chiến tranh. Người có sáng kiến tiên khởi về
ấp chiến lược có lẽ phải kể đến Tỉnh Man Tiểu Phủ Sứ Nguyễn Tấn
(1820-1871), tỉnh Quảng Ngãi. Năm 1863, Nguyễn Tấn đã áp dụng kế sách đó
trong việc đánh dẹp người Mọi Đá Vách, Quảng Ngãi. Một sử liệu của
Triều Nguyễn, Đại Nam Thực Lục, đã ghi lại như sau: "Mới đặt chức Tiểu
phủ sứ ở cơ Tỉnh man tỉnh Quảng Ngãi. Phàm các việc quan hệ đến sự phòng
giữ dẹp giặc, thăng cử, chọn thải, lấy lương, gọi lính sát hạch, thì
cùng bàn với chánh phó lãnh binh chuyên coi một nha mà tâu hoặc tư. Lấy
người hạt ấy là Nguyễn Tấn lãnh chức ấy. Tấn trước đây thứ án sát Thái
Nguyên, khi ấy quân thứ Thái Nguyên dần yên, nghe tin bọn ác man hung
hăng, dâng sớ xin về bàn bạc để làm, trong 1, 2 năm có thể xong. Vua
thấy giặc Man có phần cần cấp hơn, bèn y cho. Đến đây, chuẩn cho thăng
hàm thị độc sung lãnh chức ấy, cấp cho ấn quan phòng bằng ngà. Tấn dâng
bày phương lược: (nói: việc đánh giặc vỗ dân cần làm những việc khẩn cấp
trước. Về 3 huyện mạn thượng du, phàm những dân ở linh tinh, tiếp gần
với địa phận núi thì, tham chước theo lệ của Lạng Sơn đoàn kết các dân ở
cõi ven một hay hai khu, đều đào hào đắp lũy, cổng ngõ cho bền vững.
Nếu có lấn vào ruộng đất của ai thì trừ thiếu cho. Còn 1, 2 nhà nghèo, ở
riêng một nơi hẻo lánh, thì khuyên người giàu quyên cấp cho dỡ nhà dời
về trong khu; còn đất ở thì không cứ là đất công hay đất tư đều cho làm
nhà để ở. Các viên phủ huyện phụ làm việc ấy, liệu nơi nào hơi đông
người thì bắt đầu làm ngay, nơi nào điêu háo (ít dân), thì phái quân đến
phòng giữ, ngăn chận, dần dần tiếp tục làm, để thử sức dân." [9] Thành
phố đổ nát Cách đây hơn nửa thế kỷ, chế độ Cộng Hòa đã được khai sinh
cùng với các quốc sách được ban hành như Khu trù mật và Ấp chiến lược,
nhằm giải quyết cho công cuộc định cư của gần một triệu đồng bào từ bắc
di cư vào Nam, và sau đó, để đối phó với chính sách khủng bố của du kích
Cộng sản tái hoạt động ở các vùng nông thôn miền Nam. Trong cuốn sách
Chính sách cải cách ruộng đất Việt-Nam (1954-1994), tác giả Lâm Thanh
Liêm đã viết về Khu trù mật như sau: "Khu Trù Mật là một cộng đồng nông
nghiệp được chính quyền thành lập và gom thôn dân vào đấy sinh sống vì ở
trong những thôn xóm hẻo lánh, xa cách các trục giao thông, do đó,
chính phủ không thể kiểm soát được. Trước sự đe dọa của chiến tranh xâm
lược Miền Bắc, Tổng Thống Diệm quyết định tập trung thôn dân sinh sống
rải rác vào Khu Trù Mật, để tiện bề kiểm soát họ, đồng thời cô lập họ
với "Việt Cộng", giống như cá thiếu nước không thể sống tồn tại được.
Mỗi Khu Trù Mật có khoảng 3.000 đến 3.500 dân, có hạ tằng cơ sở giống
tựa như trường hợp của một thành phố: * Một khu thương nghiệp (với một
ngôi chợ xây cất bằng gạch và tiệm buôn bán). * Một khu hành chánh (có
một chi nhánh bưu điện), xã hội (một Bảo sanh viện, một nhà trẻ) và văn
hóa (các trường tiểu học và trung học cấp I, một phòng thông tin, nhà
thờ và chùa chiền). Các Khu Trù Mật được điện khí hóa. Vị trí của chúng
được chọn lựa kỹ lưỡng, hội đủ các điều kiện thuận lợi để phát triển
(đất đai trù phú, gần các trục giao thông). * Khu Trù Mật có thể phát
triển nông nghiệp, diện tích đất trồng có thể được nới rộng nhờ khẩn
hoang thêm đất màu mỡ, để trong tương lai, các thế hệ trẻ tấn lên trở
thành điền chủ. * Khu Trù Mật có thể phát triển thương nghiệp và các
lãnh vực dịch vụ khác, cùng phát triển các tiểu thủ công nghệ liên hệ
với ngành nông nghiệp địa phương. * Nhờ Khu Trù Mật, chính quyền có thể
cải thiện điều kiện sinh sống của thôn dân: cư trú tập trung cho phép
chính phủ thực hiện nhiều công trình phục vụ nhân dân, ít đòi hỏi nhiều
đầu tư hơn hình thức cư trú lẻ tẻ, rải rác (chẳng hạn như công tác thủy
nông, điện khí hóa, xây cất trường học, nhà bảo sanh v.v...) Khu Trù Mật
là nơi bảo vệ dân chúng chống lại chiến tranh xâm lược của Cộng Sản Bắc
Việt. Ngoài việc kiểm soát dân chúng trong Khu Trù Mật, chính quyền địa
phương còn trang bị vũ khí cần thiết, để nếu cần, có thể biến Khu Trù
Mật thành một "tiền đồn", ngăn chặn đoàn quân Bắc Việt xâm nhập vào Nam.
Bởi vậy các Khu Trù Mật thường được thiết lập tại các địa điểm có tính
cách chiến lược, dọc theo biên giới hoặc xung quanh một thành phố lớn,
để tạo một vành đai an ninh. Đồng thời Khu Trù Mật cũng là thị trường
tiêu thụ các nông sản và các chế phẩm tiểu thủ công nghiệp. Chính phủ
cấp phát cho mỗi gia đình định cư một mảnh đất 3.000 m 2, để xây cất một
ngôi nhà (với vật liệu do chính quyền địa phương cung cấp), một chuồng
heo và một chuồng gà. Mỗi gia đình có một mảnh vườn cây ăn trái hoặc một
mảnh vườn rau để tự túc mưu sinh." Sử gia Robert Scigliano, thuộc viện
đại học Michigan, cho biết Cộng Sản Hà Nội tuyên truyền phản đối chính
sách Khu trù mật vì ngoài việc ngăn chặn Cộng Sản xâm nhập vào nông
thôn, các Khu trù mật được xây dựng ở những vùng chiến lược chẳng hạn
dọc theo một con đường chính hay một trục thủy lộ gây trở ngại rất nhiều
cho việc chuyển quân của Cộng Sản". Và kế đến, người viết cũng xin phép
tác giả Trần An Phương Nam: Gia đình CB/XDNT Bắc Cali, để cũng được
trích đoạn trong bài: "Từ quốc sách Ấp Chiến Lược đến chương trình Xây
dựng Nông Thôn" như sau: "Khi thành lập công cụ xâm lược mang tên Mặt
trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam" (MTGPMN) vào tháng 12 năm
1960. Cộng Sản Hà Nội quyết tâm thực hiện giai đoạn khởi đầu trong sách
lược thôn tính miền Nam qua mặt trận du kích chiến, trọng tâm của mặt
trận này là “lấy nông thôn bao vây thành thị” nói cách khác là chúng
muốn kiểm soát địa bàn nông thôn, tranh thủ nhân tâm người dân nông thôn
để lợi dụng lòng yêu nước của họ ngõ hầu buộc họ phải cộng tác, nuôi
dưỡng, che chở cho du kích quân cộng sản. Kế tiếp là chúng sẽ dùng nông
thôn làm bàn đạp để tấn công, tiến chiếm các thành phố để cướp chính
quyền. Thoạt tiên kế hoạch xâm lược miền Nam của cộng sản Hà Nội là như
vậy, chúng mong muốn thôn tính miền Nam chỉ cần sử dụng mặt trận du kích
chiến mà thôi, không cần sử dụng đến các mặt trận khác như trận địa
chiến hay vận động chiến v.v... Nắm vững được sách lược của địch. Chính
phủ Ngô Đình Diệm ban hành Quốc Sách Ấp Chiến Lược, đây quả là một đối
sách đúng đắn và vô cùng lợi hại của chính quyền lúc bấy giờ, việc thi
hành đối sách này đã làm cho từ bọn đầu sỏ chóp bu ở Hà Nội đến bọn công
cụ tay sai MTGP ở miền Nam phải điêu đứng, hoang mang. Bởi vì mục tiêu
căn bản của Quốc Sách Ấp Chiến Lược là tách rời du kích quân sự cộng sản
ra khỏi nhân dân nông thôn, không cho chúng bám dựa vào nhân dân để xây
dựng cơ sở và hoạt động phá hoại, cuối cùng là cô lập hoàn toàn để
chúng phải chọn lựa, một là ra hồi chánh, hai là bị tiêu diệt. Tất cả
các Ấp đều được bảo vệ bởi các rào cản kiên cố bao quanh, các cổng chính
ra vào được canh gác đúng mức tùy theo địa thế, mỗi Ấp đều có từ một
đến nhiều chòi canh có tầm nhìn xa, ban ngày người dân được tự do ra vào
để làm ăn, tuy nhiên người lạ mặt muốn vào Ấp phải qua thủ tục kiểm
soát chặt chẽ, ban đêm các cổng chính ra vào được đóng lại, tuy nhiên
các trường hợp cấp thiết của dân chúng vẫn được giải quyết. Ngoài ra,
các Ấp Chiến Lược đều có thiết lập hệ thống báo động để phát hiện mọi
trường hợp xâm nhập lén lút, bất hợp pháp vào Ấp. Việc quản lý Ấp do một
Ban trị sự phụ trách, việc phòng thủ bảo vệ Ấp do lực lượng Phòng vệ
dân sự phối hợp với các đơn vị Thanh niên, Thanh nữ Cộng Hòa của Ấp sở
tại phụ trách. Ấp Chiến Lược được tổ chức theo phương thức tự quản, tự
phòng và tự phát triển. Quốc Sách Ấp Chiến Lược thực hiện rất hiệu quả,
công việc tát nước để bắt cá, mặt trận du kích chiến của cộng sản bị
ngưng trệ, du kích quân và hạ tầng cơ sở của chúng gần như không chốn
dung thân, chủ trương bám dựa vào người dân bị bẻ gãy từ trứng nước. Tóm
lại, Quốc Sách Ấp Chiến Lược đang trên đà thăng tiến và tỏ ra hữu hiệu
thì bất ngờ bị hủy bỏ bởi chính những người có quyền cao chức trọng
trong chính thể VNCH. Thật đáng tiếc vô cùng!" Trên đây, là những trích
đoạn đã viết về Ấp Chiến Lược, của hai vị tác giả Nguyễn Đức Cung và
Trần An Phương Nam; riêng người viết bài này, trước đây, cũng đã có viết
qua bài: Những Mùa Xuân Qua có một đoạn về Ấp Chiến Lược như sau: Mô
hình của một Ấp Chiến Lược: Tại quê tôi, ấp chiến luợc là những vòng đai
có hai vòng rào gai rừng, ở giữa hai vòng rào là những giao thông hào
sâu quá đầu nguời, rộng hơn hai mét, do dân làng cùng nhau đào, dưới
lòng giao thông hào có cắm chông làm bằng những gốc tre già đã được vót
nhọn, sắc, có ba cạnh. Còn vòng rào là những tấm gai cứng nhọn, có bề
rộng hai mét, bề cao hơn hai mét được ghép lại. Chúng tôi xin nhắc rằng:
Vì để bảo vệ tánh mạng và tài sản của chính gia đình của mình nên mọi
người dân quê đều hưởng ứng, họ rất vui vẻ với công việc này. Đặc biệt
là lớp thanh niên, với những nụ cười, tiếng hát với nhau trong lúc cùng
nhau thực hiện Ấp Chiến Luợc. Ngoài ra, dân lành còn dùng những chiếc
thùng thiếc, loại thùng đựng dầu hỏa, hoặc thùng gánh nước đã bị hỏng,
đem đục lỗ, cột dây thừng nhỏ đuợc tết bằng những sợi mây rừng; ban đêm
sau 20 giờ Chiến Sĩ Dân Vệ đóng cổng ấp lại, rồi họ đem giăng dọc theo
bờ rào Ấp Chiến Luợc và các lối đi ở bìa vuờn, để ngăn bước chân của
Việt cộng nằm vùng ban đêm thường lẻn xuống giết hại dân lành và cuớp
gạo, muối của dân mang lên rừng để sống. Bọn trẻ như chúng tôi thì khoái
đi giăng thùng lắm, chúng tôi đòi Chiến Sĩ Dân Vệ phải cho chúng tôi đi
theo, giăng thùng xong chúng tôi còn trông cho có ai đó, hoặc con vật
gì nó vướng dây để được đánh mõ còn nếu được "la làng" thì càng thích
hơn nữa. Tôi vẫn nhớ mãi về những năm tháng ấy thật vui, tôi nhớ dân quê
tôi còn "phát minh" ra phong trào đánh mõ và la làng. Ngoài các trạm
gác đêm của cá Chiến Sĩ Dân Vệ, thì nhà nào cũng sắm ra nhiều chiếc mõ
tre; mỗi khi có tiếng thùng đổ thì mọi nguời đánh mõ ba hồi một dùi;
nghĩa là đánh ba hồi dài, sau đó đánh một tiếng, còn nếu thấy có bóng
dáng nguời xuầt hiện thì đánh mõ hồi một; nghĩa là đánh một hồi rất gấp,
rồi kèm theo chỉ một tiếng. Lúc đó mọi nguời không ai đuợc đi lại phải
chờ cho các Chiến Sĩ Dân Vệ kiểm tra xem tại sao thùng đổ, nếu là Việt
cộng nằm vùng xuất hiện, thì các Chiến Sĩ Dân Vệ sẽ tri hô và mọi nguời
đồng thanh la làng: “Cộng sản bớ làng, cộng sản bớ làng”; sau đó, dân
làng tay cầm chiếc gậy có sợi dây thừng cuộn ở phía trên, tay cầm đuốc
sáng trưng để vây bắt Việt cộng. Chính vì thế, mà tôi nhớ người dân đã
bắt đuợc bốn cán bộ VC nằm vùng, nhưng tôi chỉ nhớ tên hai nguời là
Duơng Đình Tú và Đỗ Luyện, cả hai đuợc đưa ra tòa sau đó họ ra Côn Đảo,
đến khi trao trả tù binh họ chọn con đuờng ra Bắc. Còn nếu do một con
chó thì họ sẽ la to: "Bà con ơi! chó vuớng thùng, đừng đánh nữa", thì
dân làng họ mới thôi đánh mõ. Một kỷ niệm mà không phải riêng tôi, mà có
lẽ còn hai "nạn nhân" trong cuộc chắc chắn khó quên: Ấy là vào một đêm
có đôi tình nhân đã hẹn hò nhau ở bìa vuờn, chắc họ đã ra đó lúc chưa
giăng thùng, nên đến khuya khi họ quay về nhà, chẳng may họ đã vuớng
phải dây và thùng thi nhau đổ, khi các anh Dân Vệ kiểm tra thì có bóng
hai nguời họ hô: “Đứng im”; lúc ấy có tiếng cả hai xưng tên và nói: "Tụi
em đây, xin các anh đừng bắn". Nhưng lúc ấy, dân làng đã đèn đuốc sẵn
sàng, hai nguời mắc cỡ quá nên đứng im không dám nhúc nhích trông rất
tội nghiệp. Sau đó, đôi tình nhân ấy không hiểu tại sao họ lại chia tay.
Bây giờ hai nguời đều có gia đình riêng, ở cùng làng đã có cháu nội,
ngoại. Cô gái vuớng thùng năm xưa hiện nay lại là chị chồng của em gái
tôi. Tôi vẫn nhớ hoài những đêm vui kỷ niệm; ngày ấy, đêm nào bọn trẻ
con trong làng cũng trông mong cho có ai đó, hay con chó, con mèo vuớng
thùng để đuợc đánh mõ, vì cả làng đều đánh mõ hòa với tiếng trống ở các
trụ sở thôn làng, nghe thật vui tai, chúng tôi đứa nào cũng thích, cũng
đòi cha mẹ sắm cho những chiếc mõ thật tốt, kêu thật to. Chúng tôi thích
đánh mõ, đánh dai lắm, cho đến khi các Chiến Sĩ Dân Vệ đã la to lên:
"Chó vuớng thùng, bà con ơi đừng đánh mõ nữa" các anh cứ la, còn chúng
tôi thì vẫn cố đánh thêm mấy hồi nữa, vì mấy khi thùng đổ để đuợc đánh
mõ đâu. Hậu quả của việc phá bỏ Ấp Chiến Lược: Mùa xuân năm 1964, Quê
hương tôi không còn thanh bình nữa; bởi lúc ấy, Nền Đệ Nhất Cộng Hòa đã
sụp đổ. Ấp chiến lược bị phá bỏ, vì như mọi người đều biết, từ thưở xa
xưa tổ tiên chúng ta ở thôn quê quanh vườn người ta thường trồng tre,
gai làm bờ rào, còn nhà thì có bờ dậu có cửa ngõ, làng thì có cổng làng,
mục đích để phòng gian, như bài thơ "Cổng Làng" của Thi sĩ Bàng Bá Lân
đã viết: "Chiều hôm đón mát cổng làng Gió hiu hiu thổi mây vàng êm trôi
Đồng quê vờn lượn chân Trời Đường quê quanh quất bao người về thôn Ráng
hồng lơ lững mây son Mặt trời thức giấc véo von chim chào Cổng Làng rộng
mở ồn ào Nông phu lửng thửng đi vào nắng mai" Như vậy, từ thưở xa xưa,
tổ tiên của chúng ta đã từng xây dựng Làng, có Cổng Làng mà mỗi đêm
thường được đóng, để bảo vệ dân làng, và mỗi ngày khi: "Mặt Trời thức
giấc véo von chim chào" thì "Cổng làng rộng mở ồn ào" để cho những "Nông
phu lửng thửng đi vào nắng mai"; huống thay là trong thời chiến tranh,
lúc cái "Mặt trận giải phóng miền Nam" do cộng sản Hà Nội cho ra đời,
thì những kẻ vì ngu xuẩn hay cố tình kia lại ra lệnh phá bỏ Ấp Chiến
Lược, là phá bỏ mọi trở ngại, khó khăn để cho Việt cộng đánh chiếm các
làng thôn một cách dễ dàng. Tôi đã chứng kiến những ngày Xuân 1964, đầy
khói lửa, hoang tàn, từng đoàn người bồng bế, hoặc gánh con thơ chạy
trốn, dân quê tôi họ đã biết rất rõ về cái gọi là “Giải phóng miền Nam “
vì cũng những người trong làng trước kia họ biết rõ là đảng viên cộng
sản, sau đó họ biệt tích, rồi một ngày họ bỗng dưng từ trên núi trở về
lại tự xưng là "Giải phóng miền Nam", nên dân quê tôi đã phân biệt Quốc,
Cộng là hể ở trên núi xuống là cộng sản, chúng nói gì họ cũng không
nghe, thấy bóng dáng cộng sản đâu là họ đều cõng - gánh con thơ tìm
đường chạy trốn. Kể từ đó, khi Ấp Chiến Lược bị phá bỏ, thì quê tôi,
quận Tiên Phước gồm 15 xã, mà việt cộng đã chiếm hết 11 xã, chỉ còn có 4
xã nằm chung quanh quận lỵ, mà chẳng có xã nào còn nguyên vẹn, vì xã
nào cũng mất một vài thôn; riêng xã Phước Thạnh, tức làng Thạnh
Bình-Tiên Giang Thượng, gốm có 7 thôn, nhưng Việt cộng đã đánh chiếm mất
6 thôn, chỉ còn 1 thôn Đại Trung, nằm bên bờ Tiên Giang Hạ. Và với
những gì tôi đã viết trước đây, là hồi ức của một thời thơ ấu không hề
biết thêu dệt; nghĩa là viết một cách vô cùng trung thực, thấy sao nói
vậy, nhớ đâu viết đó, chứ không phải là văn chương. Vì vậy, một lần nữa,
người viết muốn lập lại là chỉ mong ước để cho lớp trẻ sau này còn biết
đến một công trình của người đi trước đã dày công xây dựng.
.Pháp quốc, 20/10/2011
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
----------------------------------------------------------
*
Lưu ý: Tất cả những bài viết của tác giả Hàn Giang Trần Lệ Tuyền, nếu
quý vị nào muốn tiếp tay chuyển tiếp lên các Diễn Đàn Điện Tử, các trang
Web trên mạng lưới toàn cầu thì không có điều gì trở ngại, chúng tôi
chân thành cám ơn. Tuy nhiên, nếu quý vị nào muốn in vào sách, báo có
tính cách thương mại, xin vui lòng liên lạc để có sự đồng ý của tác giả
trước qua địa chỉ email:
hangiangletuyen@gmail.com .
------------------------------------------------------------
*
Ông Ngô Đình Nhu dự lễ khánh thành ấp chiến lược ở Củ Chi The Big
Picture: The Hidden War in Vietnam From remote and hazardous locales in
South Vietnam comes this documentary report on what the United States
Army, Air Force, and Navy are doing to contain the spread of Communism.
The Big Picture camera crews on location in South Vietnam show the
military operations of our Special Forces units--how they live--how they
operate--and what they are doing to help the Vietnamese. The
host-narrator of this issue is television and motion picture star Mr.
James Arness. reply nam64 wrote on Oct 22, '11 The Hidden War in
Vietnam: 1960s Color U.S. Military Documentary DVD:
http://www.amazon.com/gp/product/B0018C8KZG?ie=UTF8&tag=doc06-20&link...
Watch the full
film:http://thefilmarchived.blogspot.com/2010/11/big-picture-hidden-war-in-vietnam...
When John F. Kennedy won the 1960 U.S. presidential election, one major
issue Kennedy raised was whether the Soviet space and missile programs
had surpassed those of the United States. As Kennedy took over, despite
warnings from Eisenhower about Laos and Vietnam, Europe and Latin
America "loomed larger than Asia on his sights." In his inaugural
address, Kennedy made the ambitious pledge to "pay any price, bear any
burden, meet any hardship, support any friend, oppose any foe, in order
to assure the survival and success of liberty." In June 1961, John F.
Kennedy bitterly disagreed with Soviet premier Nikita Khrushchev when
they met in Vienna over key U.S.-Soviet issues. The legacy of the Korean
War created the idea of a limited war. Although Kennedy stressed
long-range missile parity with the Soviets, he was also interested in
using special forces for counterinsurgency warfare in Third World
countries threatened by communist insurgencies. Although they were
originally intended for use behind front lines after a conventional
invasion of Europe, Kennedy believed that the guerrilla tactics employed
by special forces such as the Green Berets would be effective in a
"brush fire" war in Vietnam. The Kennedy administration remained
essentially committed to the Cold War foreign policy inherited from the
Truman and Eisenhower administrations. In 1961, the USA had 50,000
troops based in Korea, and Kennedy faced a three-part crisis—the failure
of the Bay of Pigs Invasion, the construction of the Berlin Wall, and a
negotiated settlement between the pro-Western government of Laos and
the Pathet Lao communist movement These made Kennedy believe that
another failure on the part of the United States to gain control and
stop communist expansion would fatally damage U.S. credibility with its
allies and his own reputation. Kennedy determined to "draw a line in the
sand" and prevent a communist victory in Vietnam, saying, "Now we have a
problem making our power credible and Vietnam looks like the place", to
James Reston of The New York Times immediately after meeting Khrushchev
in Vienna. In May 1961, Vice President Lyndon B. Johnson visited Saigon
and enthusiastically declared Diem the "Winston Churchill of Asia."
Asked why he had made the comment, Johnson replied, "Diem's the only boy
we got out there." Johnson assured Diem of more aid in molding a
fighting force that could resist the communists. Kennedy's policy toward
South Vietnam rested on the assumption that Diem and his forces must
ultimately defeat the guerrillas on their own. He was against the
deployment of American combat troops and observed that "to introduce
U.S. forces in large numbers there today, while it might have an
initially favorable military impact, would almost certainly lead to
adverse political and, in the long run, adverse military consequences."
The quality of the South Vietnamese military, however, remained poor.
Bad leadership, corruption, and political promotions all played a part
in emasculating the ARVN. The frequency of guerrilla attacks rose as the
insurgency gathered steam. While Hanoi's support for the NLF played a
role, South Vietnamese governmental incompetence was at the core of the
crisis. Kennedy advisers Maxwell Taylor and Walt Rostow recommended that
U.S. troops be sent to South Vietnam disguised as flood relief workers.
Kennedy rejected the idea but increased military assistance yet again.
In April 1962, John Kenneth Galbraith warned Kennedy of the "danger we
shall replace the French as a colonial force in the area and bleed as
the French did." By 1963, there were 16,000 American military personnel
in South Vietnam, up from Eisenhower's 900 advisors. The Strategic
Hamlet Program had been initiated in 1961. This joint U.S.-South
Vietnamese program attempted to resettle the rural population into
fortified camps. The aim was to isolate the population from the
insurgents, provide education and health care, and strengthen the
government's hold over the countryside. The Strategic Hamlets, however,
were quickly infiltrated by the guerrillas. The peasants resented being
uprooted from their ancestral villages. In part, this was because
Colonel Pham Ngoc Thao, a Diem favourite who was instrumental in running
the program, was in fact a communist agent who used his Catholicism to
gain influential posts and damage the ROV from the inside. The
government refused to undertake land reform, which left farmers paying
high rents to a few wealthy landlords. Corruption dogged the program and
intensified opposition.
0 comments:
Post a Comment