LỐI THOÁT DUY NHẤT CHO VIỆT NAM LÀ TIÊU DIỆT
ĐẢNG VIỆT GIAN BÁN NƯỚC
(phản luận về vấn đề đa đảng)
(Bài
viết dở chừng thì chúng tôi bị bệnh. Xin thành thực cáo lỗi cùng quí
bạn đọc. Hôm nay sức khỏe cho phép, chúng tôi xin được trở lại để tiếp
tục gởi đến độc giả phần 3 cũng là phần kết thúc của bài viết. Xin chân
thành cám ơn quí bạn đọc)
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
Con đường duy nhất là diệt bán nước
Diệt bằng cách nào? Không thể nói diệt là diệt được, mà phải làm sao
cho sát thực tế và hoàn cảnh để đem lại hiệu quả, và hơn hết, phải trả
lời được câu hỏi: tại sao phải làm thế, có cần thiết không? Chúng tôi
trình bầy vấn đề quan trọng này tuần tự dựa vào 3 nguyên tắc sau đây:
một
là cần phải phân biệt các khuynh hướng chống cộng. Hai là tìm ra đường
lối diệt cộng hữu hiệu nhất. Và ba là phản biện con đường hòa hợp hòa
giải với VGCS.
Cũng
cần nhấn mạnh điểm này là tiêu diệt chế độ CS khác với tiêu diệt người
CS. Ở đây người viết chỉ bàn vấn đề tiêu diệt chế độ mà không nói vấn đề
tiêu diệt con người.
1. Phân biệt các khuynh hướng chống cộng -
Tuy nói là chống cộng sản, nhưng không thể nói các khuynh hướng chống
cộng hiện nay tất cả đều như nhau, có chung cùng mục tiêu. Hiện tại có
nhiều cá nhân, nhóm, hội đoàn, đảng phái chống cộng nhưng tựu chung
không ngoài hai khuynh hướng sau đây, nhận diện thiết tưởng không phải
là chuyện khó.
- Thứ
nhất là chủ trương tiêu diệt đảng VGCS triệt để, đặt CS ra ngoài vòng
pháp luật, xóa sổ chế độ CS. Nói cách khác là vận động toàn dân làm một
cuộc cách mạng lật đổ chế độ VGCS. (có thể phải bạo động nhưng không nhất thiết).
- Thứ
hai là nhờ áp lực ngoại bang, đồng thời kêu gọi VGCS để được chia quyền
lãnh đạo đất nước với chúng. Khuynh hướng này là chủ trương đa đảng hay
gọi là hòa hợp hòa giải với VGCS.
Đây là hai con đường song song. Giống như trong hình học, hai đường
thẳng song song nằm trên cùng một mặt phẳng không bao giờ gặp nhau.
Trong chính trị cũng vậy, chống cộng để tiêu diệt cộng sản và
chống cộng để được hợp tác với CS là hai đường lối cùng gọi là chống
cộng, nhưng khác nhau về quan điểm và về lập trường, và do đó
kết quả tất nhiên cũng khác nhau. Khuynh hướng thứ nhất diễn tả đúng
nghĩa là một cuộc cách mạng. Cách mạng đúng nghĩa là một cuộc thay đổi
triệt để và toàn diện đưa đất nước đi lên từ xấu đến tốt hơn. Khuynh
hướng thứ hai là hòa hợp hòa giải với VGCS thực chất là đi tìm sự thỏa
mãn khát vọng quyền hành của các phe phái chính trị, nôm na là chia chác
quyền hành.
Hiện nay thấy ai cũng nói chống cộng, nhưng coi chừng, từ ngữ này mang
những nội dung khác nhau. Để phân biệt thì phải nhìn vào quan điểm và
lập trường của từng người (hay tập thể) đối với vấn đề. Người coi VGCS
là một tập đoàn bán nước cần phải bị tiêu diệt là người chống cộng thuộc
khuynh hướng
1.
Kẻ cho là VC quá mạnh, diệt không nổi, thôi thì dĩ hòa vi qúi, huề với
nó để tránh đổ máu (?), là một trong số đại biểu của khuynh hướng 2.
Khuynh hướng hai được trình bây dưới những nhãn hiệu khác nhau, như canh
tân đất nước, đòi tự do dân chủ, bỏ điều 4 Hiến Pháp, thực hiện chế độ
đa đảng, bầu cử tự do được Hiên Hiệp Quốc kiểm soát …
Thế nhưng tất cả chúng lại tránh dùng chữ Hòa Hợp Hòa Giải. Cẩn thận trò lưu manh đánh lận con đen này. Những
kẻ theo khuynh hướng hòa hợp với VGCS thường tự biện hộ rằng đảng CS có
công thống nhất đất nước, mang lại độc lập cho dân tộc, hiện nay VN
cũng đang phát triển để hòa nhập với thế giới v.v. Nhưng họ lại cố tình quên đi những tội ác tầy trời của VGCS, nhất là tội bán nước, bán chủ quyền quốc gia của chúng.
Những biến cố xẩy ra gần đây nhất cho thấy, khuynh hướng hòa hợp hòa
giải với CS đang trên đà thắng thế. VGCS với NQ36 đã dùng tiền bạc để
lũng đoạn và mua chuộc tất cả. Thực tế cho thấy, NQ36 đã lũng đoạn được
[phải nói là] tất cả các đảng phái và tổ chức quốc gia, mua chuộc được
hầu hết các cơ quan truyền thông và văn nghệ, lôi kéo được rất đông đảo
nhân vật chính trị của hàng ngũ VNCH từ cao cấp nhất trở xuống kể cả
quân sự lẫn dân sự. Xu hướng xoay chiều này gây ra bởi các yếu tố thời
gian, tâm lý, tiền và lợi lộc.
- Về
thời gian, thời gian quả thực đã làm soi mòn ý chí của con người. Chỉ
tiếc rằng người ta đã không nhìn lại sự quật khởi của Dân Tộc sau hàng
ngàn năm Tầu đô hộ và gần một trăm năm Pháp cai trị để mà học hỏi. Mấy
chục năm bị CS áp chế có phải là thời gian quá dài không?
- Về
tâm lý, tình trạng cô đơn của người quốc gia so với sự o bế của các thế
lực quốc tế vụ lợi đối với VGCS cũng là một yếu tố tâm lý làm nản lòng
nhiều người trong hàng ngũ triệt để chống cộng trước đây.
- Về
tiền bạc và lợi lộc thì khỏi nói, thấy lợi, thấy tiền ai mà không ham.
NQ36 đánh mạnh ở điểm này và đã thành công đáng kể. Nguyễn Cao
Kỳ vò tay, cúi đầu, kính thưa này nọ trước mặt Nguyễn Minh Triết ai bảo
Kỳ đóng kịch chỉ vì máu thích làm tài tử! Hoàng Duy Hùng vẽ ra cái đường
bay Houston-Saigon không lý hắn làm chùa? Ngu tận mạng mới tin rằng
Nguyễn Thanh Sơn chỉ tặng Nguyễn Ngọc Lập có chiếc cravat. Sự mua chuộc
diễn ra dưới rất nhiều hình thức mà thường là không trực tiếp. Nguyễn
Cao Kỳ giắt mối làm cái sân golf không lý Kỳ làm từ thiện? Một con mụ
điếm quốc tế đi về làm ăn ở trong nước, một tên “Việt kiều” thầu đồ phế
thải ở Saigon thường xuyên chi địa cho mấy ngài văn nghệ sĩ, sĩ quan
chống cộng đều là vì lòng hảo tâm? Không thiếu các nhà văn, nhà thơ, nhà
báo, nhà nọ nhà kia, ngửa tay nhận tiền của VGCS qua tay một trung gian. Họ nhận tiền để chống cộng đấy!!!
Đánh nhau không bên nào thắng nổi, bọn lãnh đạo xôi thịt bèn nghĩ đến
việc huề cờ để chia quyền hoặc chia đất. Lũ này tại VN thời nào cũng có.
Thời Đệ VNCH, Quốc Vụ Khanh Phan Quang Đán đã từng khuyên người Mỹ: “Either you kill them all or you talk to them), and killing all of them is impossible (them: VC)”. Việt Tân Lý Thái Hùng mầu mè riêu cua hơn nhưng ý tưởng là một: “tháo gỡ độc tài để canh tân đất nước”. Hoàng Duy Hùng mộng du với chủ trương “if you cannot beat them, join them”.
Và có vẻ chiến lược hơn một tí, hắn són ra một cái công trình gọi là
“cách mạng trắng” giống như một cục cứt ỉa vội. Nói ra thì còn nhiều
lắm, không sao hết được. Tất cả đều qui về một mối có chủ đích là xin
hòa hợp với VGCS để được chia chác địa vị và lợi lộc.
Nếu nhìn vào mặt nổi của vấn đề thì quả thật, người ta có thể kết luận
rằng VGCS đang trên con đường thắng thế. Ngược lại, khối người chống
cộng hiện từng bước lún sâu vào vũng lầy thất bại. Nhưng xin bạn đọc an tâm. Đó chẳng qua chỉ là hiện tượng. Một ẩn số không thể coi thường trong những giờ khắc lịch sử của đất nước mà ít người để ý tới là thành phần thầm lặng.
Người dân thầm lặng không nói nhưng họ nhìn rất rõ. Những màn trình
diễn có tính cách phô trương của Nguyễn Thanh Sơn trước mắt mọi người đã
phạm phải một sai lầm tai hại là bởi nó chủ quan và kịch quá nên trở
thành phản tác dụng. Thật vậy, Nguyễn Thanh Sơn đưa các tên hề
Nguyễn Phương Hùng và Nguyễn Ngọc Lập ra trước ống kính khóc lóc bù lu
bù loa đã không những không thuyết phục được ai, mà trái lại càng làm
cho người ta thù ghét CS hơn. Tinh thần chống cộng của người
dân VN càng trở nên quyết liệt và sắt đá hơn. Đó là một bàn thua trông
thấy của phía VGCS bởi sự ngu dốt và vụng về của chúng. Trái lại, chuyện
cứ tưởng như thua, nhưng thực ra lực lượng chống cộng bất chiến lại ghi
một bàn thắng ngoạn mục. Nhiều mánh mung khác kệch cỡm không kém Nguyễn
Thanh Sơn sáng tác ra cũng không đánh lừa nổi ai, thí dụ như trò trùng
tu nghĩa trang QĐ Biên Hòa do Nguyễn Đạc Thành diễn xuất, trò xúi bọn
phản chiến ngày nào nhỏ nước mắt cá sấu trước di ảnh của Thiếu Tá Hạm
Trưởng Ngụy Văn Thà, trước mắt người dân cũng đều là trò hề cả.
Khối người thầm lặng cả ở trong lẫn ngoài nước trong tương quan giữa
đảng VGCS và lực lượng chống cộng mới là quan trọng. Họ sẽ là thành phần
quyết định vấn đề thắng bại và thắng bại theo khuynh hướng nào. Nếu ý
dân đúng là ý Trời thì chúng ta đã từng chứng kiến ông Trời có mắt thật.
2. Cách hay nhất là làm cho “chúng” sợ -
Kể từ ngày VGCS chiếm đoạt được miền Nam thì khắp nơi chúng bị người
dân nổi lên chống đối, cả nhân dân trong nước lẫn đồng bào tỵ nạn tại
hải ngoại. Những vụ phản kháng này diễn ra dưới nhiều hình thức khác
nhau. Tuy có chung một ý nghĩa là chống lại tập đoàn VGCS, nhưng theo
nhận định của người viết thì các cuộc phản kháng này mang một đặc tính
chung là cục bộ. Nghĩa là mục tiêu tranh đấu rất giới hạn. Đã thế, có
khi bị VGCS cài cán bộ trà trộn vào, trương cờ, biểu ngữ làm mất đi ý
nghĩa của tinh thần phản kháng. Cuộc nổi dậy lớn nhất tại Thái Bình
tháng 6-1997 xẩy ra cũng chỉ là một vụ khiếu kiện đòi quyền lợi và mang
tính địa phương. Báo cáo chính thức của VGCS viết: “Nội dung
chủ yếu của những khiếu kiện này tập trung xung quanh việc đòi thanh
tra và công khai hóa việc phân chia ruộng và nhất là việc thu và chi
những khoản đóng góp mà chính quyền địa phương (xã và huyện) thu của
nông dân trong những năm qua để xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong
nông thôn, chủ yếu là các công trình: Ðiện - Ðường - Trường - Trạm”.
Qua cuộc biến động tại Thái Bình, cả hai bên dân chúng và phỉ quyền đều
rút được kinh nghiệm. Người dân đã không đưọc gì, lại còn mang vạ vào
thân. Họ trở nên rụt rè và dè dặt. Còn phỉ quyền thì dĩ nhiên, tích lũy
được rất nhiều kinh nghiệm trấn áp. Từ đó về sau người dân thật khó có
thể xuống đường để làm chuyện lớn. Đến như biến cố Bắc Giang hồi tháng
7-2010 [dân xuống đường đập phá để phản đối vụ công an đánh chết người
vì chạy xe không mang mũ bảo hiểm] hơn kém cũng chỉ là một cơn giận tập
thể … “tưng bừng khai trương rồi lại âm thầm dẹp tiệm”. Chuyện dân oan
xuống đường không mang ý nghĩa là những cuộc phản kháng chính trị.
Trường hợp vụ Thái Hà và Tòa Khâm Sứ tại Hànội cũng là dân oan khiếu
kiện nhưng ở mức độ qui mô hơn, và mang sắc thái chính trị hơn. Giáo dân
muốn biến thành cuộc phản kháng chính trị nhưng các cha không cho phép con chiên bước chân xuống đường,
có lẽ các ngài sợ mang tiếng Công Giáo làm chính trị, hoặc có lẽ các
ngài nghĩ tình hình chưa chín mùi và thời gian chưa thích hợp. Nhưng thế
nào mới là chín mùi và lúc nào mới là thích hợp?
Cho đến bây giờ những sự chống đối biến dạng sang một hình thái khác,
vừa mang tính hài hước, vừa có lợi cho tất cả mọi bên. Chúng tôi muốn
nói đến phong trào xuất ngoại để đấu tranh, điển hình và mới mẻ nhất là chuyện ông Ls Cù Huy Hà Vũ đi Mỹ.
Ai cũng thấy là các
vụ tranh đấu này được dàn dựng và sắp xếp từ cả hai phía VGCS và chính
quyền Mỹ. Trung gian đứng ra chạy việc là Việt Tân và những tên đầy tớ
làm thuê cho các tổ chức Xịa trá hình. Người tỵ nạn CS chưa biết Quốc Hội Mỹ ở đâu, nhưng những nhà dân chủ, ngay cả nông dân VN cũng rành địa chỉ này lắm. Họ sang Mỹ là tới ngay tòa nhà Quốc Hội để tố khổ VGCS và đòi tự do này nọ.
Tội nghiệp cho những người dân bị lợi dụng, nhưng những nhà dân chủ thì
khác, họ ý thức rất rõ việc họ làm. Những trò ma nớp này mang lợi ích
cho mọi bên liên quan. Chính quyền Mỹ được tiếng là quan tâm đến vấn đề
dân chủ, nhân quyền của VN. Các ông dân cử Mỹ kiếm được phiếu của đồng
bào tỵ nạn. Bọn dẫn mối kiếm phân (fund) để sống. VGCS càng được nhiều
hơn. chúng chuyển được trận địa ra khỏi nước, đó là điều chúng mong
muốn. Chúng mượn tay Việt Tân đốt cháy những thành phần chúng muốn triệt mà không bị mang tiếng đàn áp những nhà dân chủ.
Chúng chứng minh cho thế giới thấy VN là một nước rất tôn trọng nhân
quyền và dân quyền. Chả thế mà chúng dễ dàng được bầu vào Ủy Ban Nhân
Quyền Liên Hiệp Quốc. Còn chuyện những nạn nhân bị tù đầy có được thả
hay không, chuyện này không quan trọng, bởi vì thân nhân của họ đã đến
không đúng chỗ, gặp không đúng người. Nhân viên tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ còn
bị công an hốt lên xe cây thì người dân VN đến QH Mỹ đòi hỏi VGCS được
cái gì? Họ nên biết nơi tranh đấu là trụ sở đảng VGCS tại Hànội
chứ không phải QH Mỹ, và kẻ có quyền thả người là công an VGCS chứ không
phải dân biểu, nghị sĩ Mỹ.
Bởi vì địa bàn tranh đấu là ở trong nước, những cuộc tranh đấu của người Việt tỵ nạn ở hải ngoại chỉ có tính cách yểm trợ.
Hình thức yểm trợ phổ biến nhất là biểu tình. Một hình thức yểm trợ
khác là ký thỉnh nguyện thư, kháng thư. Trong sinh hoạt chính trị của
các nước phương Tây thì hình thức này khá hữu hiệu, nhưng nếu “do các con buôn chính trị thực hiện”
thì đây chỉ là trò bịp để lợi dụng. Tác dụng của nó là làm nản lòng
những người thực sự yêu nước. Như vậy là gián tiếp giúp cho VGCS.
Đi tìm cách đấu tranh tiêu diệt không khó. Mấy chục năm về trước, nếu
cộng đồng tỵ nạn chúng ta đoàn kết để embargo và boycott VGCS thì tình
hình không đến nỗi như ngày nay. Nếu chúng ta vận động được QH Mỹ ra đạo luật cấm du lịch, cấm gởi tiền về VN thì càng hay hơn biết mấy.
Nhưng thôi chuyện đã qua rồi. Bây giờ trước hết chúng ta cần ý thức
rằng chúng ta đang ở vào thế yếu, thua kém địch về mọi mặt, và trận địa
là ở trong nước chứ không phải tòa nhà Quốc Hội Mỹ, nên chiến thuật diệt
địch hữu hiệu không gì bằng là đe dọa địch, là cho chúng sợ. “Cách duy nhất là làm cho chúng sợ. Phải làm cho dân chúng vừa yêu vừa sợ.Nếu
không thể làm cho người dân yêu mến thì cũng phải tuyệt đối duy trì nỗi
sợ hãiđể họ không bao giờ có đủ ý chí mà nổi loạn. Làm sao để xã hội
dân sự vẫn được mở rộng nhưng theo hướng có kiểm soát của chúng ta, chứ
không trở thành mối đe dọa.Quan trọng hơn cả là chúng ta phải tiếp tục nuôi dưỡng nỗi sợ hãi – dù chỉ là nỗi sợ mơ hồ trong tiềm thức … ”.
Trích đoạn này rút ra từ một tài liệu học tập mật của cán bộ VGCS. Xưa
nay, VGCS khống chế người dân bằng phương pháp làm cho dân sợ. Chúng đã
rất thành công. Vậy tại sao chúng ta lại không biết lấy “gậy ông để mà đập lưng ông?”
Làm cho VGCS sợ không hẳn nghĩa là giết chóc. Theo tin trên internet,
đã có nơi người dân địa phương làm cho những tên chủ tịch xã, bí thư
đảng ủy, trưởng công an phải xin từ chức vì sợ hãi. Một vụ khác, dân
chúng xã Tề Mễ, huyện Tam Nông, Phú Thọ đang bắt nhốt tên phó công an
huyện, chủ tịch xã và một số cán bộ, bao vây trụ sở huyện đòi thả người vô tội bị bắt.Nếu không làm được cho bọn cán bộ sợ thì làm cho cha mẹ, vợ con, thân nhân chúng phải sợ. Chiến dịch “làm cho chúng sợ”
cần được phát động cùng khắp toàn quốc, trong từng ngõ hẻm của thành
thị, từng bờ mương của ruộng đồng. Khi công an, bộ đội không dám ra
đường thì guồng máy hạ tầng của VGCS sẽ bị tê liệt. Khi hạ tầng không hoạt động được thì đầu não chắc chắn sẽ phải sụp đổ.
Chúng ta có thể áp dụng chiến dịch “làm cho chúng sợ” trong mọi lãnh
vực mà chẳng phải tốn hao gì, như chận đứng được bọn con hát phản phúc
trở về nước hoặc bọn ca nô ở trong nước ra hát hò, làm cho bọn con buôn
trở về làm ăn phải chùn bước, làm cho các nhà đầu tư ngoại quốc phải rút
lại dự án, làm cho bọn tay sai VGCS phải dừng tay phá phách v.v. Chiến
thuật “làm cho chúng sợ” biến hóa dưới muôn hình vạn trạng, chỉ cần có
sáng kiến. Dân chúng Trung Hoa cũng đang áp dụng chiến dịch này để tiêu
diệt đảng CS Tầu. Hãng tin Asia Pacific,China, Revolution News
loan tin, có ít nhất 4 công an tuần tra Tầu cộng bị dân chúng đánh chết
vì bọn công an lấy búa đập chết một thanh niên chỉ vì anh này dám chụp
hình bọn công an trong khi chúng hành hung thô bạo một phụ nữ bán hàng
ngoài phố. Vụ này xẩy ra mới ngày 19-4-2014 tại một thành phố miền Đông
Nam Trung Hoa. Dân chúng vây quanh chiếc xe van của công an, lôi bọn
chúng xuống xe, vừa hô “kill them! Kill them!” vừa liệng gạch đá và dùng
gậy gộc đánh chúng cho tới chết.
Chiến thuật “Làm cho chúng sợ” đã tỏ ra rất có hiệu quả. TGM Nguyễn Văn
Bình thố lộ cho đến khi nhắm mắt lìa đời vẫn còn sợ CS. Vì thế Giáo Hội
CGVN mới đi theo con đường đồng hành với dân tộc VN xã hội chủ nghĩa.
Vì sợ cái đĩa máu và con dao của Thích Trí Quang mà ngài Thượng Thủ
Thích Tâm Châu đã lặng lẽ rút lui khỏi cuộc tranh đấu của Ấn Quang năm
1966.
3. Hòa hợp với VGCS: con đường không lối ra - Nước
Nga của các Nga Hoàng Tsar là một đế quốc kém phát triển. Khi CS Nga
đảo chánh Nga Hoàng Nicolas II, lên nắm quyền tại Nga thì cái đế quốc đỏ
này càng có tham vọng mở rộng hơn. Nhưng cộng sản là một nghịch lý giữa
phát triển và bành trướng. Nền kinh tế Liên Sô tụt hậu thê thảm dưới
chế độ CS, đã không nuôi nổi nhân dân trong nước, lại còn phải “bao cấp”
quá sức mình những thuộc quốc mới thôn tính (như VN chẳng hạn). Đây là
nguyên nhân chính làm sụp đổ đế quốc đỏ Liên Sô. Khi đế quốc đỏ Liên Sô
sụp đổ thì quyền lực chuyển từ Moscow sang Bắc Kinh. Các quốc gia chư
hầu lấy lại được độc lập và tự chủ. Cả đến Mông
Cổ và Bắc Triều Tiên sát nách nước Tầu, nhưng họ cũng có cách riêng để
giữ vững nền độc lập và tự chủ của họ. Chỉ có đảng CSVN từ chư hầu của
Liên Sô chuyển thành chư hầu của Trung cộng trong tư thế mất độc lập và
mất luôn chủ quyền. Đây là điểm khác biệt cốt lõi giữa CSVN và các đảng CS khác trên thế giới. Có
thể kết luận là các đảng CS chư hầu của Liên Sô chủ yếu lệ thuộc Liên
Sô về học thuyết. Trái lại đảng CSVN lệ thuộc cả về học thuyết lẫn sinh
mệnh Dân Tộc. Vì thế, sự chuyển quyền từ CS sang
dân chủ tại các nước chư hầu Liên Sô hay Trung cộng có gặp khó khăn
nhưng không bế tắc. VN thì trái lại, khó khăn chồng chất lại bế tắc
không có lối thoát.
Ngày nay không có người VN nào còn hồ nghi việc Hồ Chí Minh và đảng
VGCS là một tập đoàn bán nước. Sự thật đã được phơi bầy rõ ràng. Ải Nam
Quan, thác Bản Giốc, đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vịnh Bắc Bộ … Hồ và đồng
bọn bán cho Tầu như thế nào ai cũng đều thấy cả. Còn những việc được
giấu kín trong các Hiệp Ước mật 1990 Thành Đô, 1999, 2000 chưa ai thấy
được. Bán nhiều hay bán ít đều là tội bán nước cả.
Giả thiết rằng những người chủ trương hợp tác với đảng VGCS trong một
chế độ đa đảng đã có những biện pháp giải quyết ổn thỏa các rắc rối và
phức tạp trong tất cả mọi khía cạnh của vấn đề. Nhưng cuối cùng họ cũng
bị rơi vào cái Dilemma về lương tâm của người yêu nước chân chính để rồi
tự chôn vùi bản thân như sau:
a/ Nếu
các đảng phái quốc gia đã biết và xác nhận tập đoàn VGCS bán nước thì
tại sao họ chấp nhận đứng chung với bọn bán nước trong sinh hoạt chính
trị của đất nước? Tại sao họ kết tội Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, mà
không kết tội Hồ Chí Minh và đảng CS của hắn?
b/ Còn
như các đảng phái quốc gia trả lời rằng họ không cho rằng VGCS bán nước
thì họ trả lời sao về các sự kiện ải Nam Quan, thác Bản Giốc, đảo Hoàng
và Trường Sa, vịnh Bắc Bô? Người dân bình thường còn biết. Tại sao họ
không biết?
Như vậy thì,
- Một: hoặc là những đảng phái quốc gia này đồng lõa bán nước với VGCS?
- Hai: hoặc là họ quá ngu dốt, không biết cả những cái mà mọi người dân đều biết. Họ không thể và không xứng đáng lãnh đạo ai.
Nếu đã thừa nhận VGCS là một chính đảng hợp pháp và chấp nhận đứng
chung với nó trong sinh hoạt chính trị, thì chính quyền mới [bất kể đảng
phái nào] là một chính quyền chuyển tiếp. Chính quyền này, do đó, cũng
thừa nhận và chấp nhận những di sản mà chính quyền VGCS để lại - đặc
biệt về mặt tinh thần - như là những dấu ấn của một chặng đường lịch sử
của đất nước mà mọi người dân phải tôn trọng và gìn giữ, học sinh VN
phải học:
- Hồ Chí Minh, Lê Duẫn, Trường Chinh v.v. là những người có công với đất nước.
- Đền
đài, lăng miếu dưới thời CS không được phá bỏ. Nhân dân VN lễ bái Đền
Hùng Vương, Đền Quang Trung, Lê Lợi, Đền Hai Bà Trưng v.v. thế nào thì
cũng nhang đèn lễ bái Lăng Hồ, đền Lê Duẫn v.v. như thế.
- Các ngày ngày độc lập 2-9, ngày thống nhất đất nước 30-4 v.v. vẫn được coi là các ngày lễ quốc gia.
Xin hỏi, Có dân tộc nào cào bằng hai giá trị đạo đức - YÊU NƯỚC - và
phản đạo đức - BÁN NƯỚC - trong trách nhiệm công dân đối với đất nước
như thế không, ngoài Dân Tộc VN? Có nền văn học nào san bằng hai khái
niệm mâu thuẫn nhau trên cùng một nền tảng luân lý không, ngoài văn học
VN? Chỉ có VN mới có những chuyện lịch sử ngang trái và phi lý như thế này.
Như thế tưởng đã đủ để người viết có thể trở lên với cái tựa đề và xin lấy nó làm kết luận cho bài biết: LỐI THOÁT DUY NHẤT CHO DÂN TỘC VIỆT NAM CHÚNG TA LÀ TIÊU DIỆT ĐẢNG VIỆT GIAN BÁN NƯỚC. Thật sự không có con đường nào khác.
2-6-2014
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
0 comments:
Post a Comment