CHÚNG TA ĐÃ VÀ ĐANG MẤT NƯỚC
GS.Phạm Cao Dương
…..
MTV. Xin phép đăng lại nguyên văn bài thuyết trình tác giả đọc tại buổi
hội thảo mang chủ đề “38 Năm Nhìn Lại: Hiện Tình và Tương Lai Việt Nam”
do Hội Ái Hữu Bưởi-Chu Văn An Nam California tổ chức ngày 14 tháng 7
năm 2013 tại Coatline Community College, Thành Phố Westminster,
California.
Việt Cọng đang bán nước, ngưòi dân phải tiêu diệt chúng để cứu nước |
Nói
về hiện tình đất nước ở vào thời điểm 2013 mà không nói tới tham vọng
và cuộc xâm lăng của người Tàu, cuộc xâm lăng mới nhất, đang xảy ra trên
lãnh thổ của nước ta là một điều vô cùng thiếu sót. Vì vậy thay vì góp
thêm nhận định về hiện trạng kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục ở trong
nước hiện tại, tôi xin phép Ban Tổ Chức và toàn thể quý vị cho tôi được
nói đôi chút về đề tài nóng bỏng này, đề tài tôi tạm gọi là “ Chúng Ta đã và Đang Mất Nước” .
Vì
thời giờ có hạn, tôi chỉ xin nói ra những điểm chính. Sau buổi hội thảo
ngày hôm nay tôi sẽ xin ghi lại những chi tiết đầy đủ hơn và sẽ xin gửi
tới quý vị sau. Cũng vì thì giờ có hạn, tôi sẽ không nói tới hay đúng
ra không nói nhiều về Biển Đông với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và
Đường Lưỡi Bò của Trung Cộng và những gì đế quốc mới này đã và đang làm ở
trong vùng biển này như thành lập Thành Phố Tam Sa, thiết lập các cơ
cấu hành chánh, chánh trị, quân sự, đưa các tàu hải tuần xuống đe dọa
các quốc gia liên hệ, chặn bắt các tàu đánh cá của ngư dân, đặc biệt là
ngư dân Việt Nam… Lý do là vì tất cả đã trở thành đề tài thời sự thế
giới, được nói tới gần như hàng tuần và luôn cả hàng ngày trên các đài
phát thanh, các đài truyền hình quốc tế cũng như các đài phát thanh, đài
truyền hình của người Việt, trên các trang mạng từ nhiều năm nay và
đương nhiên trong những buổi gặp gỡ giữa anh em, bạn bè chúng ta. Tôi
cũng không nói hay nói rất ít về bản “Tuyên Cáo về việc Nhà Cầm
Quyền Trung Quốc Liên Tục Có Những Hành Động Gây Hấn, Xâm Phạm Nghiêm
Trọng Chủ Quyền Toàn Vẹn Lãnh Thổ Việt Nam Trên Biển Đông” , ngày 25 tháng 6 năm 2011 và bản “Kiến Nghị Về Bảo Vệ Và Phát Triển Đất Nước Trong Tình Hình Hiện Nay” của
các nhân sĩ, trí thức nổi tiếng ở trong nước gửi Quốc Hội Nước Cộng Hoà
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng
Cộng Sản Việt Nam ngày 10 tháng 7 cùng năm và nhiều kiến nghị khác mà
mọi người đều biết trước là sẽ không bao giờ được trả lời hay chỉ được
trả lời quanh co hay gián tiếp.
Tôi
cũng không nói hay nói rất ít về lối trả lời gián tiếp các nhà trí thức
kể trên của Đảng CSVN xuyên qua một bài báo đăng trên tờ Đại Đoàn Kết
theo đó những người cầm quyền ở Việt Nam hiện tại đã tỏ ra vô cùng lúng
túng trước câu hỏi về bản công hàm của Phạm Văn Đồng nhân danh Thủ
Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà gửi Chu Ân Lai, Chủ Tịch Quốc Vụ Viện
nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, ngày 14 tháng 9 năm 1958. Đây là lần
đầu tiên những người cầm đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam, đã thừa nhận là họ
đã lựa chọn nhường các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng để
đổi lấy sự giúp đỡ của Trung Cộng trong cuộc xâm chiếm Miền Nam bằng vũ
lực của họ sau đó. Đây cũng là lần đầu tiên họ, những người cầm đầu Đảng
Cộng Sản Việt Nam, công nhận các chính phủ Quốc Gia Việt Nam thời Quốc
trưởng Bảo Đại và sau đó là Việt Nam Cộng Hòa là những chính phủ hợp
pháp có trách vụ quản trị các quần đảo này theo Hiệp Định Genève cũng
như những nỗ lực không thể chối cãi mà những chính phủ quốc gia này đã
làm để bảo vệ các quần đảo này trong suốt thời gian các chính phủ này
tồn tại.
Lý
do chính yếu khiến tôi không nói hay chỉ nói rất it về những sự kiện kể
trên là vì tất cả hiện thời ở Biển Đông và các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa mới chỉ là diện, là bề ngoài, là mới chỉ là bắt đầu. Tất cả
rồi cũng sẽ được giữ nguyên trạng trong một thời gian dài và dù muốn hay
không Hoàng Sa cũng đã mất rồi, còn Trường Sa thì cũng mất nhiều phần,
còn nhiều thế hệ nữa Việt Nam mới có thể lấy lại được hay có cơ hội lấy
lại được. Trung Hoa Cộng Sản trong mọi hoàn cảnh cũng đã chiếm được và
giữ được những phần quan trọng kể từ sau khi họ chiếm Hoàng Sa từ trong
tay Việt Nam Cộng Hòa hồi tháng Giêng năm 1974 trong sự im lặng, đồng
lõa của chính quyền Cộng Sản Hà Nội. Cái giá để cho Đảng CSVN xâm chiếm
miền Nam và thống nhất đất nước ta bằng võ lực phải nói là quá đắt cho
dân tộc Việt Nam và cho chính họ.
Hoàng
Sa, Trường Sa hay rộng hơn Biển Đông chỉ là những gì nổi bật bề ngoài,
là cái diện ai cũng có thể thấy được trong tiến trình mất nước của dân
tộc Việt Nam đầu Thế Kỷ 21 này. Vậy thì cái điểm nằm ở đâu? Thưa quí vị,
nó nằm ngay trên đất liền, trên lãnh thổ của chính quốc Việt Nam. Nó
nằm rải rác ở khắp lãnh thổ nước ta chứ không riêng ở biên giới phía
bắc, đành rằng ở biên giới phía bắc, người ta đã ghi nhận những sự nhổ
và lui cột mốc, sự mất ba phần tư Thác Bản Giốc, những sự chiếm giữ các
cao điểm có tính cách chiến lược từ trước và sau trận chiến 1979 giữa
hai đảng Cộng Sản Á Châu và có thể từ xa hơn nữa, từ đầu thập niên 1950,
khi CSVN mở cửa biên giới phía bắc để nhận viện trợ của Trung Cộng nhằm
tiếp tục cuộc chiến tranh chống Pháp và gián tiếp chống lại chính quyền
Quốc Gia Việt Nam lúc đó đã được thành lập bởi Cựu Hoàng Bảo Đại. Những
thắc mắc về sự mất mát này cho tới nay vẫn chưa được hoàn toàn giải toả
dầu cho đã được nhiều người đòi hỏi. Tôi sẽ nói thêm ở phần cuối về vấn
đề này. Có điều là đến giờ thì hai bên đã ký kết những thỏa ước và
những cột mốc mới đã khởi sự được “cắm” rồi. Những điểm này tuy nhiên
chỉ là ở dọc vùng biên giới. Quan trọng hơn và nguy hiểm hơn, bức thiết
hơn là những điểm, mà không phải là điểm hiểu theo ý nghĩa đen của danh
từ, nằm sâu ngay trong lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam, dưới quyền quản lý
của chính quyền Cộng Sản hiện tại nhưng vượt ra ngoài sự kiểm soát của
chính quyền này. Những điểm vừa cố định, nằm nguyên một chỗ, vừa di động
khắp nơi trên lãnh thổ, điển hình là những mỏ bauxite trên cao nguyên,
những khu rừng đầu nguồn nằm ở cửa ngõ của những vùng biên giới
Việt-Trung và Lào-Việt , những khu vực trúng thầu, những địa điểm thu
mua các nông sản, những vùng nông dân bỏ trồng lúa, trồng khoai, những
trại nuôi cá, điển hình là trại nằm không xa quân cảng Cam Ranh là bao
nhiêu mà các nhà cầm quyền địa phương sau cả gần chục năm không hề biết,
những khu phố kiểu Đông Đô Đại Phố ở Bình Dương … Tất cả đã trở thành
những “thực dân địa” của người Tầu ngay trong lòng của lãnh thổ Việt
Nam, nơi những ủy ban nhân dân vẫn còn làm chủ. Nói cách khác, theo lời
của các tác giả của Bản “Kiến Nghị Về Bảo Vệ Và Phát Triển Đất Nước …” ngày 10 tháng 7 năm 2011 mà tôi đã dẫn trên đây thì
“…mặt trận nguy hiểm nhất đối với nuớc ta mà Trung Quốc muốn dồn quyền
lực và ảnh hưởng để thực hiện, đó là: thâm nhập, lũng đoạn mọi mặt đời
sống kinh tế, chính trị, văn hoá của nước ta. Đó là mặt trận vừa uy
hiếp, vừa dụ dỗ nước ta nhân danh cùng nhau gìn giữ ý thức hệ xã hội chủ
nghĩa, gây chia rẽ giữa nhân dân ta và chế độ chính trị của đất nước,
vừa lũng đoạn nội bộ lãnh đạo nước ta, làm suy yếu khối đại đoàn kết
thống nhất của dân tộc ta, làm giảm sút khả năng gìn giữ an ninh và quốc
phòng của nước ta. Đánh thắng nước ta trên mặt trận nguy hiểm nhất này,
Trung Quốc sẽ đánh thắng tất cả.” Nói cách khác đó là chiến lược
dùng quyền lực mềm thọc sâu vào lãnh thổ Việt Nam để nhẹ ra là đưa Việt
Nam đến chỗ phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc, còn nặng ra là chiếm
luôn cả nước. Đến lúc đó thì Hoàng Sa, Trường Sa và Đường Lưỡi Bò đương
nhiên sẽ trở thành biển đảo của Trung Quốc.
Hãy
tưởng tượng ngay trên Cao Nguyên Miền Nam, địa diểm chiến lược quan
trọng nhất đã chi phối toàn bộ an ninh của miền nam Việt Nam và sự thống
nhất của lãnh thổ quốc gia trong quá khứ, trong một khu vực rộng lớn,
nằm ngoài sự kiểm soát của cả chính quyền trung ương lẫn chính quyền địa
phương của người Việt, là một khu vực dành riêng cho người Tầu, không
ai được nhòm ngó, không ai được ra vào. Họ được tự do mang người của họ
vô, mang người của họ ra, được chở đồ của họ vô, chở đồ của họ ra một
cách tự do, thong thả không qua một sự kiểm soát nào. Những người này là
những người nào? những đồ này là những đồ gì ? Làm sao biết được, ai mà
biết được… cho đến biến cố tầy trời nổ ra? Cũng vậy, ở những khu rừng
đầu nguồn và ở những địa điểm của những công trình xây cất có tính cách
căn bản nhằm cung cấp điện năng, khoáng sản, dầu khí… những lãnh vực
thuộc loại tối quan trọng liên hệ tới an ninh của quốc gia. Hãy nhìn vào
con số 90% các “gói thầu” thuộc loại này được mở ra ở trong nước đã lọt
vào tay các nhà thầu Trung Cộng. Nhiều gói lên tới hàng tỷ Mỹ kim với
những món tiền lót tay không phải là nhỏ, từ 10% đến 15% tiền thầu. Hậu
quả là những công trình do họ thực hiện phần lớn có phẩm chất kém, thời
gian thi công kéo dài trong khi các nhà thầu Việt Nam, vì không đủ vốn,
không đủ thế lực chỉ còn bất lực, đứng bên lề các đại công trường trên
đất nước mình. Nhưng nguy hiểm hơn hết vẫn là nạn nhân công người Tầu do
chính các chủ thầu người nước họ mang sang để lao động thay vì các nhân
công bản xứ. Ở khắp nơi, từ Quảng Ninh, Hải Phòng, Đồ Sơn đến Ninh
Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, đến Đà Nẵng rồi vô tới Bình Dương và Cà Mau…
chỗ nào có nhân công người Tầu đều có những khu cư xá riêng cho họ, kèm
theo là các chợ búa, các cửa hàng, các trung tâm dịch vụ, các nhà nghỉ,
các quán cà phê, karaoke mang chữ Tàu… để phục vụ cho họ. Người Việt Nam
không riêng chỉ có thể đứng nhìn mà còn trở thành nạn nhân của tất cả
những tệ hại do họ gây ra như ăn uống, nhậu say không trả tiền, phá
phách, tiểu bậy, trêu gái, đánh lộn , kéo hàng trăm người đánh hội đồng
người bản xứ khi có tranh chấp…
Những
người Tầu được gửi sang Việt Nam để lao động kể trên thuộc thành phần
nào? Họ có phải thuần túy là dân lao động có tay nghề hay là những quân
nhân thuộc những đơn vị đặc biệt, những đặc công tình báo được gửi sang
để thực hiện một mưu đồ hiểm độc lâu dài hơn? Hiện tại chưa có gì là rõ
ràng mà chỉ là ức đoán.
Vùng Tây Nguyên đã thực sự là của Tàu |
Có
điều là họ hiện diện ở khắp nơi trên toàn quốc Việt Nam mà các nhà cầm
quyền từ trung ương đến địa phương đều đã không kiểm soát được hay làm
lơ không kiểm soát. Mặt khác, nếu nhìn vào những gì Trung Cộng đã làm ở
Tân Cương, ở Mông Cổ và luôn cả ở Tây Tạng trong thời gian gần đây thì
không ai là không khỏi lo ngại. Tỷ lệ số người gốc Hán ở các xứ này đã
tăng gia dáng kể và sự cạnh tranh cũng như kỳ thị với sự thiên vị của
nhà cầm quyền đã gây nên những cuộc bạo loạn trầm trọng. Liệu Việt Nam
có thể tránh khỏi tình trạng đang xảy ra cho các nước này hay không? Ta
không được biết, nhưng chỉ nhìn vào miền cao nguyên với các công trình
khai thác bauxite, với lượng nhân công gốc Tầu đông đảo, phần lớn là
những thanh niên chưa có hay không có vợ, hậu quả của nạn giới hạn hai
con của chính quyền Trung Cộng người ta không thể không lo ngại cho
tương lai của miền đất chiến lược quan trọng bậc nhất của đất nước Việt
Nam này, miền đất mà Hoàng Đế Bảo Đại coi trọng đặc biệt với danh xưng
Hoàng Triều Cương Thổ. Những thanh niên này sẽ lấy các thiếu nữ Thượng,
sẽ sinh con đẻ cái và tất cả sẽ trở thành công dân xứ Thượng. Nếu điều
này xảy ra thì rất là êm thắm, chỉ trong vòng hai thế hệ hay ba chục
năm, chưa tới năm mươi năm, thời gian thuê các rừng đầu nguồn với giá rẻ
mạt, những người Thượng gốc Tàu sẽ trở thành chủ nhân của các cao
nguyên và qua một cuộc đầu phiếu êm ả và hợp pháp, miền đất rộng lớn,
nhiều tài nguyên này sẽ trở thành của Tầu và biết đâu qua một tiến trình
tương tự toàn bộ cả nước Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh mới của nước
Tầu, tỉnh Quảng Nam rộng trên ba trăm ngàn cây số vuông hay hơn nữa nếu
bao gồm cả hai nước Lào và Căm bốt, sau hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây,
biên giới phía nam nước Tầu sẽ được mở rộng tới Vịnh Thái Lan về phía
nam và về phía tây, tới bờ sông Cửu Long. Đó chính là ước mơ của những
người tự nhận là Đại Hán mà suốt một ngàn năm vừa qua họ không đạt được.
Điều này không phải là không thể đến cho dân tộc Việt Nam, dân tộc Lào
và dân tộc Căm-pu-chia trong nửa thế kỷ tới. Tất cả sẽ có thể xảy ra
một cách bất ngờ “trước khi người lính của chúng ta được quyền nổ súng”
nói theo lời của một tướng lãnh của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam trong
một đoạn video được phổ biến rất rộng rãi và trong một thời gian dài
trước đây. Chỉ tiếc là tính cách chính xác của đoạn video này cho tới
nay chưa được phối kiểm. Vị tướng lãnh này là Trung Tướng Phạm Văn Di,
Chính Ủy Quân Đoàn 7 của quân đội này.
Những
gì tôi kể ra trên đây chỉ là những gì dễ thấy và được nhiều người thấy.
Còn có nhiều hiện tượng khác tiềm ẩn hơn, thâm độc hơn do người Tàu cố ý
gây ra như nạn hàng hóa rẻ tiền, thiếu phẩm chất của họ tràn ngập Việt
Nam trong đó có những hàng độc hại, những thực phẩm có chứa các hóa chất
gây bệnh chết người hay làm hại cho sức khoẻ cho loài người nói chung
mà ảnh hưởng sẽ kéo dài trong nhiều thế hệ. Việc người Tàu xây hàng loạt
nhiều đập trên thượng nguồn sông Cửu Long và sông Hồng Hà đe dọa sự an
toàn và phong phú của các đồng bằng châu thổ của các sông này, từ đó đe
dọa cuộc sống của nhiều chục triệu người dân ở đây cũng là những hiện
tượng người ta cần chú ý. Chưa hết, chuyện Trung Cộng tung tiền ra và
đứng sau hai nước ở phía tây Việt Nam là Căm Bốt và Lào cũng đã và chắc
chắn sẽ còn gây ra rất nhiều khó khăn cho Việt Nam mà những gì Căm Bốt
đã làm trong Hội Nghị Thượng Đỉnh ASEAN vừa qua là một bằng cớ, y hệt
những gì Cộng Sản Bắc Việt đã gây ra cho Việt Nam Cộng Hoà trong cuộc
chiến tranh vừa qua.
Trên
đây mới chỉ là hiểm họa do người Tàu từ phương bắc đem tới. Còn có
những hiểm họa khác do chính những người lãnh đạo ở Việt Nam hiện tại vì
tham lam, vì trình độ hiểu biết kém cỏi, vì kiêu căng, vì mang bệnh
thành tích… đã và đang gây ra cho chính dân tộc mình. Tôi muốn nói tới
việc xây dựng bừa bãi và cẩu thả các đập thủy điện ở khắp nơi mà Sông
Tranh 2 chỉ là một trường hợp điển hình. Nguy hiểm hơn nữa là việc xây
dựng các nhà máy phát điện hạch tâm, khởi đầu là ở Phan Rang, bất chấp
những kinh nghiệm khủng khiếp của người Nga ở Chernobyl, người Nhật ở
Fukushima hay những sự thận trọng của người Pháp, người Đức, người Mỹ
khi những người này quyết định cho đóng cửa hay ngưng hoạt động các lò
điện này ở nước họ. Nga, Nhật, Mỹ, Pháp, Đức… là những nước giàu có,
tiền bạc nhiều, lại có những nền khoa học và kỹ nghệ cao, những chuyên
viên giỏi, những người thợ có kinh nghiệm và vững tay nghề mà còn thận
trọng tối đa như vậy, còn Việt Nam mình thì mặc dầu còn kém cỏi về đủ
mọi mặt nhưng đã bất chấp tất cả. Người ta đã không đếm xỉa gì đến sự
cảnh cáo của dư luận quốc tế cũng như quốc nội, Giáo Sư Phạm Duy Hiển ở
trong nước, Giáo Sư Nguyễn Khắc Nhẫn ở bên Pháp, những chuyên viên
thượng thặng của người Việt đã hết lời can ngăn và đã viết nhiều bài
điều trần với những lời lẽ vô cùng thống thiết nhưng không ai để mắt, để
tai tới…cho đến khi đại họa xảy ra thì mọi sự đã quá muộn. Nên nhớ là
với Fukushima, người Nhật chỉ riêng để làm sạch miền biển liên hệ đã
phải bỏ ra nhiều tiền bạc, công sức và dự trù sẽ phải để ra bốn mươi năm
mới thực hiện nổi. Tham nhũng và nhất là bệnh thành tích phải chăng là
nguồn gốc của đại nạn này? Việt Nam phải là nhất, là cái gì cũng có,
nhất là ở thời đại Hồ Chí Minh, Đỉnh Cao Của Trí Tuệ Loài Người.
Cuối cùng chỉ tội nghiệp cho người Chàm vì địa điểm thiết lập những nhà
máy này chỉ cách Tháp Chàm có năm cây số. Nếu chuyện gì xảy ra, con số
hơn một trăm ngàn người còn sót lại của một dân tộc đã một thời hùng cứ ở
miền trung và miền nam Trung Phần Việt Nam, có thời đã đánh bại người
Việt, tràn ngập kinh đô Thăng Long, với một nền văn hoá giàu về hình
tượng, nơi xuất thân của Nhạc Sĩ Từ Công Phụng, Ca Sĩ Chế Linh và nhiều
người khác … sẽ một lần nữa bị tiêu diệt và lần này chắc chắn là lần
chót. Nên biết thêm là nhà cầm quyền ở Việt Nam hiện dự trù sẽ thiết lập
tổng cộng từ 8 đến 10 nhà máy điện hạch tâm, phần lớn là ở miền Trung
mà Phan Rang chỉ là khởi đầu với 2 nhà, mỗi nhà 2 lò. Tất cả đều là mua
của Nhật, Nga và luôn cả Đại Hàn sau các cuộc thăm viếng của các nhà
lãnh đạo Đảng và chính phủ. Họ viện cớ là các nhà sản xuất đều nói là
các lò họ làm là an toàn một trăm phần trăm nhưng ai mà tin được những
kẻ ở giữa ăn huê hồng từ những hợp đồng tính từ 3 tỷ, 5 tỷ, 10 tỷ Mỹ Kim
trở lên. Nểu chẳng may những vụ rì rỏ hay phát nổ của các lò xảy ra như
ở Chernobyl hay Fukushima xảy ra thì một phần ba dân số cả nước, phần
ba dân số bị coi là có quê hương “đất mặn đồng chua”, là “đất cày lên
sỏi đá” , là “nghèo lắm ai ơi” với “mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu
ăn”, nơi “Trời làm cơn lụt mỗi năm, khiến đau thương lan tràn, ngập
Thuận An…”, bây giờ lại bị đe dọa có thêm một đại nạn mới do chính các
nhà lãnh đạo của nước mình gây ra treo sẵn trên đầu.
Trên
đây chỉ là một số những gì đã và đang xảy ra trên đất nước Việt Nam của
chúng ta mà mọi nguời ít nhiều còn quan tâm tới quê hương của mình, của
ông cha mình đều nhận thấy. Còn rất nhiều chuyện khác lớn hơn, quan
trọng hơn và có tính cách chiến lược hơn như sự lệ thuộc về chính trị,
về kinh tế và luôn cả về văn hóa của Việt Nam vào Trung Quốc, nhất là
việc cấm đoán người dân không được tỏ thái độ dù cho chỉ là để bày tỏ
lòng yêu nước của mình, giam cầm, bắt bớ hành hạ, không cho họ biết tới
những gì đã thực sự xảy ra liên hệ tới sự thịnh suy, tồn vong của quê
hương và dân tộc họ. Đa số người dân đều mù tịt và vì mù tịt nên đa số
đều dửng dưng, nếu không nói là vô cảm. Nhiều người đã ví giai đoạn mất
nước và luôn cả diệt vong của dân tộc Việt Nam như một người đang hấp
hối với cái chết từ bàn chân đã lên tới đầu gối và đang từ từ lên dần
cho đến khi miếng bông đặt trên mũi đương sự không còn chuyển động nữa.
Cấp kãnh đạo của Việt Nam chỉ là thứ hèn hạ bán nước cho Tàu |
Câu
hỏi được đặt ra là những người đang lãnh đạo đất nước ta hiện tại có
biết rằng, như một truyền thống ngàn đời, Đảng Cộng Sản Trung Quốc hay
ít ra là những người lãnh đạo của đảng này ngay từ những ngày đầu đã
nuôi mộng làm chủ thiên hạ giống như Tần Thủy Hoàng ngày trước hay
không? Hay là họ vẫn tin tưởng vào “mười sáu chữ vàng” và “bốn tốt” mà
Cộng Sản Tàu đã tặng họ để tự lừa dối và lừa dối dân mình? Câu trả
lời là có. Bằng cớ là năm 1979, khi hai đảng cơm không lành, canh không
ngọt, môi không theo răng bị răng cắn bật máu, Cộng Sản Việt Nam không
những chỉ tố cáo trước người dân ở trong nước mà còn trước dư luận thế
giới qua những tài liệu do chính họ xuất bản từ Hà Nội, theo đó Mao
Trạch Đông ngay từ giữa thập niên ba mươi của thế kỷ trước đã nuôi mộng
theo chân Tần Thủy Hoàng muốn làm bá chủ của cả thế giới, bắt đầu là
Đông Nam Á. Trong hai tài liệu nhan đề Sự Thật về Quan Hệ Việt Nam-Trung Quốc Trong 30 Năm Qua bằng tiếng Việt do Nhà Xuất bản Sự Thật ấn hành năm 1979 và tái bản năm 1980, và Chinese Aggression Against Vietnam, Dossier
do Vietnam Courrier chủ biên, xuất bản ỏ Hà Nội năm 1979, ngay từ những
trang đầu, người ta có thể đọc được những chi tiết như sau:
Ngay từ năm 1939, trong tài liệu nhan đề Cách Mạng Trung Quốc và Đảng Cộng Sản Trung Quốc do chính ông viết, Mao Trạch Đông đã nhận định:
“Sau khi dùng chiến tranh đánh bại Trung Quốc, các nước đế quốc đã cướp
đi nhiều nước phụ thuộc và một bộ phận lãnh thổ của Trung Quốc: Nhật
chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận, Anh
chiếm Miến Điện, Bu-tan, Nê-pan và Hương Cảng, Pháp chiếm An Nam…” Tiếp
đến, một bản đồ trong một sách giáo khoa đã vẽ nhiều lãnh thổ của các
nước trong vùng biển Đông Nam Á và Biển Hoa Đông là thuộc Trung Hoa. Sau
đó, năm 1959, trong một buổi họp của Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản
Trung Quốc, khi nói về bang giao quốc tế, Mao Trạch Đông phát biểu rõ
hơn nữa về tham vọng thống trị toàn cầu của mình. Lãnh tụ này nói: “Chúng ta phải chinh phục trái đất. Mục tiêu của chúng ta là toàn thể trái đất” hay hạn hẹp hơn và kế hoạch hơn:
“Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á bao gồm cả miền nam Việt
Nam, Thái lan, Miến Điện, Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po. Một vùng như
Đông-nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản..xứng đáng với sụ
tốn kém cần thiết để chiếm lấy…Sau khi giành được Đông-nam châu Á, chúng
ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó
chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió đông sẽ
thổi bạt gió tây.”
Về sự lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam ở biên giới Trung Việt, qua tài liệu Chinese Aggression Against Vietnam ,
Cộng Sản Hà Nội tố cáo Trung Quốc vi phạm các Công Ước 1887 và 1895 ký
kết giữa Nhà Thanh và nước Pháp, lấn chiếm 60 địa điểm trên lãnh thổ
Việt Nam ngay từ trước năm 1949, sau đó, từ sau năm 1949, bất chấp sự
xác nhận lại các công ước này bởi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc và Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hoà vào năm 1957-1958, Cộng Sản Bắc Kinh lại sáp nhập
thêm trên 90 địa điểm khác ở biên giới giữa hai nước. Chưa hết, cũng
theo tài liệu này, từ sau năm 1974 con số các cuộc xâm nhập lại tiếp tục
gia tăng mạnh mẽ hơn với 179 vụ năm 1974, 294 vụ năm 1975, 812 vụ năm
1976, 873 vụ năm 1977 và 2.175 vụ năm 1978. Cuối cùng ngày 10 tháng 2
năm 1979, hai tiểu đoàn chính quy Trung Cộng đã tiến sâu 2 cây số vào
lãnh thổ Việt Nam, chiếm đồn kiểm soát Thanh Loa, huyện Cao Lộc, tỉnh
Lạng Sơn. Vẫn chưa hết, trong trận chiến biên giới Hoa Việt lần thứ hai
1984-1987, sau một trận đánh ác liệt ở núi Lão Sơn, mà người Việt quen
gọi là Núi Đất hay tọa điểm 1502, thuộc xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên,
tỉnh Hà Giang, quân Trung Cộng đã chiếm được núi này, 3.700 lính phòng
thủ Việt Nam đã hoàn toàn bị tiêu diệt, xác của họ đã bị đơn vị chống
hóa chất của bên địch thiêu hủy không còn vết tích. Lão Sơn không phải
là tọa điểm duy nhất bị quân Trung Cộng đoạt mà còn nhiều tọa điểm khác
như các tọa điểm 1030, 852, 211, 138, 156, 166, 167, 168… nằm sâu trong
lãnh thổ Việt Nam. Sau trận này Việt Nam đã mất thêm từ 600 đếm 1000 cây
số vuông lãnh thổ về tay Trung Quốc. Có điều lãnh đạo Đảng Cộng Sản
Việt Nam đã giấu nhẹm không cho dân chúng biết gì về trận chiến bi thảm
này cho mãi đến khi Trung Cộng phổ biến phần nào trên các mạng của họ.
Điều nên biết là trong thời gian này Trung Cộng luôn luôn dùng thủ đoạn
cho di dân của mình sang khai thác đất đai hay cư ngụ trên lãnh thổ
thuộc Việt Nam dọc biên giới, rồi sau đó áp lực bắt Việt Nam phải công
nhận những vùng đất này là thuộc nước họ. Sự kiện này giải thích tại sao
lại có chuyện điều đình và sửa lại các công ước mà trước Nhà Thanh đã
ký với Pháp mà nội dung đã được hai phía làm sáng tỏ không lâu, trong
các năm 1957, 1958 trước đó, như tôi đã nói ở trên qua các hiệp ước
1999, 2000. Chiến thuật này đang được họ dùng ở Biển Đông trên một quy
mô rộng rãi hơn, lớn hơn qua việc họ chiếm Hoàng Sa và một số đảo thuộc
Quần Đảo Trường Sa rồi tìm cách hợp thức hóa sau này. Việt Nam giấu
nhẹm nhưng Trung Cộng thì coi là quan trọng và quảng bá rộng rãi. Họ đã
cho công bố hình ảnh Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương tới thăm địa điểm
Lão Sơn này, kèm theo hình ảnh những công sự và đường sá mà họ thiết lập
sau đó, nhắm về phía Việt Nam. Những sự kiện này khiến cho những ai
quan tâm đến sự sống còn của đất nước không khỏi không liên tưởng tới sự
kiện Giang Trạch Dân đã bay thẳng từ Trung Quốc đến bơi ở biển Mỹ Khê,
Đà Nẵng như là biển nhà của mình thay vì phải qua Hà Nội gặp chủ nhà
trước hay Hồ Cẩm Đào đến bơi ở biển Hội An khi đến dự Hội Nghị OPEC, hay
chuyện Đảng Cộng Sản Việt Nam cho phép và bảo vệ các thanh niên người
Hoa rước đuốc thế vận qua Saigon và các đảo trong khi mọi cuộc tụ tập
của người Việt đều bị đàn áp, cấm đoán.
Trước
tình trạng cực kỳ nguy hiểm kể trên, câu hỏi được đặt ra là khả năng đề
kháng của người Việt Nam như thế nào và những người có trách nhiệm bảo
vệ đất nước và sự tồn vong của dân tộc đã có thái độ ra sao và đã làm
gì? Để trả lời cho câu hỏi này, có lẽ chúng ta còn cần có nhiều buổi hội
thảo khác với những đóng góp của nhiều thuyết trình viên khác. Tạm thời
tôi chỉ xin mời quý vị đọc lại bản kiến nghị mà tôi đã đề cập đến trong
phần đầu của bài thuyết trình hay những bức thư mà Hòa Thượng Thích
Quảng Độ hay những bài viết của nhiều vị nhân sĩ, trí thức như Thiếu
Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu Đại Sứ Việt Nam ở Trung Quốc và nhiều người
khác ở trong nước viết trong ít năm gần đây. Trước khi ngưng lời, tôi
xin được trích dẫn lời của Thiếu Tướng Lê Duy Mật, nguyên Phó Tư Lệnh
kiêm Tham Mưu Trưởng Quân Khu 2, Chỉ Huy Trưởng Mặt Trận Hà Giang trong
thời gian chiến tranh biên giới, khi ông trả lời Biên Tập Viên Mặc Lâm
của Đài Á Châu Tự Do, RFA, ngày 17 tháng 2 năm 2013 về sự kiện là
“nhiều gia đình liệt sĩ của cuộc chìến 1979 đã không biết hài cốt con em
mình nằm tại đâu vì sau đợt cắm mốc biên giới thì phần đất Việt Nam
chôn hài cốt liệt sĩ đã thụt sâu về phía Trung Quốc. Thiếu Tưóng có nghĩ
rằng nhà nước phải làm một điều gì đó để mang lại công bằng cho những
người này hay không?”
Nguyên văn câu trả lời của Tướng Lê Duy Mật như sau:
“Nhà nước ta lệ thuộc không dám nói gì với Trung Quốc, nếu không phải
bàn với ngoại giao Trung Quốc, quân đội Trung Quốc, nhà nước Trung Quốc
thì mới có thể giải quyết được.”
"Hãy ngoan nghe con, ta sẽ thưởng "vàng dẻo"cho con" |
Câu
trả lời của Tướng Mật là về các liệt sĩ đã hy sinh trong trận chiến
Việt Trung 1979 và 1984-1987, nhưng nội dung của nó đã bao gồm toàn bộ
các vấn đề liên hệ đến bang giao Trung-Việt trong hiện tại. “Nhà nước ta lệ thuộc không dám nói gì với Trung Quốc”
là nguồn gốc của tất cả. Đó là lý do tôi lựa chọn đề tài cho buổi
thuyết trình ngày hôm nay, chưa kể tới tình trạng vô cảm của không ít
người Việt trước hiện tình vô cùng nguy hiểm của đất nước, sự mất tin
tưởng của đa số người dân và sự bất lực của giới trí thức và sự bất cập
không đối phó được với tình thế mới trong mọi sinh hoạt từ chính trị đến
kinh tế, xã hội và luôn cả văn hóa ở Việt Nam sau 38 năm Cộng Sản làm
chủ toàn thể đất nước, và 27 năm đổi mới . Lãnh đạo cấp cao của hai đảng
Cộng Sản đã thỏa hiệp với nhau những gì trên đầu người dân Việt Nam từ
sau cuộc chiến biên giới Trung-Việt, từ sau Hội Nghị Thành Đô 1990, từ
sau những buổi gặp gỡ của Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và sau này Nguyễn
Phú Trọng và Trương Tấn Sang với các nhà lãnh đạo Trung Quốc? Chỉ có
những người này mới biết được nhưng không bao giờ và sẽ chẳng bao giờ họ
nói ra cả. Về điểm này, tôi xin được nhắc lại lời Vua Lê Thánh Tông dụ
bọn các ông Thái Bảo Kiến Dương Bá Lê Cảnh Huy năm Hồng Đức thứ tư,
1473, nguyên văn như sau:
“Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải
kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể
sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám
đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải
tru di.”
Lịch
sử đã được chép, đang đuợc chép và sẽ còn được chép dù cho môn sử học,
vì lý do nào đó, trái với truyền thống của dân tộc, trái ngay cả với
nhận định “dân ta phải biết sử ta” của Hồ Chí Minh và ngược lại với
chương trình giáo dục của bất cứ quốc gia độc lập và có chủ quyền nào,
kể cả các quốc gia tiền tiến về khoa học và kỹ thuật, không còn được coi
là quan trọng trong chương trình giáo dục của Việt Nam hiện tại. Đây
cũng là một lý do khác đã và đang làm cho chúng ta mất nước.
Xin cảm ơn Quý Vị đã kiên nhẫn lắng nghe hay đã đọc và đọc lại bài thuyết trình này. Xin kính chào Quý Vị.
Phạm Cao Dương
0 comments:
Post a Comment