Nguyễn Văn Lục
Trước 1975, ông (Nguyễn Chánh Trung) từng viết một bài nhan đề rất sâu sắc ác độc Nghĩ về một xã hội tan rã
để ám chỉ đến xã hội miền Nam trước 1975. Tôi nghĩ nếu bài viết ấy dùng
để mô tả xã hội hôm nay của chế độ cộng sản thì quả thực là một lời
tiên tri của Lý Chánh Trung!
Phần hai: Cuộc đời hoạt động sau 1975
Nói
cho công bằng, cuộc đời hoạt động của Lý Chánh Trung trước 1975 phong
phú bao nhiêu, xông xáo bao nhiêu, có vẻ trí thức bao nhiêu, viết nhiều
nói nhiều, năng nổ bao nhiêu thì phần sau 1975 tẻ nhạt và vô vị biết bấy
nhiêu. Sinh hoạt trí thức của ông trước 1975 là dạy học, là viết báo,
viết sách, là tham gia đủ các hoạt động trí thức mà chính yếu là chống
đối.(*)
Cứ coi chống đối cũng là một thứ hoạt động đi. Sau 1975, ông làm gì ngoài chức vụ bù nhìn của cái Quốc Hội chỉ biết dơ tay nhất trí! Nhục ơi là nhục.
Lý Chánh Trung và Linh mục Nguyễn Huy Lịch
Tôi
muốn viết thêm về vụ linh mục Nguyễn Huy Lịch và Lý Chánh Trung – hai
trí thức công giáo tiêu biểu và hèn cũng tiêu biểu. Họ đã làm những công
việc không đáng làm – những công việc của những tay điểm chỉ, đi tịch
thu những cơ sở tôn giáo, đi làm nhân chứng cho những vụ công an đàn áp
tôn giáo.
Nói đúng chỉ những loại người như họ mới làm được những việc đê tiện ấy!
Linh
mục Lịch thuộc một gia đình có bề thế, có tiếng tăm ở Hà Nội; cha của
ông là loại trí thức cấp tiến, thiên tả ở Hà Nội. Bố là luật sư, chống
Pháp nên ngả theo phía bên kia. Sau khi Lm Lịch thi đỗ tú tài có ngỏ ý
xin đi tu và đã bị ông bố tức giận bợp tai vì muốn ông học làm luật sư.
Rồi cuối cùng cũng chiều theo con. Lm Lịch sau đó sang Pháp du học.
Năm 1954, bố mẹ Lm Lịch chọn ở lại Hà Nội cùng với một người em gái tên Khanh.
Năm
1955, thay vì về Hà Nội với gia đình, Lm Lịch chọn vào miền Nam, về làm
Tuyên úy sinh viên công giáo Câu Lạc Bộ Phục Hưng, số 43 Nguyễn Thông.
Nói đến Lm Lịch, một số đông sinh viên công giáo cũng như không công
giáo đều có một thái độ trân trọng, kính mến ông vì tinh thần cởi mở và
hòa hợp – không phân biệt tôn giáo hay xu hướng chính trị. Có khoảng 500
sinh viên đã từng ở câu lạc bộ này, xin kể một vài người:
“Nguyễn
Đức Quý, Hoàng Ngọc Tuệ, Bùi Thế Cần, Ngô Khắc Tỉnh, Đoàn Thanh Liêm,
Bửu Sao, Trần Ngọc Báu, Tô Lai Chánh, Đặng Tiến, Cao Huy Thuần, Vĩnh
Linh, Pham Đăng Long Cơ, Đỗ Phan Hạnh (Chủ tịch Hội cựu hoc sinh Chu Văn
An).”(30)
Nói
chung, người ta nhận ra phong cách trí thức nơi cách diễn đạt- dù bằng
những ngôn từ dễ hiểu – pha chút khôi hài tế nhị sự tôn trọng cá nhân
cũng như sự tôn trọng ý kiến khác biệt, tạo được bầu khí ôn hòa chấp
nhận người khác.
Phong cách đạo đức hẳn cũng có.
Tuy
nhiên có thể Lm Lịch thiếu một phong cách chính trị nào đó. Tôi rất lấy
làm bất nhẫn và dám nói rằng khinh bỉ khi nhìn hình ảnh Lm Nguyễn Huy
Lịch đang leo cái thang để lên trần nhà tìm xem chỗ Lm bề trên Trần Đình
Thủ – một cụ già 80 tuổi đang ẩn nấp ở trên đó.
Cái hình ảnh ấy không đẹp tý nào cả.
Một
ông linh mục trí thức phải đóng vai trò công an đi bắt kẻ gian! Đó có
phải là công việc của một người đồng đạo đi tố cáo và bắt một người đồng
đạo khác? Nó tố cáo một sự hăng say và sự mất tư cách của một linh mục.
Vai
trò linh mục không ở chỗ ấy. Cũng chẳng phải vai trò như đứng về phía
kẻ cầm quyền đi bắt một kẻ gian vốn là người anh em của mình.
Hình
ảnh linh mục Nguyễn Huy Lịch leo thang lên chỗ trú ẩn của Lm Trần Đình
Thủ mà nhiều người không mấy quan tâm. Nhưng nó lại bộc lộ rõ cái bản
chất, cái hoạt cảnh trơ trẽn của đám linh mục trí thức tiến bộ thời ấy.
Nó
cho người ta thấy rằng có một sự thỏa hiệp đồng lõa giữa những thành
phần thiểu số tiến bộ trong công giáo với chính quyền cộng sản.
Trong
khi đa số giáo dân, đa số linh mục tu sĩ sống thầm lặng, chịu đựng, giữ
phẩm cách và không hùa theo đám giáo sĩ và trí thức tiến bộ mà cái hèn,
cái thiển cận, cái óc cơ hội xu thời, cái theo đuôi kẻ mạnh, kẻ chiến
thắng mà trước đây nhiều người vẫn coi là kẻ thù nguy hiểm nhất.
Họ trở cờ và họ muối mặt hãnh diện về sự trở cờ ấy. Nói nặng thì họ là những kẻ phản bội.
Thời
xưa, chỉ có một Juda. Nay thì có khá nhiều. Juda Lý Chánh Trung, Juda
Trương Bá Cần, Juda Huỳnh Công Minh và Juda Nguyễn Huy Lịch, v.v. nhiều
đến đếm không xuể.
Họ
không khác gì những người đánh trống và thổi kèn cho chế độ mới. Cả hai
làm công việc đi tiếp thu Cư xá Câu Lạc Bộ Phục Hưng làm chỗ hoạt động
cho chính quyền cộng sản. Họ tiếp tay cho cộng sản!
Chúng ta cùng nhau đọc lại mấy tin tức thời ấy. Tờ Sài Gòn Giả Phóng, số 117 đưa tin:
Đã phá vỡ một ổ phản cách mạng, đội lốt tôn giáo.
Tờ Tin sáng của nhóm Ngô Công Đức- Hồ Ngọc Nhuận Lý Chánh Trung, số 161 thì kết án mạnh bạo hơn đã đưa tin:
“Những bằng cớ tịch thu được của bọn phản cách mạng chứng tỏ bọn họ muốn phá bỏ những thành quả của nhân dân ta trong suốt 100 năm nay.”
Để
tỏ ra khách quan, chính quyền mới đã mời ba người đại diện Thiên Chúa
giáo trong vụ vây bắt này là các ông: Huỳnh Hữu Đặng, Nguyễn Đình Đầu và
Lm Nguyễn Huy Lịch đến chứng kiến vụ vây bắt những người đang cố thủ
trong nhà thờ.
Một lần nữa linh mục Nguyễn Huy Lịch và đám Tin Sáng với Ngô Công Đức, Lý Chánh Trung trở thành những kẻ tay sai, đồng lõa.
Riêng vụ án Vinh Sơn thì người ở ngoài giáo hội lại đề cập tới nhiều.
Mới đây nhất, Huy Đức trong Bên Thắng Cuộc có nhắc tóm tắt đến vụ Vinh Sơn như sau:
“Đêm 12 rạng sáng 13-2-1976, lực lượng an ninh thành phố bắt đầu tấn công nhà thờ Vinh Sơn, thu giữ các thiết bị phát thanh và in tiền giả. Hai linh mục cố thủ trong nhà thờ đã dùng súng và lựu đạn chống trả quyết liệt, bắn chết Nguyễn Văn Ràng, một cán bộ an ninh. Mãi tới gần sáng, lực lượng bao vây mới khống chế được nhà thờ, hai linh mục Nguyễn Hữu Nghị và Nguyễn Quang Minh cùng ba người khác bị bắt.”
Huy Đức chỉ căn cứ vào tài liệu của chính quyền cộng sản, sự thực sự việc xảy ra như thế nào?
Những
người bị bắt trong vụ Vinh Sơn như hai vị linh mục, nhất là Nguyễn Xuân
Hùng tự Ali Hùng bị giam chung với cánh nhà văn cũng bị giam tù thời
đó.
Vì thế, có đến ba bài ký ức viết về anh lính Ali Hùng như bà Nhã Ca. Nhất là bài viết của Nguyễn Thụy Long, Ký ức về tiếng hát người tử tù. Và Duyên Anh, trong Nhà Tù, chương 18.
Xin ghi lại một trích đoạn của nhà văn Nguyễn Thụy Long, người chứng kiến những giờ phút chót của người tù tử tội Ali Hùng:
“Những câu chuyện vặt trong phòng giam bỗng im bặt, khi tiếng nói thật lớn thật to ở phòng giam tử tội cuối hành lang cất lên:Chào tất cả các anh em bạn tù, chúng tôi ba người mang án tử hình, sẽ bị xử bắn vào sáng sớm ngày mai, chúng tôi có lời chào vĩnh biệt tất cả các anh em bạn tù, chúng tôi ba người mang án tử hình, sẽ bị xử bắn vào sáng sớm ngày mai, chúng tôi có lời chào vĩnh biệt tất cả các anh em còn ở lại. Tôi là Nguyễn Xuân Hùng, tự Ali Hùng, hai người bạn tôi, một là linh mục, một là chiến sĩ. Tôi là một người Việt Nam lai da đen, xứ Phi Châu Sénégalais, mẹ tôi là người Việt Nam, vậy tôi xin nhận nơi này làm quê hương, vì mẹ Việt Nam của tôi đã nuôi tôi khôn lớn và thành người. Trong phòng giam của tôi, vị linh mục đang quỳ dâng mình cho Chúa, người bạn chiến sĩ thì đang huấn nhục. Tôi có giọng khỏe, xin được hát thân tặng lại tất cả những anh em còn ở lại. Những bài hát thấm đượm tình quê hương của Phạm Duy mà tôi rất ngưỡng mộ: Chúng tôi đã mất Sài Gòn thật rồi.”(31)
Chúng
tôi lưu ý đến vụ án này là vì theo một nhân chứng rất quan trong là ông
Trần Kim Định, bị án tù chung thân viết lại cho biết:
Trên xe về trại, Ali Hùng nói với tôi:“Em thật không ngờ ông cha Lịch lại nhẫn tâm làm chứng gian cho em. Từ việc bắn chết tên Rạng đến việc dùng loa phát thanh đều do Dũng làm. Tòa án đã cố tìm chứng cớ để cho đủ bản án tử hình.”
(Trần Kim Định, Hồi ký của Trung tá Trần Kim Định).
Phần tôi thì tin vào lời trối trăn của Ali Hùng. Linh mục thì không còn nữa.
Phải chăng Lý Chánh Trung hoặc Nguyễn Đình Đầu có thể viết lại chuyện này?
Bộ trưởng Quốc Phòng Lê Đức Anh và con trai Lý Chánh Trung, Lý Chánh Dũng: “Nói láo.”
Đây
là chỉ là câu chuyện nhỏ nhắc lại cho vui. Nhắc đến các con ông, tôi
nhớ là trong một lúc vui miệng, ông kể câu chuyện có lần ông Lê Đức Anh
đến thăm một đơn vị quân đội có nói gì đó đụng chạm đến cá nhân Lý Chánh
Trung. Không ngờ con trai Lý Chánh Trung cũng có mặt bữa đó. Lý Chánh
Dũng, một đại úy mới về từ chiến trường Cam Pu Chia cũng có mặt.
Muốn
hiểu đầu đuôi thì cần phải nhắc lại, khi còn làm đại biểu Quốc Hội, Lý
Chánh Trung có đề nghị phải cho báo chí tư nhân hoạt động.
Lời
đề nghị đó đi quá xa và làm Nguyễn Văn Linh nổi giận. Bà Ngô Bá Thành –
một thành viên của mặt trận cũng hùa theo phê phán Lý Chánh Trung dữ
dội.
Tiếp
theo, Lý Chánh Trung nguyên là Phó chủ tịch Hội Trí thức yêu nước nên
có đồng ý để cho tổ chức một buổi nói chuyện cho nhà văn Dương Thu Hương
nói về cuốn tiểu thuyết đang gây tranh cãi hồi đó nhan đề, Những Thiên đường mù.
Rõ ràng là một cuốn sách chống Đảng.
Từ đó, Lý Chánh Trung không được Mặt trận Tổ Quốc đề cử vào danh sách đại biểu Quốc Hội nữa.
Dư
luận còn cho rằng, lợi dụng tình hình ở Đông Âu sụp đổ, một số thành
phần thuộc lực lượng thứ ba trước đây nay đang có mưu đồ diễn tiến Hòa
Bình.
Lê Đức Anh lợi dụng dịp nảy đưa ra trường họp Lý Chánh Trung trong bài nói chuyện của ông ta để mọi cấp cảnh giác.
Nhưng
chẳng may có mặt con trai của ông Lý Chánh Trung ngồi đó. Dũng tức khí
vì có kẻ đụng chạm đến bố mình – bất kể kẻ đó là ai – anh tức khí đứng
lên, đập bàn hét lớn, “Nói láo”, rồi vội rời khỏi Hội trường. Sau này,
Lý Chánh Dũng ra khỏi quân đội và làm Tổng Biên Tập tờ Đại Đoàn kết.
Câu chuyện rồi cũng xong, được Lê Đức Anh bỏ qua.
Giả dụ nếu không phải là con trai Lý Chánh Trung thì số phận viên đại úy quèn này sẽ ra sao?
Kể xong câu chuyện, Lý Chánh Trung cười một cách rất con người – một Lý Chánh Trung rất là Lý Chánh Trung.
Tôi cũng cười nói, “Như thế là nó giống bố nó.”
Tôi
cảm nhận và bắt gặp lại cái cười nửa miệng hơn 40 năm về trước của một
trí thức miền Nam – với cá tính miền Nam – với phong cách trí thứ áo
vét, măng tô – với cái miệng ngậm ống tẩu – đôi chút cao ngạo cùng nhau
dạo buổi tối trên một con dốc của Viện Đại Học Đà Lạt.
Tôi
ngậm ngùi đã có một thời, cuộc sống của người miền Nam có thể sống an
bình hạnh phúc như thế. Con người trí thức xưa ấy và con người ngày hôm
nay ngồi trước mặt tôi, hình như không phải một người.
Sau
vài giây phút thoải mái, Lý Chánh Trung trở lại con người thay vì khoác
măng tô mang từ Bỉ về, ông khoác lại chiếc áo Mác xít và nói:
“Này nói chơi thôi nhé, đừng kể cho ai nghe và về bên ấy nhớ đừng viết gì cả.”
Lý Chánh Trung bỏ đạo Chúa theo Mác
Nhắc
lại vấn đề này cho thấy cộng sản có thể dùng áp lực chi phối con người
ngay cả trong lãnh vực niềm tin tôn giáo. Một người công giáo bỏ đạo là
điều khó lắm, không dễ. Nhất là bỏ đạo vì áp lực của Đảng. Điều đáng
trách nhất nơi ông – mà điều gì khác cũng có thể xí xóa được – là khi
cộng sản vào một thời gian, trước mặt nhiều người, ông tuyên bố công
khai kể từ nay, ông bỏ đạo công giáo.
Việc công khai hóa ấy ông muốn chứng tỏ cho mọi người biết mà không cần dấu diếm.
Việc
công bố này làm bỉ mặt nhiều người. Nhất là những người công giáo. Một
người công giáo bình thường không ai làm như vậy. Có ai bắt ông phải làm
một điều như vậy? Bỏ đạo thì có người đã từng làm, nhưng công bố bỏ đạo
là một điều ít ai trên đời này có thể làm được.
Và
được biết, chỉ đến khi con trai ông bị nạn. Ông than thở, cầu cứu khắp
nơi và cuối cùng chẳng còn biết trông cậy vào ai, ông mới hồi tâm trở
lại đạo.
Tuy
nhiên, theo tôi được biết thì hiện nay kể như cả gia đình ông đều ra
khỏi công giáo. Tôi cũng được biết rằng ảnh hưởng gia đình bên vợ ông
trong những quyết định của ông theo cộng sản là điều không nhỏ.
Khi con trai ông qua đời, không thấy đả động gì đến các nghi thức công giáo cả?
Thôi thì cũng đành.
Sau
1975, ông đã sống khuôn mình vào môi trường CNXH vốn không dễ gì. Bởi
vì, con người Xã Hội chủ nghĩa, ngoài sức khỏe thể xác và tinh thần còn
có một thứ sức khỏe không thiếu được: Đó là sức khỏe chính trị.
Theo sự nhận xét của riêng cá nhân tôi, ông Lý Chánh Trung là người
bằng mọi giá bảo vệ các sức khỏe chính trị này. Tất cả những cánh bạn bè
trí thức cũ hầu như đều tìm cách lánh xa ông và chính ông cũng tìm cách
lánh xa họ để giữ cho trọn vẹn cái sức khỏe chính trị ấy.
Tôi cũng nhận ra được những nỗi khổ của người trí thức biết câm lặng, biết nói điều gì được phép nói.
Mất cái sức khỏe này thì mất tất cả nên ai cũng phải lo giữ gìn.
Cho
nên, người ta không lấy làm lạ gì khi cấp lãnh đạo Đảng vào thăm thành
phố Saigòn năm 1975 đã chỉ đưa ra một nhận xét duy nhất cho một người –
một nhận xét xem ra quá khổ về Lý Chánh Trung: Lý Chánh Trung là một người cộng sản không có thẻ đảng.
Lời
khen này có thể là một lời khen thật – vì ông được đề nghị cho vô Quốc
Hội mà cũng có thể hàm ý anh vừa vừa thôi nhé, đủ dose rồi, như một lời
đe dọa bóng gió.
Lời nói bóng gió ấy chắc có kẻ sợ giữ mình.
Tôi đã không được biết phản ứng và câu trả lời của Lý Chánh Trung ra sao. Chắc là im lặng.
Nguyễn Văn Trung – Lý Chánh Trung đối đấu với Lữ Phương và Nguyễn Trọng Văn
Có
thể nói việc tố giác của Nguyễn Trọng Văn và Lữ Phương chỉ là một phiên
bản mới, tái diễn lại của những cuộc đấu tố đã một thời trong cải cách
ruộng đất. Hay nói đúng hơn, nó gần với phiên bản tố giác như trong vụ
Nhân Văn Giai Phẩm?
Hiện
tượng tố giác này, sau 20 năm sống ở miền Nam, tôi chưa hề bao giờ thấy
xẩy ra. Tại sao Nguyễn Trọng Văn vốn cũng là một trí thức miền Nam có
hạng, trở thành một tên chỉ điểm, đi tố giác đàn anh.
Kẻ
đi tố cáo đã tự làm mất bản thân mình trở thành tên đao phủ như trường
hợp Tố Hữu tố Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần trong Nhân Văn Giai Phẩm?
Trước
những lời tố cáo như thế, Lý Chánh Trung giữ thái độ im lặng. Theo tôi,
sự tố giác của Lữ Phương, Nguyễn Trọng Văn không phải là trực tiếp do
hai người đó tự làm. Họ được bật đèn xanh và khuyến dụ cho sự tố cáo
nhau trong hàng ngũ trí thức thành phần thứ ba ở miền Nam.
Rõ ràng, Lý Chánh Trung cũng chỉ là một con bài mà ngay cả kẻ đi tố giác cũng chỉ là một con bài của chế độ cộng sản.
Đó là sách lược cộng sản chia để trị, dùng người này khống trị người kia, đe dọa và răn đe.
Trước
1975, ông nghênh ngang ngậm tẩu, đầy phong cách trí thức, đầy tự tin,
tham dự các cuộc mít tinh biểu tình như một thứ lãnh tụ sinh viên.
Sau 1975, ông học làm thinh.
Sự
làm thinh ấy là một sự khôn ngoan cộng sản để sống còn. Thích Trí Quang
cũng đã làm như vậy trong suốt hơn 40 năm trời. Và trí thức ngoài miền
Bắc của nhiều thế hệ từ Nguyễn Tuân đến những lớp đàn em, đàn em của đàn
em cũng đã học được bài học biết làm thinh như vậy để sống còn.
Và
để gỡ tội với chế độ, ông đã điều chỉnh cách nhìn, quay 180 độ, đổi
giọng. Và đây mới là điều đáng trách, đây mới là điều tủi hổ cho trí
thức miền Nam.
Thà chạy mẹ ra nước ngoài cho yên. Thà buông súng đầu hàng.
Hay thà ngồi trong trại Cải Tạo nó bảo trắng thì mình bảo trắng, nó bảo đen thì mình bảo đen.
Ở đây có ai bắt ông chịu nhục phải viết như thế!
Trong một bài phỏng vấn của nhà báo Alain Ruscio, ông nói với một giọng điệu nịnh bợ, dối trá và hèn mạt như sau:
“Đã từ lâu, tôi vẫn mơ một cuộc cách mạng khoan hòa, đúng mực và khoan nhượng… Chủ nghĩa xã hội Việt Nam đã đáp đúng nguyện vọng của tôi. Chúng tôi đã làm mọi cách để xã hội mới được hình thành với ít đau đớn bao nhiêu hay bấy nhiêu. Ảnh hưởng của Hồ Chí Minh về điều này là một yếu tố quyết định.”(32)
Ở
chỗ bạn bè, chỗ những người quốc gia, ông lý luận rất khéo léo để che
đậy, rất thuyết phục. Câu nói sau đây có vẻ can trường lắm:
Tôi chỉ đồng hành với họ (cộng sản), nhưng không là đồng chí.
Một lối nói ngụy biện chỉ những tay biện luận triết học có tay nghề mới nói được như thế.
Bởi
vì cũng trong một bài trả lời phỏng vấn Alain Ruscio, ông được coi là
dại diện cho thành phần thứ ba, ông lại nói khác. Ông cho rằng:
“Người ta không thể nào là người yêu nước, yêu hòa bình, hòa hợp dân tộc mà lại đồng thời có thể chống lại cộng sản.”(33)
Ở
đây lại là một lối ngụy biện cao đồng hóa tình tự yêu nước và yêu Đảng
vào làm một. Yêu nước và yêu đảng là một là một luận điệu rẻ tiền ngụy
trá của người cộng sản quen dùng!
Điều
này rõ ràng ông học được – không phải từ trường đại học Louvain – mà từ
trường Đảng, trường dạy ngụy biện gian dối có đẳng cấp nhất mà tôi
thường được nghe từ những nhà trí thức đủ loại ở Hà Nội.
Tôi
có thể bỏ qua cho ông tất cả những gì ông đã làm, đã nói trước 1975.
Nhưng thật là khó cho tôi không thể dung nhượng được những điều ông nói
và làm sau 1975.
Nói
cho cùng, cả Lý Chánh Trung, cả Nguyễn Trọng Văn tiêu biểu cho một bi
kịch của trí thức miền Nam sau 1975. Bi kịch của những kẻ được coi là kẻ
dư thừa, không bao giờ được cộng sản tin dùng.
Có
lẽ lời nhận định của Nguyễn Văn Trung đáng lẽ trước tiên phải được dành
ưu tiên cho Lý Chánh Trung – người bạn đồng hành của ông – mới phải:
Tham gia cách mạng là tham gia vào quá trình tự tiêu diệt chính mình.
Cái
độc ác và cái tàn bạo của cộng sản là biết dùng người này trị người
kia. Họ tạo ra những hiểu lầm, những mâu thuẫn để những kẻ đáng nhẽ tôn
trọng nhau như thầy trò trở thành phường ăn cháo đái bát, phản bội và ám
hại nhau bằng đủ thứ tố cáo.
Điều
ấy đã xảy ra trong các trại cải tạo, trong trường học, trong tổ chức
tôn giáo và ngay cả trong phạm vi một gia đình và trong những các bản tự
khai. Con tố cao cha, vợ tố cáo chồng!
Xã
hội mất mẹ nó niềm tin vào nhau. Đi dạy học thì cẩn thận từng lời nói,
từng cử chỉ kẻo có những đứa học trò được chỉ thị theo dõi thầy. Xã hội
làm sao không đảo điên!
Con người tự hạ mình mất nhân cách trở thành ăng ten, trở thành những tên điểm chỉ.
Cho
đến bây giờ, khi nhắc lại vụ phê bình của Lữ Phương và Nguyễn Trọng Văn
(có thêm một người nữa là ông Nguyễn Văn Bảy) về hai người đàn anh của
họ là Nguyễn Văn Trung-Lý Chánh Trung, tôi không còn mang nỗi bực tức
như trước đây nữa.
Mà
hiểu rằng, điều đó nó phải xảy ra như thế trong một xã hội cộng sản,
trong đó người ta nghi ngờ nhau, tố cáo nhau, triệt hạ nhau. Và nếu
trong tay có quyền thế họ có thể hạ bệ, cách chức và cả thanh trừng nữa.
Các cuộc thanh toán nội bộ đã xảy ra như chuyện cơm bữa trong đám quyền lực của đảng.
Lữ Phương, Nguyễn Trọng Văn đã làm theo đúng sách vở, và nhiều phần làm theo lệnh Đảng hoặc làm để lấy điểm.
Cứ
giả dụ rằng không có 1975 thì mối giao hảo giữa Nguyễn Trọng Văn, Lữ
Phương đối với Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung – dù có không ưa nhau đi
nữa – đã không bao giờ có cảnh tố thầy trên báo như thế!
Cho
nên, tôi sẽ không đề cập đến vấn đề nội dung phê bình đúng sai. Những
nạn nhân như ông Lý Chánh Trung thì nay không còn biết gì nữa. Nguyễn
Văn Trung thì từ lâu đã gác mọi chuyện và để ngoài tai cả mười năm nay
rồi.
Phần
Lữ Phương thì cũng đã thấm đòn, thất vọng ngay từ sau 1975 đã không
được trọng dụng và ở thế ngồi chơi xơi nước. Sau đó xoay ra ngồi nghiên
cứu phê bình chủ nghĩa Mác xít – mà tự nó, chủ nghĩa này đã lỗi thời –
nên cũng chẳng ai quan tâm và chẳng gây đuợc tiếng vang gì.
Nguyễn Trọng Văn thì giọng phê bình như đao búa, gần như mạt sát nẩy lửa. Đó cũng là cái tài của anh ta.
Chẳng
bao lâu sau, lấy điểm cũng không xong, anh ta bị Đảng cấm cầm bút. Sau
đó thì anh ta bị tai biến mạch máu não, phải ngồi xe lăn, và qua đời
cách đây được hơn một năm.
Cuộc
đời Nguyễn Trọng Văn có cái may là cả hai đời vợ đều tốt nết. Người vợ
đầu tôi thấy chị ấy thật là hiền thục. Ít nói, hỏi gì chị chỉ cười nhẹ.
Người vợ thứ hai nhanh nhẹn, xinh xắn, hết lòng chăm sóc lo cho Nguyễn
Trọng Văn từng miếng cơm.
Còn
ngoài ra, con người Nguyễn Trọng Văn, ngay từ ngày còn ngồi trên ghế
nhà trường đại học, tôi đã nhận ra tính bá đạo dựa trên những suy luận
biện chứng.
Trong
một bữa ăn tụ họp anh em bạn bè cũ cùng học, sau 1975, khi tôi có dịp
về thăm Việt Nam. Một người bạn đã chỉ thẳng mặt Nguyễn Trọng Văn tố cáo
Văn đã làm chỉ điểm hại bạn bè.
Những
chuyện nghi ngờ như thế, khó kiểm chứng, khó biết thật là đúng hay sai
như chuyện làm ăng ten trong các trại cải tạo. Tôi đã đứng lên can thiệp
và yêu cầu anh bạn ngồi xuống để bữa ăn họp mặt được trọn vẹn.
Phần Nguyễn Trọng Văn ngồi im lặng, không phản ứng gì trong suốt bữa ăn.
Cảnh đó, nghĩ lại nay cũng thấy tội nghiệp. Bạn bè nghi kỵ, trở thành thù địch. Đàn em tố cáo, hại đàn anh.
Những điều như thế chỉ có thể xảy ra trong Xã Hội cộng sản.
Tôi
còn nhớ, khi Nguyễn Trọng Văn ra tòa xin ly dị với bà vợ người Tàu lai,
làm nghề châm cứu. Nguyễn Trọng Văn đã tố cáo vợ trước tòa đại loại như
sau:
“Đây là một người đàn bà bất xứng, phản bội lại tổ quốc vì đã vươt biển. Vậy thưa quý tòa, người đàn bà này có còn xứng đáng có quyền để nuôi giữ đứa con trai của tôi Không?”
Quan
tòa nghe vậy thì chột dạ đành quyết định trao đứa con trai cho Nguyễn
Trọng Văn. Nghe chuyện này, anh em bạn bè đều ngao ngán.
Riêng Nguyễn Ngọc Lan (linh mục hoàn tục), một cây viết phê bình sắc sảo và khá thâm độc cũng phải lắc đầu: Thật chịu thầy thôi.
Hai bài tham luận của Lữ Phương và Nguyễn Trọng Văn cùng một chủ đề.
Bài của Nguyễn Văn Bảy nhan đề Phê Bình quan điểm Cách Mạng Xã Hội không cộng sản của hai ông Nguyễn Văn Trung trong Nhận Định IV, Nam Sơn, tháng 5-1966 và của Lý Chánh Trung, trong Cách mạng và Đạo Đức, Nam Sơn, tháng 1-1966
Bài của Lữ Phương nhan đề Vài ý kiến về các xu hướng gọi là ‘Cách mạng Xã Hội không cộng sản’, ở miền Nam trước đây.
Bài của Nguyễn Trọng Văn nhan đề Chủ
nghĩa Xã hội không cộng sản tại miền Nam Việt Nam – Nội dung và ảnh
hưởng. (Tham luận của Nguyễn Trọng Văn, tại Đại học Tổng Hợp, cơ sở hai,
TP Hồ Chí Minh).
Lý Chánh Trung và về một môn học mà thầy không muốn dạy và trò không muốn học
Tôi
đang ở Munich tại nhà một người bạn vào năm 1988 thì được cho biết là
có một bài báo đang gây sôi nổi lắm ở Việt Nam của Lý Chánh Trung. Bài
báo được đăng trên tờ Tuổi Trẻ chủ nhật, 13-11-1988.
Thú thật đây là bài báo gây sảng khoái, thích thú nhất trong số cả trăm bài khác của ông Lý Chánh Trung mà tôi đã đọc.
Tôi thầm nghĩ trong bụng, phải như thế mới là Lý Chánh Trung.
Ông
viết thật xuất phát từ tim gan, viết gọn ngắn, rất thẳng thừng. Dù ngắn
gọn cũng là ấp ủ một hoài bão muốn xóa bỏ môn học chết tiệt đó.
Hơn
ai hết, một người thấm nhuần tư tưởng văn học, triết học từ phương Tây
làm sao chịu thấu những định đề cứng nhắc của triết học Mác xít?
Một
nền giáo dục xứng đáng, nhân bản đôi khi chỉ cần là biết trở về nguồn,
trở về nguồn cõi đích thực mà cha ông bao đời đã để lại.
Người ta đã biến một lý thuyết xã hội thành phương châm, thành một thứ luân lý chính trị làm kiểu mẫu đạo đức cho giáo dục Việt Nam, cho con người Việt Nam cho thế hệ trẻ Việt Nam.
Giáo dục Việt Nam ngày nay nó hỏng từ đó, mục ruỗng từ đó.
Tưởng rằng sau đó nó sẽ được thay đổi!
Cái
môn học ấy mà Lý Chánh Trung cho rằng nó làm khổ thầy giáo, làm khổ học
trò từ bao nhiêu năm rồi! Không muốn dậy mà cứ phải dậy, không muốn học
mà cứ phải học. Học như vẹt. Nay mới có một người dám nói lên sự thật.
Bài
báo gây chấn động, gây thích thú cho mọi người. Ông Đoàn Thanh Liêm có
kể lại rằng, có một nhân sĩ sau khi đọc xong bài này đã nhờ ông Liêm gửi
tặng ông Lý Chánh Trung một món tiền(34).
Phần tôi nghĩ rằng câu nói của Lý Chánh Trung sẽ mãi mãi được người đời ghi nhớ chẳng khác gì câu nói của ông Nguyễn Văn Thiệu.
Buồn
thay vào ngày 22-12-2004, Bộ giáo dục đào tạo đã đưa ra hai phương án
cho các trường đại học áp dụng kỳ thi tốt nghiệp phải có môn học
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phần kết luận
Nói
về hành trạng của một người trí thức miền Nam thì từng ấy trang giấy
hẳn là vẫn không đủ. Nhưng phải chấp nhận cái giới hạn của chữ nghĩa với
chừng ấy sự kiện và bằng cớ.
Khi
suy nghĩ về trường hợp Lý Chánh Trung xin thưa rằng như viết về nhiều
người khác, tôi không có một liên hệ ân oán gì, ngược lại có nhiều thời
gian với những kỷ niệm đẹp, với những giao tình trong mối quan hệ nhiều
phía mà không thiếu sự trân trọng tầm mức trí thức của người họ Lý.
Nhưng
chính ở chỗ đó, tôi có một cảm thức chua xót là tại sao người cộng sản
đã có khả năng khuyến dụ, uốn nắn ngay cả chỉ đạo và bịt mắt một người
trí thức như Lý Chánh Trung.
Nay đã có biết bao nhiêu trí thức đã thức tỉnh và bầy tỏ sự hối hận vì đã có thời lầm lỡ.
Riêng
Lý Chánh Trung thì nay trí nhớ hầu như xa vắng và ông không có cơ hội
để bày tỏ một thái độ trí thức dứt khoát như những người khác.
Có lẽ, đó là điều đáng tiếc nhất cho ông. Một bi kịch làm người trong chế độ cộng sản.
Trước 1975, ông từng viết một bài nhan đề rất sâu sắc ác độc Nghĩ về một xã hội tan rã
để ám chỉ đến xã hội miền Nam trước 1975. Tôi nghĩ nếu bài viết ấy dùng
để mô tả xã hội hôm nay của chế độ cộng sản thì quả thực là một lời
tiên tri của Lý Chánh Trung!
© 2015 DCVOnline





0 comments:
Post a Comment