Khương Tử Dân
Quan hệ chính trị của Việt Cộng với Tầu cộng khắng khít, kết họp làm cầu
nối được Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai hóa họp từ ngày Hồ Chí Minh mang
danh xưng là Lý Thụy kết nghĩa phu thê với Tăng Tuyết Minh. Cuộc hôn
nhân này làm cầu nối để Hồ Chí Minh đời đời làm nô lệ cho Tầu cộng.
Quan hệ Tầu Việt cộng như có chất keo hóa học, dính liền kết nối với
nhau, như sông liền sông, núi liền núi, tình đồng chí, nghĩa thiên tử
chư hầu như đã được khẳng định từ thời Mao Trạch Đông, tiếp nối đến
Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, cho đến thái tử Tập Cận Bình…..Cái nguyên
lý ấy như đã khắc sâu vào đầu óc của các tên gian ác đầu não Tầu Việt
cộng, sẽ không bao giờ thay đổi từ khi đảng Cộng sản Việt nam được thành
lập năm 1930. Do đó tất cả các lãnh đạo chóp bu đảng Việt cộng trong
chức vụ Tổng bí thư, thủ tướng, chủ tịch đảng, có quyền lực nhất từ thời
Trần Phú, Lê Hồng Phong… Trường Chinh, Hồ Chí Minh, Lê Duẫn, Lê Đức
Thọ, Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh, Lê Khả Phiêu, Nông Đức
Mạnh, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang…. phải lần lược
thăm viếng, triều cống thiên triều Tầu cộng để nhận mệnh lệnh, chỉ đạo
của tân chủ tịch Tập Cận Bình theo nghi thức của một nước chư hầu.
Hệ thống tuyên truyền của Việt cộng loan tin là chủ tịch Trương Tấn Sang
bị triệu tập là để “hội đàm” với tổng bí thư, chủ tịch Tập Cận Bình cho
có vẻ phong thái tư cách của một chủ tịch nước Việt cộng. Trên thực tế,
Trương Tấn Sang không được hội đàm với Tập Cận Bình mà chỉ được hội đàm
với Lý Khắc Cường, thủ tướng. Văn bản tuyên bố chung, bao gồm những
thỏa thuận về biên giới lãnh thổ ở phương Bắc với Tầu cộng, và về lãnh
hải trong Vịnh Bắc Việt. Tầu cộng không đề cập tới các việc tranh chấp ở
Biển Đông, nhất là về chủ quyền của hai đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Tầu
cộng đã tự xem công hàm của Phạm văn Đồng ký năm 1958 đã đương nhiên thừa nhận chủ quyền của Tầu cộng trên Biển Đông và hai đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trương
Tấn Sang cũng không đề cập đặt câu hỏi về vấn đề này, vì đã không có
trong chương trình nghị sự cho ba ngày thăm viếng của chủ tịch Trương
Tấn Sang. Tại sao Trương Tấn Sang lại lếu láo với quần chúng trong nước
trước ngày lên đường đi triều cống thiên triều Tầu cộng? Chắc không
ngoài mục đích năng nổ, lừa bịp, lường gạt dư luận theo bản chất, truyền
thống của Việt cộng?
Mở đầu bản tuyên bố chung, Tầu cộng đã đem ý nghĩa về 16 chữ vàng, và 4 tốt để nhắc nhở Trương Tấn Sang cùng phái đoàn gia nô, và đảng bán nước buôn dân Việt cộng ghi tâm khắc cốt: “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” trong tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt. Tầu
cộng đã cố tình nhắc nhở Việt cộng đến bài học mà Đặng Tiểu Bình đã dạy
cho Việt cộng, và những giáo điều Giang Trạch Dân đã đề ra. Đâylà thái
độ trịch thượng của Tầu cộng đối với một nước chư hầu.
Theo tuyên truyền báo lề phải của Việt cộng thì cuộc chiến với Tầu
cộng năm 1979 chỉ xảy ra ngắn hạn vì Tầu cộng đã tổn thất nặng nề, phải
rút quân. Việt cộng đã chiến thắng. Tuy tuyên bố là chiến thắng, nhưng Việt cộng lại phải cắt đất ở biên giới, mất Bản Giốc, Aỉ Nam Quan và mất cả đảo Trường Sa năm 1988.
Báo chí ngoại quốc đã thông tin là trận chiến ờ biên giới Bắc Việt cộng
đã tiếp diễn đến cuối năm 1989. Như vậy cuộc chiến với Tầu Cộng đã kéo
dài ít nhất 10 năm, không phải ngắn hạn. Chiến tranh Tầu Việt cộng
trong quan hệ tình đồng chí nghĩa đồng đô, quyền lợi biên giới, lãnh
hải đã giết hại hàng trăm ngàn dân lành vô tội, không ngoài mục đích
độc tài cướp của, chiếm đoạt tài sản của dân, của đất nước. Đảng Việt
cộng đã hành động không khác gì những tên cướp của một đảng cướp tàn
nhẫn, dã man. Cả hai đảng Việt Tầu cộng đều gian ác, tàn nhẫn như nhau.
Họ muốn cầm quyền, cai trị, bất chấp thủ đoạn để tồn tại trên xương máu,
xác chết của dân.
Bản văn tuyên bố chung Việt Trung đã phơi bày sự thật về những quan
hệ , quyền lợi tranh đoạt, cưỡng chiếm của loài súc sinh Việt Tầu cộng.
Việt cộng đã tự biểu lộ bản chất gian ác, tàn nhẫn, mưu đồ bán nước buôn
dân trong suốt hơn tám thập niên qua, để tận diệt những ai đối kháng,
chống đối với đảng và nhà nước bất chấp họ là công nhân viên, nông dân
hay thành phần “trí phú, địa, hào”. Dưới chế độ cộng sản chỉ có đảng
viên Việt cộng, đồng hành dưới lá cờ máu, có cùng bản chất tàn nhẫn,
gian manh thì sống còn, cùng xây dựng một giai cập tư bản đỏ độc tôn,
độc tài, vô thần, vô tôn giáo, vô gia đình. Người Việt tự do chắc chắc
đã dứt khoát, khẳng định sẽ không bao giờ hoà giải, hòa họp, đoàn kết
với bọn người tàn nhẫn, khát máu, vô nhân tính.
Dĩ nhiên là bọn Việt cộng không bao giờ quên được cuộc chiến với Tầu
cộng năm 1979 mà Đặng Tiểu Bình đã dạy cho Việt cộng một bài học đích
đáng. Bài học này đã kéo dài hơn ba thập niên, chừ phải ký kết bản tuyên
bố chung, phơi bày sự thật , để lộ nguyên dạng hình hài cẩu nô khuyển
mã, bán nước buôn dân để cầu vinh. Kịch bản chư hầu, cẩu nô, tay sai
khuyển mã của đảng Việt cộng sẽ không thay đổi trong vai trò chó săn để
được tiếp tục bốc lột, đánh cướp dân lành địa phương như hơn tám thập
niên qua, để duy trì quyền lực đảng, tài sản của giai cấp tư bản đỏ đã
đánh cướp, cưỡng chiếm được từ sau ngày quốc hận 30/4/75. Đảng Việt
cộng, không có sự chọn lựa nào khác để giữ đảng, ngoài hình thức bán
nước mà PhạmVăn Đồng và Hồ Chí Minh đã làm. Toàn văn bản tuyên bố chung
đã ký kết với Tầu cộng ngày 21/6/13 đã phơi bày vai trò chư hầu, cẩu nô
của Việt cộng. Tất cả những văn kiện về kinh tế, tài chánh, nông
nghiệp, chính trị, văn hóa, giáo dục, quân đội, công an, cảnh sát… trong
bản tuyên bố chung là những bản an chung thân khỗ sai cho toàn đảng
viên lớn nhỏ của đảng Việt cộng bán nước buôn dân. Đảng Việt cộng đã để
lại một kịch bản tàn nhẫn, gian ác nhất trong lịch sử bán nước buôn dân.
Giặc nội xâm Việt cộng Hanội đã hoàn toàn lệ thuộc giặc ngoại xâm Tầu
cộng dưới mọi hình thức. Đấy là một điều ô nhục cho đảng Việt cộng, đã
phải bán vịnh, bán biển, bán đảo, bán lãnh thỗ, chịu ô nhục, quỳ lạy Tầu
cộng để giữ đảng, dù phải làm tay sai, khuyển mã, cẩu nô cho Tâu cộng.
Sau khi nhắc nhở cho Việt cộng Hà nội biết rõ về quan hệ, lệ thuộc
qua 16 chữ vàng và 4 tốt, bản tuyên bố đã đi sâu vào vấn đề đã được ký
kết để khẳng định đường ranh giới lãnh thổ qua các tỉnh miền Bắc liền
biên giới Tầu cộng. Đấy là hậu quả thảm bại trong cuộc
chiến 1979-1989 với Tầu cộng mà Việt cộng đã chấp nhận để giữ đảng.
Việt cộng lúc đó ôm chân Liên Sô, bỏ Tầu theo Liên sô, nhưng không ngờ
Liên sô cũng tan rả, Việt cộng lại trở về với Tầu, quỳ lạy xin làm chư
hầu trong mưu đồ tiếp tục cai trị toàn dân, toàn lãnh thổ Việt Nam. Cái
nhục nhã đó đã biều hiện rõ trong các văn bản đã ký kết trong tuyên bố
chung với lãnh đạo Tầu cộng. Như công trình xây dựng xa lộ cao tốc,
đường sắt cao tốc từ Lào Cai và tử Lạng Sơn dẫn tới Hà Nội, hải Phong,
Quãng Ninh theo đúng chỉ đạo về tiến trình, qui hoạch của Tầu cộng đề
xuất. Thực hiện tam giác Côn Minh, Nam Ninh và Quãng Ninh qua trục
Côn minh- Hà Nội, Hài Phòng thành một vùng tam giác kinh tế Việt Trung
toàn khu vực rộng lớn. Nhưng thực tế Tầu cộng chỉ muốn tập trung tại các tỉnh thành quan trọng đông dân cư như Hà nội, Hải phòng, và Quãng ninh nên đã đề xuất ra một khu vực kinh tế mới Việt Trung, được mệnh danh là “Hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt Trung”đối
diện với Vịnh Bắc và đảo Hải Nam. Các đảng viên thuộc giai cắp tp bản
đỏ đã vui mừng mở cờ trong bụng vì đấy là cơ hội để cưỡng đoạt đất đai,
ruộng vườn của dân lành để bán lại cho các tập đoàn lợi ích tư bản đỏ có
các dự án đầu tư vào lãnh vực địa ốc, khách sạn, lầu xanh, lầu
hồng…..Loài súc vật khi sinh sống không bao giờ biết suy tưởng đến vấn
đề giáo dục, không khác gì lãnh đạo Việt Tầu cộng. Trong quy hoạch họ
không bao giờ đề cập tới nhu cầu, vấn đề giáo dục cho cho con em, học
sinh và sinh viên…. trong một khu vực, vành đai kinh tế bao gôm nhiều
thành phố lớn, nhiều tỉnh như vậy. Thật đáng tiếc, và tội nghiệp cho
loài súc sinh Việt cộng vô cùng. Có thể vì đó là bản chất súc sinh, tàn
nhẩn, gian ác vô nhân tính của người cộng sản?
Hành lang thứ nhất bắt đầu từ Côn Minh thuộc tỉnh Vân Nam, xuyên qua các tỉnh như: Côn Minh-Lào Cai- Hà Nội – Hải Phòng – Quãng Ninh ; hành lang thứ hai gồm các tỉnh: Nam Ninh –Lạng Sơn- Hà nội -Hải Phòng-Quãng Ninh. Côn Minh là một thành phố lớn của tỉnh Vân Nam, kết nghĩa với Lào Cai; còn Nam Ninh cũng
là thành phố lớn của Quãng Tây, kết nghĩa với Quãng Ninh. Hành lang Côn
Minh- Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng-Quãng Ninh gồm có 4 thành phố của tỉnh
Vân Nam là Côn Minh, Ngọc Khuê, Hồng Hà và Văn Sơn; phía Việt cộng gồm có 8 thành phố tham gia là Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, và Quãng Ninh.
Hành lang Nam Ninh-Lạng Sơn-Hà nội-Hải Phòng-Quãng Ninh gồm có 3 thành phố của tỉnh Quảng Tây là Nam Ninh, Sùng Tà và Băng Tường tham gia cùng với 8 thành phố của Việt cộng là Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà nội, Hưng Yên, Hải dương, Hải Phòng và Quãng Ninh. Như vậy tuyến đường sắt cao tốc, và xa lộ cao tốc sẽ nối liền từ Côn Minh qua Lào Cai xuống Hà nội, Hải Phòng và Quãng Ninh. Một tuyến khác sẽ nối liền Nam Ninh xuống Lạng Sơn, Hà nội, Hải Phòng và Quãng Ninh. Nhìn chung, qui hoạch vành đai kinh tế Việt Trung sẽ
tập trung về các tỉnh thành nằm kề cạnh ngay trên bờ vịnh Bắc Việt,
Vịnh Hạ Long và đối diện với đảo Hải Nam của Trung cộng. Chiến lược hai hành lang, một vành đai kinh tế trên vịnh Bắc Việtthật
hấp dẫn vô cùng về cả ba mặt kinh tế thương mại và quân sự cho Tầu cộng
như tuyên bố chung do hai đảng Tầu Việt Cộng đã chỉ đạo rất minh bạch
là:
“Hai bên nhất trí tăng cường hơn nữa hợp tác giữa các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước, nhất là giữa7 tỉnh của Việt Nam gồm Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quãng Ninh với 4 tỉnh (khu tự trị) của Trung Quốc gồm Quãng Đông, Quãng Tây, Hải Nam, Vân Nam; phát
huy vai trò của cơ chế hợp tác liên quan giữa địa phương hai nước; tập
trung thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế – thương mại, cơ sở hạ
tầng giao thông, khoa học, giáo dục, văn hóa, y tế… thúc đẩy các tỉnh,
khu tự trị biên giới hai nước cùng phát triển.”
Nếu nhìn lại quan hệ Tàu Việt cộng, có thể nói Đặng Tiểu Bình đã có ý đồ này từ lâu, cho đến khiGiang Trạch Dân lên thay thế vị trí Tổng bí thư, chủ tịch nước, đảng cộng sản Tầu. Chính Giang Trạch Dân đã dùng mỹ nhân kế để đưa Lê Khả Phiêu, tổng bí thư đảng CSVN vào mê hồn trận tình dục, có con với gái điếm ở Bắc Kinh và áp đặt Lê Khả Phiêu phải
bán vịnh Bắc Việt cho Tàu cộng với giá 2 tỷ mỹ kim. Kết cục của sự kiện
chính trị trong quan hệ Việt Tầu cộng được hình thành qua tình đồng chí
khắng khít dưới hình thức “hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt-Tầu
cộng”, và đã được ghi nhớ trong bản văn kiện tuyên bố chung của Trương
Tấn Sang với Tầu cộng. Trên thực tế qui hoạch hai hành lang, một vành
đai kinh tế Việt Tầu cộng đã được Tàu cộng móm cho nguyên thủ tướng
Phan Văn Khải thực hiện từ năm 2004, đảng Việt cộng đã mua thời gian,
kéo dài đến thời Nguỹên Tấn Dũng, vì có thể đảng VC đã không còn thời
gian nữa để giữ đảng, ngoài phương cách ký nhận và thực hiện theo chỉ
đạo của Tập Cận Bình. Chiến lược hai hành lang, một vành đai kinh tể Việt Trung ở vinh Bắc Việt vô
hình chung đã vô hiệu chiến lược cờ vây của Obama đối với Trung
cộng. Chịn lược hai hanh lang, một vành đai kinh tế ờ Vịnh Bắc Bộ sẽ là
căn cứ điểm, làm cầu nối để Trung cộng giao thương với các nước ASEAN,
Úc, Ấn Độ, Nhật Hàn,… và cả thế giới. Bộ mặt thật bán nước buôn dân,
làm gia nô, khuyển mã của mấy tên lãnh đạo Việt cộng đã để lộ nguyên
hình hài chồn cáo.
Khi đề cập tới chiến lược hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt
Trung ngay vị trí Vịnh Bắc Việt đã vô tình để lộ ngày suy vong, tàn lụi
của đảng Việt cộng, đồng thời Tầu cộng đã biểu lộ nanh vuốt, mưu đồ
cưỡng chiếm lãnh thổ Việt cộng qua chiến lược kinh tế, thương mại, di
dân để đồng hóa, tiệm tiến theo chiến thuật vết dầu loan. Chiến lược hai
hành lang, một vành đai kinh tế Việt Trung chỉ là chiếc áo khoác làm mờ
mắt kẻ ham danh, ham tiền, ham lợi, nhưng tiềm ẩn, che giấu một mưu đồ,
dã tâm để đối kháng với chiến lược cờ vây của Mỹ. Qua vị trị địa chính
của chiến lược hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt Trung ở Vịnh
Bắc Vịệt, Tầu cộng có thêm vạn lần thuận lợi về các mặt như kinh tế, thương mại quân sự nói chung.
Ngoài ra, các mặt văn hóa, các khu vực tự trị về kinh tế, thương mại,
tài chính, nông nghiệp, ngư nghiệp, doanh nghiệp, công nghiệp, khoáng
sản, năng lượng, di dân…. Tầu cộng sẽ thực hiện theo chiến thuật vết dầu
loan để biến đảng viên Việt cộng lớn nhỏ thành những tên cẩu nô, Việt
gian tàn nhẫn gian ác hơn để cai trị toàn dân, toàn lãnh thổ.
Qua chiến lược ‘hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt Trung” ở
Vịnh Bắc Việt trước hết là nắm đầu được toàn bộ phận đầu não Việt cộng ở
Hà nội. Nếu có biến động , từ Tầu cộng sẽ dễ dàng đổ quân nhanh chống
sử dụng quân lực để đàn áp. Nhưng nếu không có một lực đề kháng nào của
Việt cộng, thì chiến lược hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt
Trung sẽ là cơ sở, căn cứ điểm quân sự, kinh tế, thương mại, nông
nghiệp, văn hóa… đầu tiên để Tầu cộng tổ chức xây dựng, hoàn chỉnh. Sau
đó sẽ tổ chức xây dựng điểm thứ hai cho chiến lược mới “hai hành lang,
một vành đai kinh tế khác cho Đà Nẵng, Nha Trang, Kuntum , Saigon Vũng
Tàu,Cần Thơ, Hà Tiên…. Dưới chiến lượct hai hành lang, một vành đai kinh
tế tương tự này, thế giới bên ngoài không thể can thiệp, và sức phản
kháng, đối đầu cũng sẽ không có địa thế thuận lợi, không đủ lực để làm
một cuộc nổi dậy thành công. Trong tương lai ngắn, cả nước Việt cộng sẽ
được hình thành dưới dạng “hai hanh lang một vành đai kinh tế” dưới sự
chỉ đạo của Tầu cộng.
Tại sao Tầu cộng lại chọn Vịnh Bắc Việt làm căn cứ đầu tiên để xây
dựng chiến thuật hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt Trung? Thứ
nhất là Lào Cai và Quãng ninh đã được Tầu cộng xây dựng, thiết đặt nội
gíán, để Lào Cai kết nghĩa với Côn Minh, và Quãng Ninh kết nghĩa với Nam
Ninh. Vịnh Bắc Việt đã được Giang Trạch Dân và Đặng Tiểu Bình có mưu đồ
từ lâu. Trước hết là có hải cảng Hải Phòng, tiếp liền với thủ đô Hà nội
rất thuận tiện cho trục lộ vận chuyển từ các tỉnh từ Vân Nam, Quãng Tây
tới vành đai kinh tế ngay Vịnh Bắc Việt. Chỉ dân số hai tỉnh Vân Nam và
Quãng Tây cũng đã hơn trội toàn dân nước Việt cộng, nhưng tổng sản
lượng GDP của hai tỉnh này lại gấp ba, gấp bốn lần hơn Việt cộng. Điều
quan trọng hơn cả là Vịnh Bắc Việt có thềm địa tầng , chất chứa vật liệu
hữu cơ thiên niên thoái hóa từ hơn 37 triệu năm do sông Hồng thải ra.
Do đó dưới đáy vịnh Bấc Việt tiểm ẩn một trữ lượng khí đốt, và dầu hỏa
rất đáng kể, tuy không khổng lồ như trữ lượng khí đốt và dầu hỏa ở thềm
lục địa Biển Đông, tức Biển Hoa Nam do vật liệu hữu cơ thiên nhiên, sinh
hóa hình thành.
Có thể nói, đó là một trữ lượng năng lượng quí giá đối với nhu cầu
công nghiệp cho Tầu cộng. Trên thực tế, đất nước Tầu cộng còn có nhiều
con sông lớn khác đổ ra biển Hoàng hải, và bỉển Hoa Đông. Thiết tưởng
chuyên viên về địa chất, dầu hỏa của Tầu cộng đã thừa biết vấn đề này,
nhưng đảng Tầu cộng có thể chưa muốn sử dụng tới. Những sự tranh chấp
gần đây giữa Tầu Cộng và Nhật bàn vể quần đảo Senkaku không người ở,
cũng không ngoài khối dầu khí và dầu hỏa tiềm ẩn dưới thềm biển Hoa Đông
do cửa sông Dương Tử thải ra. Hóa trình, diễn tiến xâm nhập quần đảo
Senkaku của Tầu cộng cũng sẽ tương tự như đã diễn tiến chiếm hai đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Nếu Nhật bản không hành động sớm, chiếm đảo
Senkaku thì có thể sẽ mất đảo, mất cả nguồn năng lượng dự trữ ở phía Tây
và Tây Bắc của đảo Senkaku. Tầu cộng chắc chắn sớm muộn gì cũng sẽ
thiết đặt giàn khoan dầu trong vùng đó, như đã diễn ra ở Biển Hoa Nam,
tức Biển Đông của Việt nam trước đây.
Qua bản tuyên bố chung của thiên triều Tầu cộng và nước chu hầu Việt
cộng, chúng ta đã thấy rõ là Tầu cộng không cần thiết phải đổ quân đàn
áp Việt cộng, mà họ sẽ sử dụng lá bài WTO, và các hiệp định ASEAN, TPP…
để quậy phá, làm suy yếu tiềm năng kinh tế của toàn thế giới. Chắc chắn
Tầu cộng sẽ không gây chiến với Việt cộng trong tình thế hiện tại. Việt
cộng đã gia nhập WTO từ đầu năm 2007, nay đã trên 6 năm, những ưu đãi
mà WTO danh cho thành viên mới gia nhập sau năm năm đã vượt qua giới
hạn. Việt cộng sẽ gặp nhiều khó khăn vô cùng về sự cạnh tranh, về luật
chơi, nhất là về kỹ thuật sản xuất, tài chính về giá cả. So với hàng của
Tầu cộng sẽ tràng ngập thị trường Việt Cộng, nhất là qua tuyên bố chung
ngày 21/6/13 giữa hai đảng cộng sản Việt Trung. Hiệp thương quốc tế
WTO qua các luật chơi giao thương, phẩm chất hàng hóa, ngân hàng và
giá cả, chắc chắn Việt cộng sẽ suy sụp thảm hại vì thiếu tiêu chuẩn,
thiếu kỹ thuật, sử dụng luật rừng rú. Nguồn ngoại tệ chính của Việt
cộng là từ xuất cảng sản phẩm thô, sản phẩm gia công như ngủ cốc, cao
su, ca phê, tiêu, va kháng sản, hải sản, nhưng sẽ bị Tầu cộng cạnh
tranh. Tầu cộng sẽ thuê đất ở Việt nam để trồng đủ loại ngủ cộng qui mô
hơn, có kỹ thuật khoa học hơn, do đó giá thành sẽ rẻ hơn, năng xuất cao
hơn. Trong lãnh vực tài chính, ngân hàng, theo qui luật WTO, nhiều ngân
hàng ngoại quốc sẽ đổ vào với vốn 100%.
Những chiêu bài “Chống Tầu, đuổi Việt cộng, cứu quê hương”, những
chiêu bài tháo gở độc tài của đảng cướp Vịêt Tân, những chiêu bài hòa
giải, hòa họp, và những chiêu bài đoàn kết với Việt cộng của tên ma đầu
bịp bợm Nguyễn Chính Kết của khối 8406, đã hiện nguyên hình hài gian
manh, lừa bịp, lường gạt cộng đồng người Mỹ gốc Việt và các cộng đồng
người Việt tự do toàn cầu. Thật ô nhục cho tập đoàn lãnh đạo cao niên,
bịnh hoạn, gian manh lâm thời vừa mới hình thành gian manh, lừa bịp, tự
dàn dựng, bầu bán gian manh, chẳng làm được trò hề gì. Ô nhục nhất là
ban lãnh đạo lâm thời của giáo viên tiến sĩ giả hình Nguỹên Ngọc Bích
vừa mới tượng hình, đã bị chết lâm sàng. Làm chính trị mà gian trá, lưu
manh ngay từ bước đầu tiên coi như đã tự sát, tự thiêu, tự hũy, tự diệt,
tự biến mất. Thật là một điều vô sỉ, ô nhục cho những chính trị dza
xôi thịt, xu thời côn đồ, lưu manh, họ tự dàn dựng ra các buổi họp, tự
dàn dựng ra qui tắc hội họp bầu cử, tự viết tuyên cáo quái thai, nghị
quyết dị dạng, khuyết tật, tự nhảy ra làm trò hề, múa rối trong cộng
đồng người Mỹ gốc Việt, để rồi họ tự ôm ô nhục để tự hũy, tự diệt. Cộng
đồng người Mỹ gốc Việt sau gần bốn thập niên, họ đã trãi nghiệm về
những vụ lừa bịp, bị lường gạt quá nhiều, họ có thêm kinh nghiệm, được
gíáo dục nhiều hơn, có trình độ kiến thức cao hơn, về chính trị, về xã
hội thật khó mà lừa bịp, lường gạt được họ.
Văn bản tuyên bố chung của Tầu Việt cộng, với những hình ảnh trên
internet, truyền thông đã làm dơ bộ mặt thật của một số chính trị dza
xôi thịt già, quá tuổi cao niên. Thật là ô nhục cho những kẻ ham danh,
ham lợi, ham tiền trong cáu tuổi bạc đầu, gần đất xa trời 80+/-. Trương
Tấn Sang đã tuyên bố lếu láo trước ngày lên đường đi triều cống Tầu
cộng, là sẽ đề cập đến dữ kiện Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Đông với Tập
Cận Bình. Chỉ đáng tiếc là Trương Tấn Sang không được có vị trí hội đàm
với Tập Cận Bình để nghe lời dạy bảo. Trương Tấn Sang chỉ được Lý Khắc
Cường dạy bảo như hình ảnh báo chí ngoại quốc đã đăng tải.
Thế cờ vây của Obama bày ra trước đây gần hai năm, tưởng chừng như
Tầu cộng đã ở vào thế bị động, bị bao vây tứ bề, không có lối thoát.
Nhưng gần đây, Tập Cận Bình đã đi những nước cờ mới rất ngoạn mục, xem
chừng chiến lược của Obama ở Đông Nam Á đối với Tàu cộng đã được Tập Cận
Bình tháo gở, hóa giải và làm cho chiến thuật bao vây Tầu cộng của
Obama bị vô hiệu hóa. Quan hệ hữu nghị của Nga Tầu đã khác xưa, sau khi
Tập Cận Bình và Putin hội kiến, trao đổi về mối quan hệ của hai nước. Cả
hai nhà lãnh đạo này đã thỏa thuận để tập đoàn dầu khí Rosneft của Ngacung
cấp dầu thô dài hạn cho Tầu trong 25 năm, trong giai đoạn đầu tiên
là 270 tỷ mỹ kim. Ngoài ra Nga-Tầu đã có kế hoạch, lập ống dẫn dầu từ
Nga thẳng qua Tầu, như vậy về vấn nạn năng lượng, nhiên liệu cho công
nghiệp Tầu, Tập Cận Bình đã giải quyết được một phần lớn, qua thế cờ vây
của Obama qua đường Biển Ấn Độ, và eo bỉển Malacca ở
Singapore-Malaysia-Indonesia. Chiến lược ngoại giao của Tập Cận Bình
đã cho thấy rõ là Tầu cộng chưa muốn có chiến tranh, mà đang tìm thế địa
chính ngoại giao với Nga để vừa làm lực cân bằng đối kháng với Mỹ.
Đồng thởi vừa áp đặt Việt cộng để duy trì thế mạnh ở Đông Nam Á, vừa dựa
vào chiến lược “hai hành lang một vành đai kinh tế Việt Trung ở ngay
Vịnh Bắc Việt làm căn cứ điểm để ra Biển Đông, giao thương với toàn thế
giới. Theo vị trị địa chính, chắc chắn Tập Cận Bình sẽ chỉ đạo cho
khu vực kinh tế tự trị của hai tỉnh Quãng Đông, và Hải Nam tham gia vào
chiến lược hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt Trung. Về phía Việt
cộng sẽ có chỉ thị phát triển vành đai kinh tế kéo dài xuống tận Quãng
Trị.
Nhưng mộng làm bá chủ độc chiếm Biển Đông của Tầu cộng trong chiến lược đàm phán song phương của Tàu cộng sẽ thảm bại, vì
không bao giờ Tầu cộng thuyết phục được các quốc gia khác đang sử dụng
eo biển Malacca và Biển Đông như Nhật Đại Hàn, Ấn Độ, Mỹ, Úc,
Philippines, Malaysia, Anh, Singapore, ….. Như đã chứng nghiệm, trong
chuyến công du đầu tiên trong vụ Thủ tướng, Lý Khắc Cường đã thất bại
thuyết phuc Ấn Đô. Ấn Độ đã không tán đồng chiến thuật đàm phán song phương của Tầu phương để thảo luận về các qui luật quốc tế ở Biển Đông.
Tầu cộng lập chiến lược “Hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt Trung” ở cận đông bắc Việt nam, tiếp giáp với hai tỉnh Vân Nam và Quãng Tây Trung cộng để làm bàn đạp, căn cứ điểm cho các hiệp thương ASEAN và TPP. Hành lang Côn Minh-Lào Cai- Hà nội-Haỉ Phòng-Quãng Ninh và hành lang Nam Ninh-Lạng Sơn-Hà nội-Hải Phòng-Quãng Ninh hình thành một vành đai kinh tế lớn để
hàng hóa của Tầu cộng ra biển lớn, tràng ngập thị trường thế giới. Điều
này ai cũng biết là giới tư bản đỏ Việt cộng sẽ bị thua thịêt nặng nề,
vì thiếu vốn đầu tư, thiếu kỹ thuật, thiếu ngoại tệ, thiếu thị trường so
với Tẩu cộng. Giới tư bản Tầu cộng còn có nguồn tài trợ khổng lồ của
đảng Tầu cộng để loại trừ các tay tư bản đồng chí có mối quan hệ tương
đồng hay các nhà tư bản ngoại quốc khác.
Việt cộng sẽ trở thành lá bài, công cụ, con rối chính trị cho Tầu
cộng, và sẽ trở thành căn cứ, cơ sở thương mại của Tầu cộng, để từ đó
các khu kinh tế doanh công nghiệp, nông nghiệp sẽ được thành lập mở
rộng ra theo vết dầu loan xuống miền nam Việt nam, không những chỉ cho
hàng hóa, mà cho công dân Tầu tự do qua lại các cửa khẩu ở biên giới
Tầu Việt cộng. Người Tầu sẽ tự do giao thương, du hành qua lại các cửa
khẩu đã được ủy ban chỉ đạo song phương do Tầu cộng lập ra. Việt
cộng cũng đang có qui luật mới cho thuê đất đai tại những tỉnh
thành đã gia nhập vùng có qui hoạch “hai hành lang, một vành đai kinh tế”, sẽ được thuê dài hạn chẳng những chỉ có 30, 60, mà là 120 năm. Trong tuyên cáo chung của hai đảng Tầu Việt cộng đã ghi rõ là đảng và nhà nước sẽ phải hổ trợ về cả hai mặt an ninh và tài chánh cho các nhà đầu tư của hai đảng từ bên này sang bên kia để đầu tư. Thợ
thuyền, công nhân, các nhà đầu tư, chuyên viên, tiến sĩ sẽ được miễn
thuế dài hạn. Tuyến đường sắt, xa lộ cao tốc, cầu Bắc Luân II sẽ được ưu
tiên thi công hoàn chỉnh sớm để nối liền với các tuyến xa lộ, tuyến
đường sắt cao tốc của Tầu từ Côn Minh xuống Lào Cai, và từ Nam Ninh
xuống Lạng Sơn. Các phi trường, hải càng trong các thành phô tham gia
vào tổ chứ chiến lước hai hành lang, một vành đai kinh tế, sẽ tùy nhu
cầu, sẽ được tái thiết tân tiến hơn. Nhà nước Việt cộng sẽ vay tiền của
Tầu cộng để thực hiện các dự án, theo đúng quy hoạch và quy trình mà
tuyên bố chung đã đề cập, ghi nhận và ký kết.
Trong văn bản tuyên bố chung của hai đảng Tầu Việt cộng, Tầu còn áp
đặt Việt cộng phải đứng về cùng phe với Tầu cộng, không được thừa nhận
Taiwan như là một quốc gia độc lập, và không được phát triển với Taiwan
trong bất cứ quan hệ chính thức nào. Nói cách khác, từ quân đội,
công an, cảnh sát, văn hóa, giáo dục, kinh tế, tài chánh, nông nghiệp,
ngư nghiệp và các khu vực kinh tế ở Việt cộng, từ đây về sau sẽ bị Tầu
Cộng chi phối, chỉ đạo. Theo tuyên cáo chung giữa hai đảng cộng sản
Tầu Việt cộng, Tầu cộng sẽ thiết lập nhiều trung tâm văn hóa Tầu cộng
tại Hà nội và nhiều tỉnh thành khác, bên cạnh các khu kinh tế nông công
nghiệp khác. Chiến lược hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt Trung
sẽ làm suy thoái, soi mòn chế độ Việt cộng. Đảng Việt cộng tuy không bị
giải thể, nhưng coi như sẽ tự hũy, tự diệt trong ô nhục.
0 comments:
Post a Comment