HLTL - Sắp đến tháng Tư mùa Quốc Hận lại về... thân gởi đến Quý bạn đọc tấm gương can trường của một Thiếu Sinh Quân 19 tuổi người lính sau cùng bên cạnh tử chiến cùng cố đại tá Hồ Ngọc Cẩn.
Cái Bóng Của"Tôi có chính nghĩa thì tôi không thể là ngụy. Còn Cộng quân dùng súng giết dân mới là ngụy, là giặc cướp. Tôi nhất quyết giữ chính khí của tôi như Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, như Nguyễn Biểu." - CốTrung Sĩ Vũ Tiến Quang (30-9-1956 - 30-4-1975)
HOÀI VĂN VƯƠNG TRẦN QUỐC TOẢN
hay
Truyện Người Lính Nhỏ Mà Chính Khí Lớn
VŨ TIẾN QUANG
(Trích trong bộ Lịch Sử Thiếu Sinh Quân Việt Nam)
Một Thiếu Sinh Quân @ (https://ongvove.wordpress.com)
Vũ Tiến Quang
sinh ngày 10 tháng 9 năm 1956 tại Kiên Hưng, tỉnh Chương Thiện. Thân
phụ là hạ sĩ địa phương quân Vũ Tiến Đức. Ngày 20 tháng 3 năm 1961,
trong một cuộc hành quân an ninh của quận, Hạ Sĩ Đức bị trúng đạn tử
thương khi tuổi mới 25. Ông để lại bà vợ trẻ với hai con. Con trai lớn,
Vũ Tiến Quang 5 tuổi. Con gái tên Vũ thị Quỳnh Chi mới tròn một năm. Vì
có học, lại là quả phụ tử sĩ, bà Đức được thu dụng làm việc tại Chương
Thiện, với nhiệm vụ khiêm tốn là thư ký tòa hành chánh. Nhờ đồng lương
thư ký, thêm vào tiền tử tuất cô nhi, quả phụ, nên đời sống của bà với
hai con không đến nỗi thiếu thốn.
Chiều
hôm đó Quang thuật cho mẹ nghe cuộc gặp gỡ Trần Minh, rồi xin mẹ nộp
đơn cho mình nhập học trường Thiếu Sinh Quân. Bà mẹ Quang không mấy vui
vẻ, vì Quang là con một, mà nhập học Thiếu Sinh Quân, rồi sau này trở
thành anh hùng như Trần Minh thì…nguy lắm. Bà không đồng ý. Hôm sau bà
gặp riêng Trần Minh, khóc thảm thiết xin Minh nói dối Quang rằng, muốn
nhập học trường Thiếu Sinh Quân thì cha phải thuộc chủ lực quân, còn cha
Quang là địa phương quân thì không được. Minh từ chối:
-
Em không muốn nói dối cháu. Cháu là Quốc Gia Nghĩa Tử thì ưu tiên nhập
học. Em nghĩ chị nên cho cháu vào trường Thiếu Sinh Quân, thì tương lai
của cháu sẽ tốt đẹp hơn ở với gia đình, trong khuôn khổ nhỏ hẹp.
Chiều
hôm ấy Quang tìm đến Minh để nghe nói về đời sống trong trường Thiếu
Sinh Quân. Đã không giúp bà Đức thì chớ, Minh còn đi cùng Quang tới nhà
bà, hướng dẫn bà thủ tục xin cho Quang nhập trường. Thế rồi bà Đức đành
phải chiều con. Bà đến phòng 3, tiểu khu Chương Thiện làm thủ tục cho
con. Bà gặp may. Trong phòng 3 Tiểu Khu, có Trung Sĩ Nhất Cao Năng Hải,
cũng là cựu Thiếu Sinh Quân. Hải lo làm tất cả mọi thủ tục giúp bà. Sợ
bà đổi ý, thì mình sẽ mất thằng em dễ thương. Hải lên gặp Thiếu-tá Lê
Minh Đảo, Tiểu Khu trưởng trình bầy trường hợp của Quang. Thiếu Tá Đảo
soạn một văn thư, đính kèm đơn của bà Đức, xin bộ Tổng Tham Mưu dành ưu
tiên cho Quang.
Tháng
8 năm 1968, Quang được giấy gọi nhập học trường Thiếu Sinh Quân, mà
không phải thi. Bà Đức thân dẫn con đi Vũng Tàu trình diện. Ngày 2 tháng
9 năm 1969, Quang trở thành một Thiếu Sinh Quân Việt Nam.
Pics Thiếu Sinh Quân @ (https://ongvove.wordpress.com)
Quả
thực trường Thiếu Sinh Quân là thiên đường của Quang. Quang có nhiều
bạn cùng lứa tuổi, dư thừa chân khí, chạy nhảy vui đùa suốt ngày. Quang
thích nhất những giờ huấn luyện tinh thần, những giờ học quân sự. Còn
học văn hóa thì Quang lười, học sao đủ trả nợ thầy, không bị phạt là tốt
rồi. Quang thích đá banh, và học Anh văn. Trong lớp, môn Anh văn, Quang
luôn đứng đầu. Chỉ mới học hết đệ lục, mà Quang đã có thể đọc sách báo
bằng tiếng Anh, nói truyện lưu loát với cố vấn Mỹ.
Giáo-sư
Việt văn của Quang là thầy Phạm Văn Viết, người mà Quang mượn bóng dáng
để thay thế người cha. Có lần thầy Viết giảng đến câu:
"Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh"
(Người ta sinh ra, ai mà không chết.
Cần phải lưu chút lòng son vào thanh sử).
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh"
(Người ta sinh ra, ai mà không chết.
Cần phải lưu chút lòng son vào thanh sử).
Quang thích hai câu này lắm, luôn miệng ngâm nga, rồi lại viết vào cuốn sổ tay.
Trong
giờ học sử, cũng như giờ huấn luyện tinh thần, Quang được giảng chi
tiết về các anh hùng: Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản, thánh tổ của Thiếu
Sinh Quân, giết tươi Toa Đô trong trận Hàm Tử. Quang cực kỳ sùng kính
Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, từ chối công danh, chịu chết cho toàn
chính khí. Quang cũng khâm phục Nguyễn Biểu, khi đối diện với quân thù,
không sợ hãi, lại còn tỏ ra khinh thường chúng. Ba nhân vật này ảnh
hưởng vào Quang rất sâu, rất đậm.
Suốt
các niên học từ 1969-1974, mỗi kỳ hè, được phép 2 tháng rưỡi về thăm
nhà, cậu bé Thiếu Sinh Quân Vũ Tiến Quang tìm đến các đàn anh trấn đóng
tại Chương Thiện để trình diện. Quang được các cựu Thiếu Sinh Quân dẫn
đi chơi, cho ăn quà, kể truyện chiến trường cho nghe. Một số ông uống
thuốc liều, cho Quang theo ra trận. Quang chiến đấu như một con sư tử.
Không ngờ mấy ông anh cưng cậu em út quá, mà gây ra một truyện động
trời, đến nỗi bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam, bộ Tư-lệnh MACV cũng phải rởn
da gà! Sau trở thành huyền thoại. Câu chuyện như thế này:
Hè
1972, mà quân sử Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, giữa lúc chiến trường
toàn quốc sôi động. Bấy giờ Quang đã đỗ chứng chỉ 1 Bộ Binh. Được phép
về thăm nhà, được các đàn anh cho ăn, và giảng những kinh nghiệm chiến
trường, kinh nghiệm đời. Quang xin các anh cho theo ra trận. Mấy ông cựu
Thiếu Sinh Quân, trăm ông như một, ông nào gan cũng to, mật cũng lớn,
lại coi trời bằng vung. Yêu cậu em ngoan ngoãn, các ông chiều…cho Quang
ra trận. Cuộc hành quân nào mấy ông cũng dẫn Quang theo.
Trong
môt cuộc hành quân cấp sư đoàn, đánh vào vùng Hộ Phòng, thuộc Cà Mau.
Đơn vị mà Quang theo là trung đội trinh sát của trung đoàn 31. Trung đội
trưởng là một thiếu úy cựu Thiếu Sinh Quân. Hôm ấy, thông dịch viên cho
cố vấn bị bệnh, Quang lại giỏi tiếng Anh, nên thiếu úy trung đội trưởng
biệt phái Quang làm thông dịch viên cho cố vấn là thiếu úy Hummer. Trực
thăng vừa đổ quân xuống thì hiệu thính viên của Hummer trúng đạn chết
ngay. Lập tức Quang thay thế anh ta. Nghĩa là mọi liên lạc vô tuyến,
Hummer ra lệnh cho Quang, rồi Quang nói lại trong máy.
Trung
đội tiến vào trong làng thì lọt trận điạ phục kích của trung đoàn chủ
lực miền, tên trung đoàn U Minh. Trung đội bị một tiểu đoàn địch bao
vây. Vừa giao tranh được mười phút thì Hummer bị thương. Là người can
đảm, Hummer bảo Quang đừng báo cáo về Trung-tâm hành quân. Trận chiến
kéo dài sang giờ thứ hai thì Hummer lại bị trúng đạn nữa, anh tử trận,
thành ra không có ai liên lạc chỉ huy trực thăng võ trang yểm trợ. Kệ,
Quang thay Hummer chỉ huy trực thăng võ trang. Vì được học địa hình, đọc
bản đồ rất giỏi, Quang cứ tiếp tục ra lệnh cho trực thăng võ trang nã
vào phòng tuyến địch, coi như Hummer còn sống. Bấy giờ quân hai bên gần
như lẫn vào nhau, chỉ còn khoảng cách 20-30 thước.
Thông
thường, tại các quân trường Hoa-kỳ cũng như Việt Nam, dạy rằng khi gọi
pháo binh, không quân yểm trợ, thì chỉ xin bắn vào trận địa địch với
khoảng cách quân mình 70 đến 100 thước. Nhưng thời điểm 1965-1975, các
cựu Thiếu Sinh Quân trong khu 42 chiến thuật khi họp nhau để ăn uống,
siết chặt tình thân hữu, đã đưa ra phương pháp táo bạo là xin bắn vào
phòng tuyến địch, dù cách mình 20 thước. Quang đã được học phương pháp
đó. Quang chỉ huy trực thăng võ trang nã vào trận địch, nhiều rocket
(hoả tiễn nhỏ), đạn 155 ly nổ sát quân mình, làm những binh sĩ non gan
kinh hoảng. Nhờ vậy, mà trận địch bị tê liệt.
Sau
khi được giải vây, mọi người khám phá ra Quang lĩnh tới bẩy viên đạn mà
không chết: trên mũ sắt có bốn vết đạn bắn hõm vào; hai viên khác trúng
ngực, may nhờ có áo giáp, bằng không thì Quang đã ô-hô ai-tai rồi. Viên
thứ bẩy trúng…chim. Viên đạn chỉ xớt qua, bằng không thì Quang thành
thái giám.
Trung-tá
J.F. Corter, cố vấn trưởng trung đoàn được trung đội trưởng trinh sát
báo cáo Hummer tử trận lúc 11 giờ 15. Ông ngạc nhiên hỏi:
- Hummer chết lúc 11.15 giờ, mà tại sao tôi vẫn thấy y chỉ huy trực thăng, báo cáo cho đến lúc 17 giờ?
Vì
được học kỹ về tinh thần trách nhiệm, Quang nói rằng mình là người lạm
quyền, giả lệnh Hummer, thay Hummer chỉ huy. Quang xin lỗi Corter.
Trung-tá J.F. Corter tưởng Quang là lính người lớn, đề nghị gắn huy
chương Hoa Kỳ cho Quang. Bấy giờ mới lòi đuôi chuột ra rằng các ông cựu
Thiếu Sinh Quân đã uống thuốc liều, cho thằng em sữa ra trận.
Đúng ra theo quân luật, mấy ông anh bị phạt nặng, Quang bị đưa ra tòa vì "Không có tư cách mà lại chỉ huy".
Nhưng các vị sĩ quan trong sư đoàn 21, trung đoàn 31 cũng như cố vấn
đều là những người của chiến trường, tính tình phóng khoáng, nên câu
truyện bỏ qua. Quang không được gắn huy chương, mà mấy ông anh cũng
không bị phạt. Hết hè, Quang trở về trường mang theo kỷ niệm chiến đấu
cực đẹp trong đời cậu bé, mà cũng là kỷ niệm đẹp vô cùng của Thiếu Sinh
Quân Việt Nam. Câu truyện này trở thành huyền thoại. Huyền thoại này lan
truyền mau lẹ khắp năm tỉnh của khu 42 chiến thuật : Cần Thơ, Sóc
Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Chương Thiện. Quang trở thành người hùng lý
tưởng của những thiếu nữ tuổi 15-17!
Năm
1974, sau khi đỗ chứng chỉ 2 Bộ Binh, Quang ra trường, mang cấp bậc
trung sĩ. Quang nộp đơn xin về sư đoàn 21 Bộ Binh. Quang được toại
nguyện. Sư đoàn phân phối Quang về tiểu đoàn Ngạc Thần tức tiểu đoàn 2
trung đoàn 31, tiểu đoàn của Trần Minh sáu năm trước. Thế là giấc mơ 6
năm trước của Quang đã thành sự thực.
Trung
đoàn 31 Bộ Binh đóng tại Chương Thiện. Bấy giờ tỉnh trưởng kiêm tiểu
khu trưởng Chương Thiện là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tham mưu trưởng tiểu khu
là Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời. Cả hai đều là cựu Thiếu Sinh Quân. Đại-tá
Cẩn là cựu Thiếu Sinh Quân cao niên nhất vùng Chương Thiện bấy giờ (36
tuổi). Các cựu Thiếu Sinh Quân trong tiểu đoàn 2-31 dẫn Quang đến trình
diện anh hai Cẩn. Sau khi anh em gặp nhau, Cẩn đuổi tất các tùy tùng ra
ngoài, để anh em tự do xả xú báp.
Cẩn bẹo tai Quang một cái, Quang đau quá nhăn mặt. Cẩn hỏi:
-
Ê ! Quang, nghe nói mày lĩnh bẩy viên đạn mà không chết, thì mày thuộc
loại mình đồng da sắt. Thế sao tao bẹo tai mày, mà mày cũng đau à?
- Dạ, đạn Việt-cộng thì không đau. Nhưng vuốt anh cấu thì đau.
- Móng tay tao, đâu phải vuốt?
- Dạ, người ta nói anh là cọp U Minh Thượng…Thì vuốt của anh phải sắc lắm.
- Hồi đó suýt chết, thế bây giờ ra trận mày có sợ không?
- Nếu khi ra trận anh sợ thì em mới sợ. Cái lò Thiếu Sinh Quân có bao giờ nặn ra một thằng nhát gan đâu?
- Thằng này được. Thế mày đã trình diện anh Thời chưa?
- Dạ anh Thời-thẹo không có nhà.
Thiếu
Tá Nguyễn Văn Thời, tham mưu trưởng Tiểu-khu, uy quyền biết mấy, thế mà
một trung sĩ 18 tuổi dám gọi cái tên húy thời thơ ấu ra, thì quả là một
sự phạm thượng ghê gớm. Nhưng cả Thời lẫn Quang cùng là cựu Thiếu Sinh
Quân thì lại là một sự thân mật. Sau đó anh em kéo nhau đi ăn trưa. Lớn,
bé cười nói ồn ào, như không biết tới những người xung quanh.
Bấy
giờ tin Trần Minh đã đền nợ nước tại giới tuyến miền Trung. Sự ra đi
của người đàn anh, của người hùng lý tưởng làm Quang buồn không ít.
Nhưng huyền thoại về Trần Minh lưu truyền, càng làm chính khí trong
người Quang bừng bừng bốc lên.
Tại
sư đoàn 21 Bộ Binh, tất cả các hạ sĩ quan cũng như các Thiếu Sinh Quân
mới ra trường, thường chỉ được theo hành quân như một khinh binh. Đợi
một vài tháng đã quen với chiến trường, rồi mới được chỉ định làm tiểu
đội trưởng. Nhưng vừa trình diện, Quang được cử làm trung đội phó ngay,
dù hầu hết các tiểu đội trưởng đều ở cấp trung sĩ, trung sĩ nhất, mà
những người này đều vui lòng. Họ tuân lệnh Quang răm rắp!
Sáu
tháng sau, đầu năm 1975 nhờ chiến công, Quang được thăng trung sĩ nhất,
nhưng chưa đủ một năm thâm niên, nên chưa được gửi đi học sĩ quan.
Quang trở thành nổi tiếng trong trận đánh ngày 1-2-1975, tại Thới Lai,
Cờ Đỏ. Trong ngày hôm ấy, đơn vị của Quang chạm phải tiểu đoàn Tây Đô.
Đây là một tiểu đoàn được thành lập từ năm 1945, do các sĩ quan Nhật Bản
không muốn về nước, trốn lại Việt Nam…huấn luyện. Quang đã được Đại tá
Hồ Ngọc Cẩn giảng về kinh nghiệm chiến trường:
"Tây
Đô là tiểu đoàn cơ động của tỉnh Cần Thơ. Tiểu đoàn có truyền thống lâu
đời, rất thiện chiến. Khi tác chiến cấp đại đội, tiểu đoàn chúng không
hơn các đơn vị khác làm bao. Nhưng tác chiến cấp trung đội, chúng rất
giỏi. Chiến thuật thông thường, chúng dàn ba tiểu đội ra, chỉ tiểu đội ở
giữa là nổ súng. Nếu thắng thế, thì chúng bắn xối xả để uy hiếp tinh
thần ta, rồi hai tiểu đội hai bên xung phong. Nếu yếu thế, thì chúng
lui. Ta không biết, đuổi theo, thì sẽ dẫm phải mìn, rồi bị hai tiểu đội
hai bên đánh ép. Vì vậy khi đối trận với chúng, phải im lặng không bắn
trả, để chúng tưởng ta tê liệt. Khi chúng bắt đầu xung phong, thì dùng
vũ khí cộng đồng nã vào giữa, cũng như hai bên. Thấy chúng chạy, thì tấn
công hai bên, chứ đừng đuổi theo. Còn như chúng tiếp tục xung phong ta
phải đợi chúng tới gần rồi mớí phản công".
Bây
giờ Quang có dịp áp dụng. Sau khi trực thăng vận đổ quân xuống. Cả đại
đội của Quang bị địch pháo chụp lên đầu, đại liên bắn xối xả. Không một
ai ngóc đầu dậy được. Nhờ pháo binh, trực thăng can thiệp, sau 15 phút
đại đội đã tấn công vào trong làng. Vừa tới bìa làng, thiếu úy trung đội
trưởng của Quang bị trúng đạn lật ngược. Quang thay thế chỉ huy trung
đội. Trung đội dàn ra thành một tuyến dài đến gần trăm mét. Đến đây, thì
phi pháo không can thiệp được nữa, vì quân hai bên chỉ cách nhau có 100
mét, gần như lẫn vào nhau. Nhớ lại lời giảng của Cẩn, Quang ra lệnh im
lặng, chỉ nổ súng khi thấy địch. Ngược lại ngay trước mặt Quang, khoảng
200 thước là một cái hầm lớn, ngay trước hầm hai khẩu đại liên không
ngừng nhả đạn. Quang ghi nhận vị trí hai khẩu đại liên với hai khẩu B40
ra lệnh:
"Lát nữa khi chúng xung phong thì dùng M79 diệt hai khẩu đại liên, B40, rồi hãy bắn trả".
Sau
gần 20 phút, thình lình địch xả súng bắn xối xả như mưa, như gió, rồi
tiếng hô xung phong phát ra. Chỉ chờ có thế, M79 của Quang khai pháo.
Đại liên, B40 bị bắn tung lên, trong khi địch đang xung phong. Bấy giờ
trung đội của Quang mới bắn trả. Chỉ một loạt đạn, toàn bộ phòng tuyến
địch bị cắt. Quang ra lệnh xung phong. Tới căn hầm, binh sĩ không dám
lại gần, vì bị lựu đạn từ trong ném ra. Quang ra lệnh cho hai khẩu đại
liên bắn yểm trợ, rồi cho một khinh binh bò lại gần, tung vào trong một
quả lựu đạn cay. Trong khi Quang hô:
- Ra khỏi hầm, dơ tay lên đầu! Bằng không lựu đạn sẽ ném vào trong.
Cánh cửa hầm mở ra, mười tám người, nam có, nữ có, tay dơ lên đầu, ra khỏi hầm, lựu đạn cay làm nước mắt dàn dụa.
Đến đây trận chiến chấm dứt.
Thì
ra 18 người đó là đảng bộ và ủy ban nhân dân của huyện châu thành Cần
Thơ. Trong đó có viên huyện ủy và viên chủ tịch ủy ban nhân dân huyện.
Sau
trận này Quang được tuyên dương công trạng trước quân đội, được gắn huy
chương Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu. Trong lễ chiến thắng
giản dị, Quang được một nữ sinh trường Đoàn Thị Điểm quàng vòng hoa. Nữ
sinh đó tên Nguyễn Hoàng Châu, 15 tuổi, học lớp đệ ngũ. Cho hay, anh
hùng với giai nhân xưa nay thường dễ cảm nhau. Quang, Châu yêu nhau từ
đấy. Họ viết thư cho nhau hàng ngày. Khi có dịp theo quân qua Cần Thơ,
thế nào Quang cũng gặp Châu. Đôi khi Châu táo bạo, xuống Chương Thiện
thăm Quang. Mẹ Quang biết truyện, bà lên Cần Thơ gặp cha mẹ Châu. Hai
gia đình đính ước với nhau. Họ cùng đồng ý: Đợi năm tới, Quang xin học
khóa sĩ quan đặc biệt, Châu 17 tuổi, thì cho cưới nhau.
Nhưng mối tình đó đã đi vào lịch sử…
Tình
hình toàn quốc trong tháng 3, tháng 4 năm 1975 biến chuyển mau lẹ. Ban
Mê Thuột bị mất, Quân Đoàn 2 rút lui khỏi Cao Nguyên, rồi Quân Đoàn 1 bỏ
mất lãnh thổ. Rồi các sĩ quan bộ Tổng Tham Mưu được Hoa Kỳ bốc đi. Ngày
29-4, trung đội của Quang chỉ còn mười người. Tiểu đoàn trưởng, đại đội
trưởng bỏ ngũ về lo di tản gia đình. Quang vào bộ chỉ huy tiểu khu
Chương Thiện trình diện Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Cẩn an ủi:
- Em đem mấy người thuộc quyền vào đây ở với anh.
Ngày
30 tháng 4 năm 1975, viên tướng mặt bánh đúc, đần độn Dương Văn Minh
phát thanh bản văn ra lệnh cho quân đội Việt Nam Cộng-hòa buông súng đầu
hàng. Tất cả các đơn vị quân đội miền Nam tuân lệnh, cởi bỏ chiến bào,
về sống với gia đình. Một vài đơn vị lẻ lẻ còn cầm cự. Tiếng súng kháng
cự của các đơn vị Dù tại Sài-gòn ngừng lúc 9 giờ 7 phút.
Đúng
lúc đó tại Chương Thiện, tỉnh trưởng kiêm Tiểu Khu trưởng là Đại Tá Hồ
Ngọc Cẩn. Ông đang chỉ huy các đơn vị thuộc quyền chống lại cuộc tấn
công của Cộng quân. Phần thắng đã nằm trong tay ông. Lệnh của Dương Văn
Minh truyền đến. Các quận trưởng chán nản ra lệnh buông súng. Chỉ còn
tỉnh lỵ là vẫn chiến đấu. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ra lệnh:
"Dương Văn Minh lên làm Tổng-thống trái với hiến pháp. Ông ta không có tư cách của vị Tổng Tư Lệnh. Hãy tiếp tục chiến đấu".
Nhưng
đến 12 giờ trưa, các đơn vị dần dần bị tràn ngập, vì quân ít, vì hết
đạn vì mất tinh thần. Chỉ còn lại bộ chỉ huy tiểu khu. Trong bộ chỉ huy
tiểu khu, có một đại đội địa phương quân cùng nhân viên bộ ham mưu. Đến
13 giờ, lựu đạn, đạn M79 hết. Tới 14 giờ 45, thì đạn hết, làn sóng Cộng
quân tràn vào trong bộ chỉ huy. Cuối cùng chỉ còn một ổ kháng cự từ
trong một hầm chiến đấu, nơi đó có khẩu đại liên. Một quả lựu đạn cay
ném vào trong hầm, tiếng súng im bặt. Quân Cộng Sản vào hầm lôi ra hai
người. Một là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng và
một trung sĩ mớí 19 tuổi. Trung sĩ đó tên là Vũ Tiến Quang.
Bấy giờ đúng 15 giờ.
Kẻ chiến thắng trói người chiến bại lại. Viên đại tá chính ủy của đơn vị có nhiệm vụ đánh tỉnh Chương Thiện hỏi:
- Đ.M. Tại sao có lệnh đầu hàng, mà chúng mày không chịu tuân lệnh?
Đại Tá Cẩn trả lời bằng nụ cười nhạt.
Trung sĩ Quang chỉ Đại Tá Cẩn:
-
Thưa đại tá, tôi không biết có lệnh đầu hàng. Ví dù tôi biết, tôi cũng
vẫn chiến đấu. Vì anh ấy là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi. Anh ra lệnh
chiến đấu, thì tôi không thể cãi lệnh.
Cộng quân thu nhặt xác chết trong, ngoài bộ chỉ huy tiểu khu. Viên chính ủy chỉ những xác chết nói với Đại Tá Cẩn:
- Chúng mày là hai tên ngụy ác ôn nhất. Đ.M. Chúng mày sẽ phải đền tội.
Đại Tá Cẩn vẫn không trả lời, vẫn cười nhạt. Trung sĩ Quang ngang tàng:
-
Đại tá có lý tưởng của đại tá, tôi có lý tưởng của tôi. Đại tá theo
Karl Marx, theo Lénine; còn tôi, tôi theo vua Hùng, vua Trưng. Tôi tuy
bại trận, nhưng tôi vẫn giữ lý tưởng của tôi. Tôi không gọi đại tá là
tên Việt Cộng. Tại sao đại tá lại mày tao, văng tục với chúng tôi như
bọn ăn cắp gà, phường trộm trâu vậy? Phải chăng đó ngôn ngữ của đảng
Cộng-sản?
Viên đại tá rút súng kề vào đầu Quang:
- Đ.M. Tao hỏi mày, bây giờ thì mày có chính nghĩa hay tao có chính nghĩa?
-
Xưa nay súng đạn trong tay ai thì người đó có lý. Nhưng đối với tôi,
tôi học trường Thiếu Sinh Quân, súng đạn là đồ chơi của tôi từ bé. Tôi
không sợ súng đâu. Đại tá đừng dọa tôi vô ích. Tôi vẫn thấy tôi có chính
nghĩa, còn đại tá không có chính nghĩa. Tôi là con cháu Hoài Văn Vương
Trần Quốc Toản mà.
- Đ.M. Mày có chịu nhận mày là tên ngụy không?
-
Tôi có chính nghĩa thì tôi không thể là ngụy. Còn Cộng quân dùng súng
giết dân mới là ngụy, là giặc cướp. Tôi nhất quyết giữ chính khí của tôi
như Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, như Nguyễn Biểu.
Quang cười ngạo nghễ:
-
Nếu đại tá có chính nghĩa tại sao đại tá lại dùng lời nói thô tục vớí
tôi? Ừ! Muốn mày tao thì mày tao. Đ.M. tên Cộng Sản ác ôn! Nếu tao
thắng, tao dí súng vào thái dương mày rồi hỏi: Đ.M. Mày có nhận mày là
tên Việt Cộng không? Thì mày trả lời sao?
Một
tiếng nổ nhỏ, Quang ngã bật ngửa, óc phọt ra khỏi đầu, nhưng trên môi
người thiếu niên còn nở nụ cười. Tôi không có mặt tại chỗ, thành ra
không mường tượng ý nghĩa nụ cười đó là nụ cười gì? Độc giả của tôi vốn
thông minh, thử đoán xem nụ cưòi đó mang ý nghĩa nào? Nụ cười hối hận?
Nụ cười ngạo nghễ? Nụ cười khinh bỉ? Hay nụ cười thỏa mãn?
Ghi chú :
Nhân
chứng quan trọng nhất, chứng kiến tận mắt cái chết của Vũ Tiến Quang
thuật cho tác giả nghe là cô Vũ Thị Quỳnh Chi. Cô là em ruột của Quang,
nhỏ hơn Quang 4 tuổi. Lúc anh cô bị giết, cô mới 15 tuổi (cô sinh năm
1960). Hiện (1999) cô là phu nhân của bác sĩ Jean Marc Bodoret, học trò
của tôi, cư trú tại Marseille.
Cái
lúc mà Quang ngã xuống, thì trong đám đông dân chúng tò mò đứng xem có
tiếng một thiếu nữ thét lên như xé không gian, rồi cô rẽ những người
xung quanh tiến ra ôm lấy xác Quang. Thiếu nữ đó là Nguyễn Hoàng Châu.
Em gái Quang là Vũ thị Quỳnh Chi đã thuê được chiếc xe ba bánh. Cô cùng
Nguyễn Hoàng Châu ôm xác Quang bỏ lên xe, rồi bọc xác Quang bằng cái
Poncho, đem chôn.
Chôn
Quang xong, Châu từ biệt Quỳnh Chi, trở về Cần Thơ. Nhưng ba ngày sau,
vào một buổi sáng sớm Quỳnh-Chi đem vàng hương, thực phẩm ra cúng mộ
anh, thì thấy Châu trong bộ y phục trắng của nữ sinh, chết gục bên cạnh.
Mặt Châu vẫn tươi, vẫn đẹp như lúc sống. Đích thân Quỳnh Chi dùng mai,
đào hố chôn Châu cạnh mộ Quang.
Năm
1998, tôi có dịp công tác y khoa trong đoàn Liên Hiệp các viện bào chế
Châu Âu (CEP= Coopérative Européenne Pharmaceutique), tôi đem J.M
Bodoret cùng đi, Quỳnh Chi xin được tháp tùng chồng. Lợi dụng thời gian
nghỉ công tác 4 ngày, từ Sài-gòn, chúng tôi thuê xe đi Chương Thiện, tìm
lại ngôi mộ Quang-Châu. Ngôi mộ thuộc loại vùi nông một nấm dãi dầu
nắng mưa, cỏ hoa trải 22 năm, rất khó mà biết đó là ngôi mộ. Nhưng
Quỳnh-Chi có trí nhớ tốt. Cô đã tìm ra. Cô khóc như mưa, như gió, khóc
đến sưng mắt. Quỳnh-Chi xin phép cải táng, nhưng bị từ chối. Tuy nhiên,
cuối cùng có tiền thì mua tiên cũng được. Giấy phép có. Quỳnh-Chi cải
táng mộ Quang-Châu đem về Kiên Hưng, chôn cạnh mộ của ông Vũ Tiến Đức.
Quỳnh-Chi muốn bỏ hài cốt Quang, Châu vào hai cái tiểu khác nhau. Tôi là
người lãng mạn. Tôi đề nghị xếp hai bộ xương chung với nhau vào trong
một cái hòm. Bodoret hoan hô ý kiến của sư phụ.
Ngôi mộ của ông Đức, của Quang-Châu xây xong. Tôi cho khắc trên miếng đồng hàng chữ:
"Nơi đây AET Vũ Tiến Quang, 19 tuổi,
An giấc ngàn thu cùng
Vợ là Nguyễn Hoàng Châu
Nở nụ cười thỏa mãn vì thực hiện được giấc mộng"
An giấc ngàn thu cùng
Vợ là Nguyễn Hoàng Châu
Nở nụ cười thỏa mãn vì thực hiện được giấc mộng"
Giấc
mộng của Quang mà tôi muốn nói, là: được nhập học trường Thiếu Sinh
Quân, rồi trở thành anh hùng. Giấc mộng của Châu là được chết, được chôn
chung với người yêu. Nhưng người ta có thể hiểu rằng: Quang thỏa mãn nở
nụ cười vì mối tình trọn vẹn.
Paris ngày 13 tháng 4 năm 1999.
Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ.