Hà Sĩ Phu nhận định: “Từ
đấy trở đi, chỉ cần 4 năm một lần Trung Quốc khống chế
người cầm đầu Việt Nam, tức tổng bí thư đảng, là đủ cho kế
hoạch xâm lược tiến hành trôi chảy.”
Thực
ra, đảng Cộng sản Trung Hoa đã nắm lấy cái đầu của Cộng sản
Việt Nam từ năm 1950. Sau đó, họ tiếp tục nắm cái đầu “bằng
con đường đi qua bao tử” trong suốt thời chiến tranh xâm chiếm
miền Nam. Trong thời gian đó, mỗi năm ông Lê Thanh Nghị sang
Bắc Kinh đưa một danh sách những món cần “chi viện” kinh tế;
từ cơm sấy, cá khô cho đến từng cây kim, sợi chỉ. Bởi vậy khi
Lê Duẩn trở mặt quay sang thần phục Liên Xô hoàn toàn, chống
“Trung Quốc xâm lược,” gọi Ðặng Tiểu Bình là “Ðặng Lưu Manh,”
thì Bắc Kinh nổi giận, cho “bọn phản phúc” một bài học năm
1979. Bài học đó được trả bằng xương máu của dân và bộ đội bị
quân Tàu giết. Lê Duẩn đã gieo tai họa cho đám đàn em, cả bọn
bơ vơ sợ hãi khi nhìn cảnh Liên Xô sụp đổ cùng với các đảng
cộng sản chư hầu Ðông Âu. Vì thế, sau cùng họ phải quay đầu
180 độ, quy phục Trung Cộng. Nước cờ ngoại giao liều lĩnh và
tai hại của Lê Duẩn có thể được thúc đẩy vì chứng kiến “Bác”
lúi cúi theo Trung Cộng quá đáng cũng cảm thấy nhục lây; lại
vì ông ta muốn chứng tỏ mình giỏi hơn họ Hồ.
Sở
dĩ Hồ Chí Minh trung thành với các đường lối của Mao Trạch
Ðông từ năm 1950 cho tới khi chết là vì ông muốn chứng tỏ mình
là một người cộng sản trung kiên. Từ thập niên 1930, Hồ Chí
Minh về Moscow (MatxCơva) đã bị Stalin nghi ngờ, và suýt bị xử
tử, thì mối lo lớn nhất của Hồ Chí Minh là sợ bị ông Trùm Ðỏ
thanh trừng. Hồ đã có kinh nghiệm cá nhân: Chính mình lập ra
đảng Cộng sản Việt Nam nhưng ngay lập tức bị Stalin bắt đổi
tên, và đặt Trần Phú lên thay làm tổng bí thư. Những năm 1930,
Hồ Chí Minh ở thủ đô Nga cũng chứng kiến cảnh Stalin đã lần
lượt giết hết các đồng chí trong Trung ương đảng Cộng sản Liên
Xô. Và sau đó, còn biết Stalin đã cho tay chân đuổi theo
Trotsky khắp thế giới, sau cùng ám sát được nhà lãnh tụ Cộng
sản Ðệ tứ Quốc tế. Năm 1946 sở dĩ Hồ Chí Minh phải sai giết
những nhà cách mạng Cộng sản Ðệ tứ Việt Nam như Tạ Thu Thâu,
Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, vân vân, cũng vì nếu để cho
những người yêu nước này sống thì lại lo sẽ bị Stalin nghi ngờ
ăn ở hai lòng.
Cho
nên, năm 1950, khi Stalin nói giao đảng Cộng sản Việt Nam cho
Mao Trạch Ðông chỉ đạo, thì từ đó Hồ Chí Minh hoàn toàn tuân
theo chỉ thị này. Ðến lúc Stalin chết, năm 1953, thì Mao Trạch
Ðông đã nắm được cái đầu của đảng Cộng sản Việt Nam trong
thòng lọng từ lâu rồi.
Tháng
Giêng năm đó, Hồ Chí Minh sang Bắc Kinh; thấy Mao Trạch Ðông
đã đi Moscow rồi, nên xin Lưu Thiếu Kỳ giúp đỡ di chuyển sang
Nga. Ở thủ đô Nga, Hồ Chí Minh bị Stalin tỏ vẻ khinh thường:
Không đến dự tiệc do ông Hồ tổ chức khoản đãi; không có một
hình thức tiếp đón chính thức để chụp hình. Stalin lại từ chối
không viện trợ, và lắc đầu khi Hồ Chí Minh xin cho ký một thỏa
hiệp hữu nghị, như Stalin đã ký với Mao Trạch Ðông. Hồ Chí
Minh chỉ xin được Stalin ký tên trên một bức hình xé từ một
tạp chí hình ảnh; làm kỷ niệm. Stalin ký tên cho, nhưng sau đó
sai mật vụ KGB bí mật đến tận phòng, lục va li, lấy lại. Mỗi
lần Hồ Chí Minh ngỏ ý xin chi viện, Stalin đều nói: các đồng
chí Trung Quốc hiểu rõ người Châu Á hơn; mọi việc hãy hỏi họ,
tôi sẽ ủng hộ. Stalin đã gán Hồ Chí Minh cho Mao Trạch Ðông từ
đó.
Trên
xe lửa trở về Bắc Kinh, Hồ đã nhắc với Mao về việc bị Stalin
bỏ rơi, và nói: Chúng tôi chỉ còn dựa và Trung Quốc. Từ năm
đó, các đoàn cố vấn Trung Cộng bắt đầu xâm nhập nước ta từ
trên xuống dưới, trong chiến trận cũng như trong chính trị,
đặc biệt là cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu hoàn toàn theo
khuôn mẫu của các cố vấn.
Khi
tái lập đảng Cộng sản dưới tên mới là đảng Lao Ðộng, Hồ Chí
Minh cố chứng tỏ mình là một con người cộng sản hoàn toàn. Tạp
chí Học tập Liên khu 4, Tháng Tư năm 1951 đã viết (trang 1 đến
trang 8) bài tường thuật “Ðại hội Ðảng Toàn quốc lần thứ hai
tại Việt Bắc vào tháng 3 năm 1951, do một phóng viên của tờ
Học tập ghi lại.
Hồ
Chí Minh tán dương các chiến sĩ Việt Nam trong cuộc kháng
chiến chống Pháp lúc đó; nhưng ông không đề cao lòng yêu nước
của họ mà lại giải thích họ hy sinh chỉ vì chủ nghĩa Cộng sản.
Bài báo ghi nguyên văn lời ông Hồ giải thích các hành động
anh dũng của các người lính Việt Nam:
“Ðó
là vì đâu? Là vì trong chính trị, cũng như trong mọi mặt
công tác khác, Ðảng ta có một chủ nghĩa cách mạng nhất, sáng
suốt nhất, đó là chủ nghĩa của ba ông kia kìa (Hồ-Chủ-tịch
vươn tay chỉ và hướng mặt về phía chân dung 3 vị lãnh tụ:
Marx, Engels, Lénine)
Sau
khi chỉ tay lên hình Staline (tên viết theo lối Pháp), Hồ
lại ca ngợi công ơn đảng Cộng sản Trung Quốc “đã thấm nhuần
chủ nghĩa Marx-Lénine...” Hồ Chí Minh biện minh: “Nếu không
thấm nhuần như thế, thì sao lại có bộ đội nhịn đói hơn 4
ngày, vẫn cứ bám lấy giặc mà đánh và đánh thắng giặc! (Ðại
hội vỗ tay dài). Thì sao có những cử chỉ oanh liệt như ở một
trận đánh nọ có chiến sĩ bị thương ở tay nói với người bên
cạnh “Cậu chặt tay cho mình cái” vì thấy cánh tay gãy vướng,
chặt đi cho dễ đánh, thế rồi lại cứ xung phong? Nếu không
thấm nhuần chủ nghĩa Marx-Lénine thì làm sao có được những
cử chỉ oanh liệt như thế?” (Ðại hội vỗ tay).”
Hồ
Chí Minh lại giải thích tiếp: “Chúng ta lại nhờ có ông anh
này!“ (Hồ-Chủ-Tịch vươn tay chỉ và hướng mặt về phía chân dung
đồng chí Mao-Trạch-Ðông) (Ðại hội vỗ tay vang dậy - và đứng
dậy hô lớn đồng chí Mao-Trạch-Ðông muôn năm!)
Ðó
là nguyên văn những lời ông Hồ đã nói. Không nói gì đến lòng
yêu nước của người Việt Nam; không hề nói đến Tổ tiên đã noi
gương tranh đấu chống xâm lăng. Chỉ biết ơn ông Xít, ông Mao.
Hồ Chí Minh nộp dân Việt Nam lên bàn thở chủ nghĩa cộng sản.
Muốn chứng tỏ công ơn của MaoTrạch-Ðông đối với cuộc kháng chiến của người Việt Nam, Hồ Chí Minh kể lể: “Ông
Mao ở cách đây mấy nghìn dặm... Ông theo dõi từng bước cuộc
chiến đấu cách mạng của chúng ta. Như lúc quân đội và nhân
dân ta giải phóng biên giới, như lúc chúng ta mở chiến dịch
Trung-du có thể đêm ông không ngủ mà chờ tin tức...”
Như
các cố vấn Trung Cộng ở Việt Nam lúc đó thuật lại, thì
Mao-Trạch-Ðông đã chỉ thị đến từng chi tiết các trận đánh; vì
Mao cũng là một lý thuyết gia quân sự, và ông rất thích điều
khiển để thí nghiệm các khẩu hiệu trong binh pháp của ông.
Tinh
thần lệ thuộc của Hồ Chí Minh đối với Cộng sản Trung Quốc đã
rõ ràng, không ai chối cãi được. Sau đó, những gì xẩy ra thì
chúng ta đã biết. Năm 1958, khi Phạm Văn Ðồng ký văn thư đồng
ý với chính phủ Bắc Kinh về vấn đề lãnh hải, mặc nhiên công
nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Trung Quốc, lúc đó Hồ Chí Minh
vẫn còn nắm toàn quyền, sau khi Trường Chinh đã mất chức, mà
Lê Duẩn thì mới lên.
Năm
1961, nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Ðảng Cộng sản Trung
Quốc, Hồ Chí Minh viết một bài ca tụng “40 năm vẻ vang, 40 năm
thắng lợi”... “viết những trang lịch sử vĩ đại của Ðảng Cộng
sản Trung Quốc,” đăng trên nhật báo Nhân Dân ở Hà Nội ngày 1
Tháng Bảy năm 1961.
Trong
bài báo đó (in lại trong Hồ Chí Minh Toàn Tập, tập X, NXB
Chính Trị Quốc Gia, năm 2000, trang 365-368), Hồ Chí Minh đã
kể rõ công ơn của Cộng sản Trung Quốc đối với đảng Cộng sản
Việt Nam. Công ơn đầu tiên là “Ảnh hưởng Cách Mạng Tháng
Mười Nga và lý luận Mác-Lênin phần lớn kinh qua Trung Quốc
mà truyền đến Việt Nam.” Nói cách khác, ngay trên mặt lý thuyết căn bản, cộng sản nước ta chịu ơn của cộng sản Tầu dạy dỗ.
Trong
Hồ Chí Minh Toàn Tập, cuốn số 11, từ trang 64 đến trang 76,
có đăng bốn bài diễn văn của Hồ Chí Minh khi đón tiếp Lưu
Thiếu Kỳ tới Hà Nội năm 1963. Trong lời chào đón phái đoàn Lưu
Thiếu Kỳ và Trần Nghị ở sân bay Gia Lâm, Hồ Chí Minh đã đọc
hai câu thơ: “Mối tình thắm thiết Việt-Hoa; Vừa là đồng chí vừa là anh em.” Trong
bài diễn văn tại buổi tiệc chiêu đãi phái đoàn nước đàn anh,
ông Hồ đã nhắc lại một câu ngạn ngữ của người Tầu để nói tới “...tình đoàn kết như môi mới răng giữa hai nước và hai đảng chúng ta...”
Ðây là những bản văn chính thức được Hồ viết ra, đăng trên
báo Nhân Dân, đặt tiền lệ cho các khẩu hiệu “đồng chí-anh em”
và “như môi với răng.”
Hai
khẩu hiệu đó được hai đảng cộng sản dùng mãi sau này, chỉ
ngưng dùng mươi năm sau cuộc chiến biên giới 1979 khi răng cắn
môi chẩy máu. Nhưng sau cuộc đầu hàng ở Thành Ðô năm 1992, các
khẩu hiệu đó lại được các đồng chí Trung Quốc nhắc nhở. Vì
chính ông Hồ đã nói những khẩu hiệu đó trước, cho nên đảng
Cộng sản Việt Nam không thể từ chối được! Trung Cộng bèn
“triển khai” ra 16 cái chữ vàng để cái thòng lọng thắt chặt
hơn.
Hiện
nay ở trong nước, các tay đầu sỏ trong đảng cũng không mấy
khi nhắc đến Hồ Chí Minh nữa, trừ mấy dịp lễ lạt. Các “cháu”
chắc cũng biết cái bùa đó hết thiêng rồi. Hà Sĩ Phu tiết lộ:
“Một
blogger tối thân cận với trùm chuyên chính vô sản đã gọi
Hồ Chí Minh là ‘Ku Nghệ’ mà không bị khiển trách; thì đủ
biết trong hậu trường họ đối với cụ Hồ cũng chẳng thành kính
gì.”
Vì họ biết Ku Nghệ là người đầu tiên dẫn cả đảng, cả nước chui đầu vào cái thòng lọng Tân Ðại Hán.
N.N.D