Lý Quang Diệu viết về Hoa Kỳ
(Chỉ có kẻ ngu mới chống Hoa Kỳ)
Nguồn: Lý quang Diệu (2013)
Biên dịch: Nguyễn Việt Vân Anh
Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
HOA KỲ: Nhiều trở ngại nhưng vẫn giữ vị trí số 1
Cân
bằng quyền lực đang chuyển đổi. Về phía châu Á của Thái Bình Dương,
theo thời gian Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc gây ảnh
hưởng. Mọi chuyện sẽ không còn như trước. Địa lí là điểm mấu chốt trong
trường hợp này. Trung Quốc có lợi thế hơn vì nằm trong khu vực và có khả
năng phô trương sức mạnh dễ dàng hơn ở châu Á. Đối với Hoa Kỳ, gây ảnh
hưởng từ cách xa 8.000 dặm là một điều hoàn toàn khác. Sự bất bình đẳng
về ý chí, hậu cần và chi phí là rất đáng kể. Chỉ riêng dân số của Trung
Quốc, 1,3 tỉ người, so với 314 triệu người Mỹ, cũng góp phần vào khó
khăn của Hoa Kỳ. Nhưng sự chuyển giao quyền lực sẽ không xảy ra một sớm
một chiều do ưu thế vượt bậc của Hoa Kỳ về công nghệ. Người Trung Quốc
dù có thể chế tạo tàu sân bay nhưng vẫn không thể đuổi kịp người Mỹ một
cách nhanh chóng về công nghệ tàu sân bay với sức chứa 5.000 quân và đầu
máy hạt nhân. Nhưng cuối cùng, những bất lợi của Hoa Kỳ do khoảng cách
địa lý dần sẽ mang tính quyết định. Hoa Kỳ sẽ phải điều chỉnh thế đứng
của mình và chính sách của họ trong khu vực này.
Chính quyền
Obama tuyên bố vào năm 2011 rằng Hoa Kỳ dự định tiếp cận khu vực châu
Á-Thái Bình Dương với một trọng tâm mới. Họ gọi đây là Sự Xoay Trục về
Châu Á. Trên tờ Foreign Policy, ngoại trưởng Hillary Clinton giải thích
tư duy đằng sau chính sách mới này như sau: “Các thị trường mở ở châu Á
là những cơ hội chưa từng thấy đối với Hoa Kỳ về đầu tư, thương mại và
tiếp cận với các công nghệ tiên tiến… Về mặt chiến lược, việc gìn giữ
hoà bình và an ninh ở khắp khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ngày càng
trở nên thiết yếu đối với sự tiến bộ trên toàn cầu, dù là thông qua bảo
vệ tự do hàng hải trên Biển Đông, chống lại việc phổ biến vũ khí hạt
nhân ở Bắc Triều Tiên hay đảm bảo sự minh bạch trong các hoạt động quân
sự của các nước lớn trong khu vực.” Vào tháng 4 năm 2012, 200 lính thuỷ
đánh bộ Mỹ đầu tiên đã được triển khai tới Darwin, Úc trong một phần nỗ
lực nhằm tăng cường hiện diện của Hoa Kỳ trong khu vực.
Nhiều quốc gia
Châu Á chào đón cam kết mới này từ người Mỹ. Trong nhiều năm, sự hiện
diện của Hoa Kỳ là một nhân tố quan trọng giúp ổn định khu vực. Kéo dài
sự hiện diện này sẽ giúp duy trì ổn định và an ninh. Kích thước của
Trung Quốc có nghĩa là cuối cùng chỉ có Hoa Kỳ – kết hợp với Nhật Bản và
Hàn Quốc, đồng thời hợp tác với các quốc gia ASEAN – mới có thể đối
trọng lại được nước này.
Tuy nhiên,
chúng ta còn phải xem liệu người Mỹ có thể biến ý định thành cam kết
trong lâu dài được hay không. Ý định là một mặt, tài trí và khả năng là
một mặt khác. Hiện nay Hoa Kỳ có quân ở Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Guam.
(Người Philippines đã không khôn ngoan khi mời người Mỹ rời khỏi vịnh
Subic vào năm 1992. Họ quên mất hậu quả về lâu dài của hành động này và
bây giờ họ bảo rằng “Hãy làm ơn quay lại.”) Người Mỹ tin rằng họ có sẵn
một dàn xếp quân sự trong khu vực cho phép họ cân bằng lại được với hải
quân Trung Quốc. Hơn nữa, vì các vùng nước trong khu vực tương đối nông,
người Mỹ có thể theo dõi hoạt động của các tàu thuyền Trung Quốc, kể cả
tàu ngầm. Nhưng liệu lợi thế này có thể kéo dài được bao lâu? Một trăm
năm? Không thể nào. Năm mươi năm? Không chắc. Hai mươi năm? Có thể. Rốt
cuộc, cân bằng quyền lực có thể thực hiện được hay không còn phải chờ
vào nền kinh tế Hoa Kỳ trong một vài thập niên tới. Cần có một nền kinh
tế vững mạnh thì mới có thể phô trương quyền lực – đầu tư xây dựng tàu
chiến, tàu sân bay và các căn cứ quân sự.
Khi cuộc chiến
tranh giành quyền bá chủ trên Thái Bình Dương giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc
diễn ra, những quốc gia nhỏ hơn ở châu Á bắt buộc phải thích ứng với cục
diện mới. Thucydides đã từng viết rằng “kẻ mạnh làm những gì mà họ có thể và kẻ yếu phải chịu đựng những gì họ phải chịu đựng”. Các
quốc gia nhỏ hơn ở châu Á có thể không phải có một kết cục bi thảm như
thế, nhưng bất cứ góc nhìn hiện thực chủ nghĩa nào về sự suy giảm ảnh
hưởng của Hoa Kỳ tại Châu Á Thái Bình Dương đều sẽ khiến các quốc gia
phải điều chỉnh chiến lược đối ngoại của mình. Người ta sẽ phải quan tâm
hơn đến những gì người Trung Quốc thích hoặc không thích khi Trung Quốc
ngày càng lớn mạnh về kinh tế lẫn quân sự. Nhưng điều quan trọng không
kém là không để cho Trung Quốc hoàn toàn thống trị. Cuối cùng, tôi không cho rằng viễn cảnh người Trung Quốc hất cẳng hoàn toàn người Mỹ ra khỏi Tây Thái Bình Dương có thể diễn ra.
Ví dụ như Việt
Nam, là một trong những quốc gia không an tâm nhất về sự bành trướng sức
mạnh của Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình ra lệnh tấn công miền Bắc Việt Nam
vào năm 1979 để trả đũa việc Việt Nam can thiệp vào Campuchia. Đặng phá
hủy một vài làng mạc và thị trấn rồi sau đó rút lui, chỉ nhằm đưa ra một
lời cảnh cáo với người Việt: “Tôi có thể tiến thẳng vào và tiếp quản Hà
Nội.” Đây không phải là bài học mà người Việt có thể quên được. Một
chiến lược có lẽ đã được chính phủ Việt Nam bàn đến là làm thế nào để có
thể bắt đầu thiết lập các mối quan hệ an ninh lâu dài với người Mỹ.
Tôi cũng cảm
thấy rất tiếc rằng sự thay đổi cân bằng quyền lực đang diễn ra vì tôi
cho rằng Hoa Kỳ là một cường quốc hoà bình. Họ chưa bao giờ tỏ ra hung
hãn và họ không có ý đồ chiếm lãnh thổ mới. Họ đưa quân đến Việt Nam
không phải vì họ muốn chiếm Việt Nam. Họ đưa quân đến bán đảo Triều Tiên
không phải vì họ muốn chiếm bắc hay nam Triều Tiên. Mục tiêu của các
cuộc chiến tranh đó là chống lại chủ nghĩa cộng sản. Họ đã muốn ngăn chủ
nghĩa cộng sản lan tràn trên thế giới. Nếu như người Mỹ không can thiệp
và tham chiến ở Việt Nam lâu dài như họ đã làm, ý chí chống cộng ở các
nước Đông Nam Á khác chắc đã giảm sút, và Đông Nam Á có thể đã sụp đổ
như một ván cờ domino dưới làn sóng đỏ. Nixon đã giúp cho miền Nam Việt
Nam có thời gian để xây dựng lực lượng và tự chiến đấu. Nam Việt Nam đã
không thành công, nhưng khoảng thời gian gia tăng đó giúp Đông Nam Á
phối hợp hành động với nhau và tạo dựng nền tảng cho sự phát triển của
ASEAN.
Singapore khá
thoải mái với sự hiện diện của người Mỹ. Chúng ta không biết Trung Quốc
sẽ quyết đoán hay hung hăng như thế nào. Vào năm 2009 khi tôi nói chúng
ta phải cân bằng lực lượng với Trung Quốc, họ dịch từ đó sang tiếng
Trung thành “kìm hãm”. Điều này làm nổi lên một làn sóng phẫn nộ trong
cư dân mạng Trung Quốc. Họ cho rằng làm sao tôi lại dám nói như thế
trong khi tôi là người Hoa. Họ quá là nhạy cảm. Thậm chí sau khi tôi
giải thích rằng tôi không hề sử dụng từ “kìm hãm”, họ vẫn không hài
lòng. Đấy là bề mặt của một thứ quyền lực thô và còn non trẻ.
Trong cục diện
đang thay đổi này, chiến lược chung của Singapore là đảm bảo rằng mặc dù
chúng ta lợi dụng bộ máy tăng trưởng thần kì của Trung Quốc, chúng ta
sẽ không cắt đứt với phần còn lại của thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ.
Singapore vẫn quan trọng với người Mỹ. Singapore nằm ở vị trí chiến lược
ở trung tâm của một khu vực quần đảo, nơi mà người Mỹ không thể bỏ qua
nếu muốn duy trì ảnh hưởng ở Châu Á – Thái Bình Dương. Và mặc dù chúng
ta xúc tiến các mối quan hệ với người Trung Quốc, họ cũng không thể cản
chúng ta có các mối quan hệ kinh tế, xã hội, văn hoá và an ninh bền chặt
với Hoa Kỳ. Người Trung Quốc biết rằng họ càng gây áp lực với các quốc
gia Đông Nam Á thì các quốc gia này càng thân Mỹ hơn. Nếu người Trung
Quốc muốn đưa tàu chiến đến viếng thăm cảng của Singapore khi có nhu
cầu, như là người Mỹ đang làm, chúng ta sẽ chào đón họ. Nhưng chúng ta
sẽ không ngả về phía nào bằng cách chỉ cho phép một bên và cấm đoán bên
kia. Đây là một lập trường mà chúng ta có thể tiếp tục duy trì trong một
thời gian dài.
Chúng ta còn
liên kết với phần còn lại của thế giới thông qua ngôn ngữ. Chúng ta may
mắn được người Anh cai trị và họ để lại di sản là tiếng Anh. Nếu như
chúng ta bị người Pháp cai trị, như người Việt, chúng ta phải quên đi
tiếng Pháp trước khi học tiếng Anh để kết nối với thế giới. Đó chắc hẳn
là một sự thay đổi đầy đau đớn và khó khăn. Khi Singapore giành được độc
lập vào năm 1965, một nhóm trong Phòng Thương Mại người Hoa gặp tôi để
vận động hành lang cho việc chọn tiếng Hoa làm quốc ngữ. Tôi nói với họ
rằng: “Các ông phải bước qua tôi trước đã.” Gần 5 thập niên đã trôi qua
và lịch sử đã cho thấy rằng khả năng nói tiếng Anh để giao tiếp với thế
giới là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong câu chuyện tăng
trưởng của Singapore. Tiếng Anh là ngôn ngữ của cộng đồng quốc tế. Đế
quốc Anh đã truyền bá thứ ngôn ngữ này ra khắp thế giới, nên khi người
Mỹ tiếp quản, đó là một sự chuyển đổi dễ dàng sang tiếng Anh kiểu Mỹ.
Đây cũng là một lợi thế rất lớn đối với người Mỹ khi trên toàn thế giới
đã có nhiều người nói và hiểu ngôn ngữ của họ.
Khi sự trỗi dậy
của Trung Quốc tiếp diễn, Singapore có thể nâng cao chuẩn mực tiếng Hoa
trong nhà trường để cho học sinh của chúng ta có một lợi thế, nếu họ
chọn làm việc hoặc giao thương với Trung Quốc. Nhưng tiếng Hoa vẫn sẽ là
ngôn ngữ thứ hai, vì thậm chí nếu GDP của Trung Quốc có vượt qua Hoa
Kỳ, họ cũng không thể cho chúng ta được mức sống mà chúng ta đang hưởng
thụ ngày nay. Đóng góp của Trung Quốc vào GDP của chúng ta ít hơn 20%.
Phần còn lại của thế giới sẽ giúp Singapore duy trì phát triển và đạt
được thịnh vượng – không chỉ là người Mỹ, mà còn là người Anh, người
Đức, người Pháp, người Hà Lan, người Úc, vv…. Các nước này giao dịch
kinh doanh bằng tiếng Anh, không phải tiếng Trung. Sẽ là rất ngu ngốc
nếu chúng ta xem xét chọn tiếng Trung làm ngôn ngữ làm việc tại bất kì
thời điểm nào trong tương lai, khi mà chính người Hoa cũng rất cố gắng
học tiếng Anh từ khi mẫu giáo cho đến bậc đại học.
Cuộc cạnh tranh cuối cùng
Hoa Kỳ không
phải đang trên đà suy thoái. Uy tín của Hoa Kỳ đã chịu nhiều tổn thất do
việc đóng quân lâu dài và lộn xộn tại Iraq và Afghanistan cũng như do
cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng. Nhưng những sử gia giỏi nhìn
nhận sẽ chỉ ra rằng một Hoa Kỳ dường như yếu đi và trì trệ đã từng phục
hồi ra khỏi những tình huống còn tệ hại hơn. Đất nước Hoa Kỳ đã đối mặt
nhiều thử thách lớn trong những thời kỳ chưa xa: cuộc Đại Suy thoái,
chiến tranh Việt nam, thời kì trỗi dậy của các cường quốc công nghiệp
hậu chiến như Nhật Bản và Đức. Mỗi lần như vậy, Hoa Kỳ đã tìm thấy ý chí
và sức mạnh để phục hồi vị trí dẫn đầu cùa mình. Hoa Kỳ đã áp đảo. Nó
sẽ thực hiện được điều này một lần nữa.
Thành công của
Hoa Kỳ nằm ở nền kinh tế năng động, được duy trì không chỉ bằng khả năng
đặc biệt sản xuất ra cùng một thứ với chi phí ít hơn mà còn là liên tục
đổi mới sáng tạo – tức là sáng chế ra một mặt hàng hay dịch vụ hoàn
toàn mới mà thế giới sớm cảm thấy hữu dụng và đáng khát khao. Chiếc
iPhone, iPad, Microsoft, Internet – tất cả đều được tạo ra ở Hoa Kỳ chứ
không phải nơi nào khác. Người Trung Quốc có thể có nhiều nhân tài so
với người Mỹ, nhưng sao họ không có những phát minh tương tự? Rõ ràng họ
thiếu một sự sáng tạo mà người Mỹ sở hữu. Và tia sáng đó cho thấy người
Mỹ thỉnh thoảng có thể có sáng tạo đột phá thay đổi cục diện, điều cho
họ vị trí dẫn đầu.
Thậm chí nếu
những người theo thuyết suy thoái đúng, và thật là Hoa Kỳ đang trên đà
xuống dốc, ta phải nhớ rằng đây là một nước lớn và cần có một thời gian
dài thì mới suy thoái. Nếu Singapore là một nước lớn, tôi sẽ chẳng lo
lắng lắm nếu chúng ta chọn chính sách sai lầm, vì hậu quả sẽ xuất hiện
chậm. Nhưng chúng ta là một nước nhỏ và một quyết định sai lầm có thể
gây hậu quả kinh khủng trong một thời gian ngắn. Mặt khác, Hoa Kỳ như là
một con tàu chở dầu lớn. Họ sẽ không thể chuyển hướng nhanh như một
chiếc thuyền. Nhưng tôi tin rằng các cá nhân tin vào thuyết suy thoái đã
sai lầm. Hoa Kỳ sẽ không suy thoái. So sánh tương đối với Trung Quốc,
Hoa Kỳ có thể ít uy lực hơn. Có thể khả năng phô diễn sức mạnh ở Tây
Thái Bình Dương của Hoa Kỳ bị ảnh hưởng và có thể Hoa Kỳ không thể sánh
với Trung Quốc về dân số và GDP, nhưng lợi thế chính yếu của Hoa Kỳ – sự
năng động của họ – sẽ không biến mất. Hoa Kỳ, nếu đem ra so sánh đến
giờ, là một xã hội sáng tạo hơn. Và khi mà trong lòng nội bộ nước Mỹ
đang có một cuộc tranh luận về việc liệu họ có đang xuống dốc hay không
thì đó là một dấu hiệu tốt. Điều đó có nghĩa rằng họ không ngủ quên trên
đỉnh cao.
Tại sao tôi lại tin vào thành công về dài hạn của Hoa Kỳ?
Đầu tiên, Hoa
Kỳ là một xã hội thu hút đến độ mà Trung Quốc khó lòng bì kịp. Mỗi năm,
hàng nghìn người nhập cư đầy tham vọng và có trình độ được cho phép vào
Hoa Kỳ, định cư và trở nên thành công trong nhiều lĩnh vực. Những người
nhập cư này sáng tạo và thường mạo hiểm hơn, nếu không thì họ đã chẳng
rời khỏi quê hương của mình làm gì. Họ cung cấp một nguồn ý tưởng dồi
dào và tạo nên một chất men nào đó trong lòng xã hội Mỹ, một sức sống mà
ta không thể tìm thấy ở Trung Quốc. Hoa Kỳ sẽ không thành công được đến
như vậy nếu như không có người nhập cư. Trong hàng thế kỉ, Hoa Kỳ thu
hút nhân tài từ châu Âu. Ngày hôm nay, họ thu hút nhân tài từ châu Á –
người Ấn, người Hoa, người Hàn, người Nhật và thậm chí là người Đông Nam
Á. Vì Hoa Kỳ có thể dung nạp người nhập cư, giúp họ hoà nhập và cho họ
một cơ hội công bằng để đạt được giấc mơ Mỹ, luôn có một nguồn chảy tài
năng hướng vào Hoa Kỳ và đổi lại Hoa Kỳ có được công nghệ mới, sản phẩm
mới và cách làm ăn mới.
Trung Quốc và
những quốc gia khác rồi sẽ phải tiếp thu vài phần của mô hình thu hút
nhân tài của Hoa Kỳ phù hợp với hoàn cảnh của mình. Họ phải đi tìm người
tài để xây dựng các doanh nghiệp. Đây là cuộc cạnh tranh tối hậu. Đây
là thời đại mà chúng ta không còn có các cuộc đua quân sự giữa các cường
quốc vì họ biết rằng họ sẽ huỷ hoại nhau bằng cách ấy. Đây sẽ là cuộc
cạnh tranh về kinh tế và kĩ thuật và tài năng là nhân tố chính.
Hoa Kỳ là một
xã hội thu hút và giữ chân được nhân tài. Họ chiêu dụ được những tài
năng bậc nhất từ Châu Á. Hãy nhìn vào số lượng người Ấn trong các ngân
hàng và trường đại học của họ — lấy ví dụ như Vikram Pandit, cựu CEO của
Citibank. Nhiều người Singapore chọn lựa ở lại Hoa Kỳ sau khi du học.
Đó là lí do mà tôi ủng hộ việc cho sinh viên học bổng đi du học Anh, vì
tôi chắc rằng họ sẽ trở về Singapore. Ở Anh, bạn không ở lại vì bạn
không được chào đón. Và vì nền kinh tế của Anh không năng động như Mỹ, ở
đấy có ít công ăn việc làm hơn.
Một lí do tại
sao Trung Quốc sẽ luôn kém hiệu quả hơn trong việc thu hút nhân tài
chính là ngôn ngữ. Tiếng Hoa khó học hơn tiếng Anh nhiều. Nói tiếng Hoa
rất khó nếu như không học từ nhỏ. Đây là ngôn ngữ đơn âm tiết và mỗi từ
có tới 4 hay 5 thanh. Khi mà bạn không biết tiếng thì bạn không thể giao
tiếp. Đây là một rào cản rất lớn. Đây là kinh nghiệm bản thân tôi. Tôi
đã vật lộn trong suốt 50 năm và đến giờ mặc dù tôi có thể nói tiếng Hoa
và viết theo kiểu bính âm (pinyin), nhưng tôi vẫn không thể hiểu được
tiếng Hoa một cách thành thục như người bản ngữ. Đấy là tôi đã rất cố
gắng. Trung Quốc trở nên hùng cường vào tương lai không thay đổi sự thật
cơ bản là tiếng Hoa là một ngôn ngữ cực kì khó học. Có bao nhiêu người
đến Trung Quốc, ở lại và làm việc ngoại trừ những người Hoa, người Châu
Âu và người Mỹ trở thành những chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc? Người
Trung Quốc cố gắng truyền bá ngôn ngữ của mình ra nước ngoài bằng việc
xây dựng các Viện Khổng Tử trên toàn thế giới, nhưng kết quả không được
tốt lắm. Người ta vẫn đến Hội đồng Anh và những cơ sở của Hoa Kỳ. Chính
phủ Hoa Kỳ thậm chí không cần phải cố gắng. Một thời họ có Trung tâm
Dịch vụ Thông tin Hoa Kỳ, nhưng đã bị đóng cửa vì không cần thiết nữa.
Đã có hàng loạt ấn phẩm, chương trình truyền hình và phim ảnh làm công
việc đó. Nên về quyền lực mềm thì Trung Quốc không thể thắng.
Một nguồn lực
khác mang lại sức cạnh tranh cho Hoa Kỳ là nhiều trung tâm xuất sắc cạnh
tranh lẫn nhau khắp cả nước. Ở bờ Đông có Boston, New York, Washington,
và ở bờ Tây có Berkeley, San Francisco, và ở miền Trung nước Mỹ thì có
Chicago và Texas. Bạn sẽ thấy sự đa dạng và mỗi trung tâm lại cạnh tranh
với nhau, không ai nhường ai. Khi người Texas thấy rằng mình có nhiều
dầu mỏ, James Baker – cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ và là người Texas – đã cố
gắng thành lập một trung tâm ở Houston để cạnh tranh với Boston hoặc New
York. Jon Huntsman, cựu đại sứ Hoa Kỳ ở Singapore và Trung Quốc và là
bạn của tôi, là một ví dụ khác. Gia đình ông có tiền sử bệnh ung thư
tuyến tiền liệt. Vì vậy khi ông thừa hưởng gia tài từ cha, ông mang
những nhà khoa học giỏi nhất trong lĩnh vực ung thư tuyến tiền liệt về
quê nhà ông là bang Utah để nghiên cứu vấn đề này.
Mỗi trung tâm
tin rằng mình tốt như các trung tâm còn lại, chỉ cần tiền và nhân tài,
điều có thể kiếm được. Không ai cảm thấy phải tuân theo Washington hay
New York. Nếu bạn có tiền, bạn có thể xây dựng một trung tâm mới. Bởi vì
khía cạnh này, có sự đa dạng trong xã hội và một tinh thần cạnh tranh
cho phép sản sinh ra những ý tưởng và sản phẩm mới hữu ích dài lâu.
Trung Quốc thì lại chọn một cách tiếp cận khác. Người Trung Quốc tin
rằng khi trung ương mạnh thì Trung Quốc sẽ giàu mạnh. Đây là một thái độ
cứng nhắc, yêu cầu mọi người phải tuân theo một trung tâm duy nhất. Mọi
người phải hành quân theo cùng một điệu trống. Ngay cả Anh và Pháp đều
không thể cạnh tranh với Hoa Kỳ về mặt này. Ở Pháp ai là nhân tài cuối
cùng đều vào các viện đại học nghiên cứu lớn. Ở Anh thì đó là Oxbridge
(Đại học Oxford và Đại học Cambridge). Những quốc gia này tương đối nhỏ,
gọn vì vậy cũng đồng bộ hơn.
Kể từ cuối thập
niên 1970 cho đến thập niên 1980, Hoa Kỳ mất vị trí dẫn đầu nền công
nghiệp về tay những nền kinh tế mới phục hồi như Nhật Bản và Đức. Họ bị
vượt mặt về đồ điện tử, thép, hoá , dầu và ngành công nghiệp xe hơi. Đây
là những ngành công nghiệp sản xuất quan trọng huy động nhiều nhân
công, kể cả những người lao động phổ thông được các công đoàn bảo vệ. Ở
một số nước châu Âu, các công đoàn chống đối các cải cách lao động bằng
việc đe dọa tiến hành các hành động công nghiệp có thể mang lại tổn thất
nghiêm trọng trong ngắn hạn. Nhưng ở Mỹ điều ngược lại đã xảy ra. Các
tập đoàn áp dụng những biện pháp thay đổi khó khăn nhưng cần thiết. Họ
giảm qui mô, giảm biên chế và cải tiến năng suất qua việc sử dụng công
nghệ, trong đó có công nghệ thông tin (IT). Nền kinh tế Hoa Kỳ trỗi dậy
trở lại. Các doanh nghiệp mới được mở ra để giúp các công ty tối ưu hoá
hệ thống IT của mình, như là Microsoft, Cisco và Oracle. Sau một khoảng
thời gian điều chỉnh đầy đau đớn, các công ty có thể tạo ra nhiều việc
làm mới trả lương tốt hơn. Họ không thích thú với nhưng công việc lỗi
thời mà Trung Quốc, Ấn Độ hay Đông Âu có thể làm được. Họ thấy được một
tương lai mà của cải không phải được tạo ra bởi việc chế tạo đồ dùng hay
xe hơi, mà bằng sức mạnh trí óc, sức sáng tạo, tính nghệ thuật, kiến
thức và bản quyền trí tuệ. Hoa Kỳ đã trở lại cuộc chơi. Họ giành lại
được vị trí là nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong các nước đã phát
triển. Tôi thật sự khâm phục sự năng động và tin thần khởi nghiệp của
người Mỹ.
Bạn tiếp tục
chứng kiến điều đó ngay lúc này đây. Người Mỹ vận hành một hệ thống gọn
gàng hơn và có sức cạnh tranh hơn. Họ có nhiều bằng sáng chế hơn. Họ
luôn cố gắng tạo được thứ gì đó mới hoặc làm điều gì đó tốt hơn. Tất
nhiên, điều này cũng có một cái giá của nó. Chỉ số thất nghiệp của Hoa
Kỳ lên xuống như một cái yoyo. Ở thời kì suy thoái, chỉ số thất nghiệp
từ 8 đến 10 phần trăm là chuyện hiển nhiên. Kết quả là một tầng lớp dưới
hình thành. Giữa những xa hoa, lấp lánh, các cửa hàng đẹp đẽ ở New
York, bạn cũng có thể dễ dàng thấy người Mỹ vô gia cư nằm trên vệ đường.
Họ không có gì ngoài tấm áo khoác thân và miếng thùng carton để nằm
ngủ. Một số người, kể cả nhà kinh tế học đoạt giải Nobel Paul Krugman,
đã lên án khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn ở xã hội Mỹ.
Điều này có
chấp nhận được không? Tôi không thể nói được. Có những tổ chức tôn giáo
và từ thiện giúp đỡ. Một số thành lập những quán ăn tình thương cho
người thất nghiệp, vv…. Nhưng mà bạn không thể vừa muốn có chiếc bánh
trong tay, vừa muốn ăn nó. Nếu bạn muốn tạo nên sự cạnh tranh mà Hoa Kỳ
đang có, bạn không thể tránh được việc tạo nên khoảng cách đáng kể giữa
tầng đỉnh và tầng đáy, và không thể tránh khỏi việc tạo nên một tầng lớp
dưới. Nếu như bạn chọn một nhà nước phúc lợi, như châu Âu sau Chiến
tranh thế giới lần thứ hai, bạn tự nhiên sẽ không còn năng động.
Cuối cùng, Hoa
Kỳ có một nền văn hoá tôn vinh những người dám tự làm tự chịu. Khi họ
thành công, họ được ngưỡng mộ như là một nhà khởi nghiệp tài năng và có
được sự công nhận và vị trí xã hội họ đáng được hưởng. Khi họ thất bại
thì điều này được coi là một giai đoạn tạm thời, tự nhiên và cần thiết
để rốt cuộc thành công. Vì vậy họ có thể đứng lên và bắt đầu lại. Nền
văn hoá này khác với Anh, một xã hội tĩnh hơn – nơi mà mọi người biết vị
trí phù hợp của mình. Nước Anh rất mang tính châu Âu về điểm này. Người
Anh từng có nhiều khám phá vĩ đại – máy hơi nước, máy kéo sợi và động
cơ điện. Họ cũng có nhiều giải Nobel khoa học. Nhưng rất ít khám phá
trong số này của họ trở nên thành công về mặt thương mại. Tại sao lại
như thế? Những năm dài của 2 thế kỉ đế chế đã hình thành một xã hội nơi
mà giới thượng lưu cũ và những quý tộc có ruộng đất được kính trọng.
Giới nhà giàu mới bị xem thường. Các sinh viên trẻ ưu tú mơ ước trở
thành luật sư, bác sĩ và trí thức – những người được ngưỡng mộ vì trí
tuệ và đầu óc của họ hơn là lao động cực nhọc hoặc lao động tay chân.
Hoa Kỳ thì lại khác, là một xã hội mới không có khoảng cách tầng lớp.
Mọi người đều ngưỡng mộ việc làm giàu – và muốn trở nên giàu có. Đây là
một động lực rất lớn để tạo nên các công ty mới và của cải. Thậm chí ở
các công ty của Mỹ, người trẻ có tiếng nói lớn hơn ở các cuộc họp, và
sức trẻ của họ được định hướng để giúp công ty trở nên sáng tạo hơn.
0 comments:
Post a Comment