Trong quan hệ đối ngoại và ngoại giao, ngoài các chính trị gia chuyên
nghiệp xung quanh, người ta còn thấy lực lượng truyền thông hùng hậu
luôn sẵn sàng chĩa hàng trăm ống kính, máy quay về mình, do đó, mỗi
chính khách khi xuất hiện cần luôn thấu hiểu vai trò quan trọng để đảm
bảo "lời ăn tiếng nói" không bị coi là hớ hênh.
Tuy nhiên, "nhân vô thập toàn", do đó đôi khi các chính khách hoặc các
nguyên thủ quốc gia cũng có lúc bị coi là sơ xuất khi phát ngôn. Nguyên
nhân làm điều này xảy ra thì rất nhiều, có thể do sức khỏe không tốt lắm
vào lúc xuất hiện trước công luận và rất nhiều lý do chủ quan, khách
quan khác.
Sơ xuất phát ngôn?
Lịch sử ngoại giao quốc tế đã chứng kiến nhiều phát ngôn bị coi là sơ
xuất của các chính khách nổi tiếng, cho đến các nhà quân sự lỗi lạc?
Trong một bài diễn văn gây tranh cãi ngày 4/2/2006, Ngoại trưởng Nhật Bản lúc bấy giờ - ông Taro Aso [1] "...đã gọi Đài Loan là một quốc gia có mức độ giáo dục rất cao nhờ ở thời kỳ thuộc địa Nhật Bản trước đó trên hòn đảo này..." cùng một số nội dung khác.
Trang taipeitimes đưa tin về việc này, có viết [2]:
"Foreign ministry officials in Beijing were not available for comment on Aso's latest remarks". (Tạm dịch: Các viên chức Bộ Ngoại giao thuộc Bắc Kinh đã không bình luận về những lời này của ông Taro Aso)
Hoặc chúng ta cũng biết [1] "...Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ - [ông]
Donald Rumsfeld năm 2005 đã phát biểu trên một tờ báo tiếng Trung tại
California tháng 7, 2005 rằng Đài Loan là "một quốc gia có chủ
quyền"...". Dù không rõ nguyên nhân nào dẫn đến phát ngôn Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng Hoa Kỳ như thế, nhưng "...Trung Quốc chỉ phát hiện ra điều đó
ba tháng sau khi lời tuyên bố được đưa ra". Đó lại cho thấy việc
nắm thông tin kịp thời để có phản ứng phù hợp đã không được giới cầm
quyền Trung Quốc chú trọng thường xuyên cho lắm.
Thậm chí, theo wikipedia, cựu Thủ tướng Chu Dung Cơ không tránh được "tai nạn nghề nghiệp" khi nói "...trong
diễn văn cuối cùng trước Đại hội Nhân dân Toàn Quốc, [ông] đã sơ suất
coi Đại lục Trung Quốc và Đài Loan là hai quốc gia riêng biệt..."
Đại tướng Phùng Quang Thanh - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam vừa xuất
hiện trong hội nghị Shangri-La tại Singapore hôm 31/5, phát ngôn về xung
đột vụ giàn khoan HD-981 mà phía Trung Quốc kéo vào biển Đông ngày 01/5
đã nói [3]: "Trên thực tế, ngay ở trong quốc gia hay mỗi gia
đình cũng còn có những mâu thuẫn, bất đồng, huống chi là các nước láng
giềng với nhau còn tồn tại tranh chấp về biên giới, lãnh thổ hoặc va
chạm là điều khó tránh khỏi.". Đài BBC bình luận lời nói này như: "...xung đột...[xảy ra trong] mâu thuẫn gia đình".
Lời phát ngôn của tướng Thanh làm người đọc nhớ một ngạn ngữ, người Trung Hoa hay sử dụng: "Chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không"
trong các bộ phim cổ trang Hongkong. Nhiều bình luận cho rằng phát ngôn
như thế, có vẻ không tương xứng với tư thế của một đại tướng chịu trách
nhiệm cao nhất về mặt an ninh quốc phòng thuộc một quốc gia độc lập, có
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Ngạn ngữ nêu trên, nói về quan điểm và giải quyết mọi vấn đề thường xảy
ra vào thời phong kiến tại Đại lục. Hầu hết xung đột, tranh chấp, đặc
biệt mâu thuẫn hoặc tranh giành trong "cung vua phủ chúa", thảy đều diễn
ra theo góc nhìn thuộc mối quan hệ "tứ đại đồng đường", để lấy nó làm
"chuẩn mực" phân định theo "tôn ti trên dưới", sao cho "dưới" phải phục
tùng mọi quyết định của "trên". Thậm chí, "dưới" có bị "xử ép" đi nữa,
cũng phải "cắn răng chịu đựng" nhằm giữ "giềng mối" cho một hình ảnh
"trong ấm ngoài êm" giúp "thiên tử" trên ngôi cửu ngũ luôn được ca tụng
tài "trị quốc an dân" trong một xứ sở "thái bình thịnh trị" muôn đời.
Ý nghĩa xưa kia không sai. Tuy nhiên, từ rất lâu, nó hoàn toàn lạc hậu
và không còn thích hợp với thời hiện tại - Thời của toàn cầu hóa và thế
giới phẳng hôm nay.
Do đó, nhiều ý kiến cho rằng, Đại tướng Phùng Quang Thanh nên cẩn trọng
hơn và cần tỏ rõ bản lĩnh với tư cách đại diện một quốc gia có tên trong
Liên Hiệp Quốc và là thành viên không thường trực thuộc Hội đồng Bảo An
Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009.
"Quân bất hí ngôn".
Trung Hoa có câu: "Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy". Việt Nam có tục ngữ "Lời nói như đinh đóng cột".
Cả hai đều nhằm để nhắc nhở mọi người luôn cẩn trọng cho bất kỳ lời
phát ngôn nào. Có lẽ, các chính khách, các nguyên thủ cũng như các nhà
quân sự thừa biết điều này, trong một thế giới ngày càng văn minh hơn.
Tất nhiên, còn nhiều câu tục ngữ Việt Nam khác, mặc dù không nhẹ nhàng
cho lắm, ví như "Một lời nói một đọi máu", nhưng cũng nên dẫn ra để thấy
người Việt Nam cũng biết lấy chữ "Tín" làm trọng và cũng hiểu rõ đạo lý
làm người ra sao.
Theo thời gian, con người đã biến lời nói trở thành con chữ để diễn đạt
rõ ràng, chỉn chu cho ý chí và nguyện vọng, cũng như để xác tín bằng
"giấy trắng mực đen" mà người Việt thường gọi là "làm bằng". Bởi lời nói
có thể phôi phai theo thời gian vì lý do này hay lý do khác, để rồi
"mất dấu tích", từ đó gây khó khăn cho các thế hệ về sau trong việc kiểm
chứng, đối chiếu, so sánh và giải quyết những vấn đề rốt ráo do thế hệ
đi trước, dù hữu ý hay vô tình tạo ra.
Xã hội từ đó - cũng rất xa xưa - phát minh ra bộ môn khoa học mang tên
"Lịch Sử". Bộ môn khoa học này đã khẳng định vai trò không thể thiếu
được trong xã hội loài người và ngày càng rất quan trọng.
Người Trung Hoa từ xưa đã có câu: "Quân bất hí ngôn" để thấy rằng, mọi
việc dù lớn hay nhỏ, dù bình thường hay rất quan trọng, "vua" đã nói thì
không thể coi là lời giỡn chơi được. Ngay cả một thường dân cũng hiểu
điều này để biết "Tự Trọng". Bởi có tự trong mới biết tôn trọng người
khác.
Song song đó, có lẽ để giúp cho những người mắc chứng "đãng trí" hoặc
những người không biết tôn trọng lời nói của mình, từ đó pháp luật ra
đời?
Theo thời gian, với hành tinh nhỏ bé có tên "Trái Đất", con người ngày
càng giao lưu nhiều hơn thông qua giao thương và giao thoa về văn hóa và
có lẽ cả từ chiến tranh, để từ đó xã hội cần đến một khái niệm bao quát
hơn nhưng cụ thể hơn và cũng để diễn đạt được mọi vấn đề tranh chấp một
cách khoa học, văn minh, ôn hòa khả dĩ. Cũng từ đó, "Luật Pháp Quốc Tế"
được sinh ra để mưu cầu công lý và sự thật cho tất cả các bên nhằm
tránh nạn "động binh đao". Tất nhiên, lý lẽ và luật pháp quốc tế chỉ có ý
nghĩa thực tiễn, khi đôi bên đều yêu chuộng hòa bình và biết tự trọng
cũng như tôn trọng lẫn nhau.
Pháp luật quốc tế, dù sao, vẫn mang tính tương đối trong một hành tinh vẫn còn quá nhiều tranh chấp ác liệt.
Từ sau "Thế chiến thứ 2" cho đến "chiến tranh lạnh" - được xem là chấm
dứt vào đầu thập niên 90' thế kỷ trước, khi Liên Xô và nhiều quốc gia
theo chủ nghĩa cộng sản sụp đổ, đại đa số nhân loại đều không muốn chiến
tranh quay lại, dù nhiều người đang băn khoăn để gọi lại tên nó trong
khoảng 10 năm trở lại đây, từ khi những chỉ dấu căng thẳng trên thế giới
ngày càng rõ hơn. Những dấu hiệu như thế xuất phát từ nhiều chế độ độc
tài sụp đổ tại Bắc Phi, Trung Đông cũng như nhà độc tài Yanukovich tại
quốc gia Ukraine bỏ chạy qua Liên Bang Nga và đang gây ra xung đột mãnh
liệt tại xứ sở này với bán đảo Crimea hiện có vẻ do Nga tạm thời cai
quản. Biến cố quan trọng này đã kéo theo cả Hoa Kỳ và Châu Âu vào cuộc
với đòn trừng phạt kinh tế đang áp dụng với Nga.
"Các đảo khác" tên gì, ở đâu?
Trong "Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc về lãnh
hải", được cho là "thông qua kỳ họp thứ 100 của Ban Thường trực Quốc hội
Nhân dân ngày 04/9/1958", có 4 điều, trong đó điều một nói rằng:
Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý.
Điều lệ này áp dụng cho toàn bộ lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Quốc bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài
khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bời biển cả)
và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa,
quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
Nhiều người tin rằng, do "tuyên bố" này, nên mới phát sinh ra công hàm
1958 do ông Phạm Văn Đồng ký ngày 14/9/1958. Tuyên bố đó và công hàm kia
gây sóng gió triền miên mối quan hệ Việt - Trung cho đến hôm nay.
Trong điều 1 - nhiều người cho là quan trọng nhất - người ta thắc mắc và
hoài nghi cụm từ "các đảo khác". Không thể biết 3 chữ này được diễn
giải ra sao và những ai, những tổ chức nào của nước CHNDTH có đủ thẩm
quyền diễn giải nó?
Bản "tuyên bố" đó là "tuyên bố" nhân danh quốc gia. Một tuyên bố quốc
gia - vẹn toàn lãnh thổ - không cắt rời. Vì thế, dứt khoát nó không thể
và không được phép dung chứa những ý nghĩa mơ hồ. Khẳng định phạm vi
lãnh thổ một cách mơ hồ như thế nghĩa là khẳng định điều vô nghĩa.
Thậm chí, giả sử công hàm 1958 được cứu xét cùng với tuyên bố 04/9/1958, chúng ta thấy:
- Trong điều 1 của bản "tuyên bố" 04/9/1958, một chữ gây chú ý lớn, đó
là liên từ "VÀ" (tiếng Anh - "and"). Đây là một liên từ mạnh, nó nói lên
ý nghĩa liên kết: không được phép tách rời những gì đang đề cập đến,
trong văn bản tối quan trọng đó (đối với nước CHNDTH). Điều này có
nghĩa,
- Ông Phạm Văn Đồng với tư cách Thủ tướng Chính phủ - nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) lúc bấy giờ, không những "ghi nhận và tán thành"
các đảo có tên mà còn "ghi nhận và tán thành" cả "các đảo khác". "Ghi
nhận và tán thành" đó hoàn toàn vô nghĩa.
- Về mặt con số: 12 hải lý trong bức công hàm, chỉ có ý nghĩa khi "các
đảo khác" buộc phải có tên gọi riêng với tọa độ cụ thể trên biển để xác
định. Không có địa điểm cụ thể, nhất định con số đó vô nghĩa.
Với phân tích trên, chúng ta thấy, một khi nhà nước CHNDTH không làm rõ
được "các đảo khác" đồng nghĩa "tuyên bố" đó vô giá trị. Như vậy, công
hàm 1958 "ghi nhận và tán thành" cái vô giá trị trở thành vô giá trị
theo.
Kết
Đài Loan (còn gọi là Trung Hoa Dân Quốc) liên quan nhiều nhất và ảnh
hưởng nghiêm trọng nhất về mặt lãnh thổ trong nội dung bản "tuyên bố",
với tư cách cùng "huyết thống" quốc gia CHNDTH, nhưng tuyệt nhiên, người
ta không tìm thấy bất kỳ một hồi đáp nào hay một phản ứng ngược lại nào
đó, có liên quan đến "bản tuyên bố" này? Đó phải chăng, giới cầm quyền
Đài Loan đã phát hiện từ lâu, tính chất vô nghĩa và vô giá trị của bản
"tuyên bố", nên họ từng cười xòa và coi bản "tuyên bố" như một trò ú
tim, chỉ đạt "giá trị" hù dọa đối với những người "yếu bóng vía" trong
một bộ phim "kinh dị hài" Hongkong?
Dù sao, bất kỳ giải thích nào của cái "tuyên bố" đó cũng phải có thời
gian kết thúc cụ thể và lời diễn giải chi tiết "các đảo khác" nhất định
phải do người có đủ thẩm quyền thay mặt quốc gia và quốc dân của nước
CHNDTH mới đảm bảo "giá trị" như bản "tuyên bố" mong muốn, ít nhất đối
với nước CHXHCNVN. Bởi CHXHCNVN - với tư cách lân bang và là quốc gia
duy nhất phúc đáp tuyên bố đó. Một "tuyên bố" đơn phương, vô nghĩa và vô
giá trị.
__________________________________
Chú thích:
0 comments:
Post a Comment