Người dân Việt Nam, trong cũng như ngoài
nước, rất quan tâm đến vận nước nhưng đa số sống trong tâm trạng chờ
đợi. Chờ đợi người yêu nước và nhiều khi cũng chờ đợi cả kẻ bán nước.
Chờ đợi đồng minh và chờ đợi luôn kẻ thù. Mỗi tin tức chính trị là cơ
hội để những người chờ đợi bàn thảo, suy diễn theo ước muốn và quan điểm
chủ quan của mình. Chuyến đi của Nguyễn Phú Trọng gây nhiều bàn thảo
trước khi y đi, phân tích khi y đến, dự đoán những gì sẽ xảy ra sau khi
y về.
Nhưng rồi, cũng như bao nhiêu chuyến đi
trước của các lãnh đạo CS, sẽ không có gì thay đổi cả. Ngoài Biển Đông,
máu của ngư dân Việt Nam đã đổ và sẽ tiếp tục đổ. Trong lòng biển,
nguồn dầu khí Việt Nam ngày càng bị vét cạn. Trên đất liền, tài nguyên
thiên nhiên bị Trung Cộng khai thác sẽ còn tiếp tục bị khai thác. Chuyến
đi của Nguyễn Phú Trọng không tạo ra nên một thay đổi cấp bách và tức
khắc nào trong bang giao Việt Mỹ và Việt Trung bởi vì thay đổi mang tính
cách mạng không phải là mục đích của y.
Mục đích chuyến đi của Nguyễn Phú Trọng
Một số nhà phân tích cho rằng sự kiện
Trung Cộng vào ngày 1 tháng 5, 2014 đã đưa giàn khoan HD-981 đến cách
đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa chỉ 17 hải lý và cách đảo Lý Sơn,
thuộc tỉnh Quảng Ngãi 120 hải lý trong khi cách đảo Hải Nam đến 180 hải
lý, là điểm vượt giới hạn (tipping point) mà CSVN có thể chấp nhận. Hành
động bành trướng một cách lộ liễu của Trung Cộng ít nhiều đã làm cho
khuynh hướng chống Tàu gia tăng trong nội bộ lãnh đạo CSVN. Trung Cộng
khôn ngoan tạm thời dời giàn khoan để làm dịu tình hình.
Giả thiết Trung Cộng nhận ra và dừng lại
tại điểm vượt giới hạn, rồi những gì xảy ra trước sự kiện HD-981, hàng
trăm vi phạm trắng trợn luật quốc tế, nghiêm cấm đánh cá, húc đụng tàu
bè và tàn sát ngư dân Việt Nam của CSTQ chẳng lẽ là trong giới hạn và
được lãnh đạo CSVN chấp nhận hay sao?
Hôm 18 tháng 7 vừa qua, Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hà Nội “Về
nước cũng nhận được nhiều đánh giá, gọi điện hỏi, chúc mừng, cho đây là
thành công rất lớn, gọi đây là cuộc gặp gỡ lịch sử, xem ông cộng sản
Việt Nam đi ra nước ngoài thế nào mà đến Phòng Bầu dục ở Nhà Trắng, đối
thoại với Tổng thống Mỹ, là việc chưa từng có trong lịch sử, mà lại là
hai ông cựu thù”.
Mục đích hàng đầu của Nguyễn Phú Trọng đúng là “đến Phòng Bầu dục Nhà Trắng, đối thoại với Tổng thống Mỹ”.
Rất đơn giản, không có gì phức tạp như nhiều người bàn tán. Nguyễn Phú
Trọng muốn chứng tỏ cho thế giới và nhất là nhân dân Việt Nam thấy Mỹ đã
thừa nhận tính chính danh của đảng CS. Lần đầu tiên một Tổng Bí Thư
đảng CSVN đặt chân vô Tòa Bạch Ốc. Không lạ gì trước ngày đi, mấy trăm
tờ báo và các hệ thống truyền hình, truyền thanh của đảng đều nhấn mạnh
đến chuyện “thảm đỏ” theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen.
Tập Cận Bình, tháng Tư năm nay, đã dành
cho Nguyễn Phú Trọng một buổi tiếp đón trịnh trọng ngoài sức tưởng tượng
của y mặc dù trước đó đã từ chối tiếp y. Hình thức tiếp đón dù màu sắc
bao nhiêu cũng không gây tiếng vang quốc tế nào vì cả hai đều là lãnh
đạo của hai đảng CS. Như người viết đã trình bày trong bài trước, cách
Mỹ tiếp đón Nguyễn Phú Trọng cho thấy Mỹ chỉ thừa nhận yếu tố CSVN trong
xung đột Biển Đông chứ không phải thừa nhận tính chính danh lãnh đạo
Việt Nam của đảng CS.
Đối với các đảng CS cầm quyền, tính
chính danh vô cùng quan trọng. Tấm bình phong “giải phóng dân tộc” đã
giúp cho các đảng CS ở châu Á tồn tại đến nay trong khi hầu hết các
đảng CS châu Âu đều sụp đổ.
Sau biến cố Thiên An Môn, Đặng Tiểu Bình
nhận ra rằng chỉ đề cao “tư tưởng Mác Lê” chẳng những không đủ mà còn
là một đe dọa đối với chế độ. Để ngăn chặn các tư tưởng tự do dân chủ
đang lan rộng trong giới trí thức trẻ, y chỉ thị phải chuyển hướng tuyên
truyền từ chủ nghĩa Mác Lê sang chủ nghĩa dân tộc. Ngay cả đảng CSTQ
cũng phải thay hình đổi dạng từ một đảng vô sản chuyên chính sang loại
hình CS dân tộc. Các lãnh đạo CSVN đã và đang áp dụng gần như rập khuôn
phương pháp tuyên truyền của CSTQ qua việc đưa vai trò của chính phủ nổi
bật hơn vai trò của đảng và lừa gạt được khá nhiều người.
Trước ngày đi Mỹ, Nguyễn Phú Trọng đã
vội vã sang Bắc Kinh triều kiến Tập Cận Bình và trấn an y. Bản tuyên bố
chung giữa Nguyễn Phú Trọng và Tập Cận Bình ký ngày 8 tháng Tư năm nay
mang nội dung đầu hàng, thần phục. Người đọc có cảm tưởng văn bản này ký
năm 1955 khi CSVN thở nhờ bình dưỡng khí Trung Cộng chứ không phải
2015.
Đọc toàn văn bản tuyên bố giữa Tập Cận
Bình và Nguyễn Phú Trọng, một người có chút ít kiến thức và nhận thức
chính trị căn bản không khỏi ngỡ ngàng. Ngày nay, nhân loại đã bước đi
một đoạn đường trên thiên niên kỷ thứ ba văn minh dân chủ mà Nguyễn Phú
Trọng còn buông ra được những câu sặc mùi Diên An, Pác Bó như “tình
hữu nghị truyền thống Việt - Trung do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch
Mao Trạch Đông cùng các nhà lãnh đạo tiền bối hai nước đích thân vun đắp
là tài sản quý báu của hai Đảng”. Y cũng không quên những lời nịnh
bợ Trung Cộng một cách lạc lõng khi nhắc lại thời kỳ Mao còn mỗi đêm nã
vài ngàn viên đại pháo sang các đảo Kim Môn và Mã Tổ như “ủng hộ
quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan phát triển hòa bình và sự nghiệp lớn
thống nhất Trung Quốc, kiên quyết phản đối hành động chia rẽ Đài Loan
độc lập dưới mọi hình thức”.
Chuyến đi Mỹ và nội dụng những lời phát
biểu Nguyễn Phú Trọng tại Mỹ nếu không phải toàn văn thì cũng đại ý đã
được trình bày với Tập Cận Bình. Do đó, mặc dù rất nhạy cảm trước các
biến cố ngoại giao gây bất lợi cho Trung Cộng, lãnh đạo Trung Cộng không
bày tỏ một thái độ bất bình chính thức nào trước chuyến viếng thăm Mỹ
của Nguyễn Phú Trọng.
Biết thế nhưng tại sao Obama vẫn tiếp Nguyễn Phú Trọng?
Tại sao không? Các lãnh đạo Mỹ tiếp bất
cứ chính trị gia, lãnh đạo đảng, nhà nước nào phục vụ cho chính sách đối
ngoại, trong trường hợp này là bao vây Trung Cộng, của Mỹ. Augusto
Pinochet của Chile, Manuel Noriega của Panama, Emílio G. Médici của Ba
Tây, Mobutu Sese Seko của Congo, Hosni Mubarak của Ai Cập, Samuel Doe
của Liberia và một danh sách dài của các lãnh đạo độc tài đã từng được
các tổng thống Mỹ bắt tay hay chào đón tại Phòng Bầu Dục, tòa Bạch Ốc.
Chưa đầy hai năm trước ngày Muammar
Gaddafi và con trai của y Mutassim Gadahfi bị giết, tháng Tư 2009, bà
Hillary Clinton đã tiếp Mutassim Gadahfi tại Washington DC và ca ngợi
việc tái lập quan hệ ngoại giao với kẻ đã từng bị TT Ronald Reagan gọi
là “chó điên” nhưng cũng chính Hillary Clinton đã đùa giỡn với các phụ
tá “Chúng ta Đến, Chúng ta Thấy, Hắn Chết !” ("We Came, We Saw, He
Died!") khi được báo tin Muammar Gaddafi bị quân cách mạng giết.
Mobutu Sese Seko, một trong những tên
độc tài tàn ác nhất Phi Châu, có tài sản ước lượng 5 tỉ đô do biển thủ
suốt 32 năm cai trị Congo. Sau khi thăm viếng lãnh tụ CS Bắc Hàn Kim
Nhật Thành về, Mobutu đã rập khuôn theo cách cai trị tàn ác của họ Kim. Y
ra lịnh thay đổi tên đường, tên phố, quốc kỳ, quốc ca, và tháng 10,
1971 thay cả tên nước. Mobutu Sese Seko là một trong những nhà độc tài
đã được đón tiếp trịnh trọng đến bốn lần (ba lần dưới thời Ronald
Reagan, một lần dưới thời George H. W. Bush) tại Phòng Bầu Dục Tòa Bạch
Ốc. Tuy nhiên, cũng chính phủ Mỹ năm 1993 đã từ chối cấp thông hành cho
Mobutu vào Mỹ khi con cờ chống Liên Xô tại Phi Châu đã không còn cần
thiết.
Từ “Xoay trục Thái Bình Dương” (Pacific Pivot) đến “Tái cân bằng” (Rebalance) Á Châu của Mỹ
- Thời TT Bill Clinton.
Các nhà chiến lược Mỹ đã thấy nhu cầu xoay trục sang Á Châu rất sớm.
Sau Chiến tranh Lạnh, quyền lợi kinh tế thương mại đã được nâng lên
ngang tầm với quyền lợi về an ninh quốc gia. Bộ trưởng Thương Mại Ron
Brown dưới thời Bill Clinton đã tuyên bố “Quyền lợi thương mại hiện nay
ngang mức với an ninh thế giới trong chính sách đối ngoại”. Thượng Đỉnh
của Diễn Đàn Hợp Tác Kinh Tế Á Châu Thái Bình Dương (APEC) vào tháng 11,
1993 tại Seattle tất cả thành viên của ASEAN, ngoại trừ Mã Lai, đều
tham dự. Quan hệ mậu dịch hai chiều giữa Mỹ và các nước ASEAN vào 1996
đã lên đến 109 tỉ đô la, 57% cao hơn so với Trung Cộng và cao hơn so với
Nam Mỹ hay so với Phi Châu. Việc TT Clinton đồng ý tái lập quan hệ
ngoại giao với CSVN vào tháng Bảy 1995 cũng là phần trong chiến lược
xoay trục sang Á Châu của Mỹ. Tuy nhiên suốt thời kỳ của TT Bill
Clinton, chính sách Mỹ đối với Trung Cộng đặt nặng trên các yếu tố kinh
tế thương mại hơn là quân sự. Theo kết quả thăm dò của Gallup năm 1999,
47 phần trăm số người được hỏi cho rằng TT Clinton đã đi quá xa trong
việc duy trì một quan hệ xây dựng với Trung Cộng.
- Thời TT George W. Bush.
TT George W. Bush thuộc đảng Cộng Hòa và bộ tham mưu của ông là những
Cộng Hòa bảo thủ. Chính sách đối ngoại của TT George W. Bush được các
tóm tắt bằng ba chữ ABC (Anything But Clinton) nghĩa là bất cứ chính
sách nào ngoại trừ các chính sách đã được TT Bill Clinton theo đuổi.
Suốt thời gian vận động ứng cử George W. Bush nhấn mạnh Trung Cộng là
một đe dọa chiến lược đối với Mỹ chứ không phải là hợp tác chiến lược
như TT Clinton biện hộ. Condoleezza Rice, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia và sau
đó là Ngoại Trưởng thời TT Bush tố cáo “Trung Cộng đang thay đổi cán
cân quyền lực theo ý họ”. Chỉ 100 ngày sau khi nhậm chức, TT George W.
Bush tuyên bố “sẽ làm tối đa những gì để có thể làm để giúp Đài Loan bảo
vệ chính họ” trong trường hợp bị Trung Cộng tấn công. Các tổng thống
tiền nhiệm dù Cộng Hòa hay Dân Chủ đều tránh trả lời một cách dứt khoát
như TT George W. Bush.
- Trung Cộng “đục nước béo cò” sau biến cố 9/11. Biến
cố ngày 11 tháng 9, 2001 đã buộc chính phủ Mỹ đặt trọng tâm vào Trung
Đông hơn là Á Châu Thái Bình Dương. Mỹ cũng cần hòa dịu với Trung Cộng
vì muốn Trung Công nếu không ủng hộ Mỹ công khai tại Liên Hiệp Quốc và
các diễn đàn quốc tế, ít ra cũng bằng lòng ngầm khi Mỹ phát động chiến
tranh tại Iraq và Afghanistan. Chiến tranh Iraq là một
cơ hội để Trung Cộng bành trướng Á Châu Thái Bình Dương. Yuan Peng, Giám
đốc bộ phận Mỹ thuộc Viện Trung Quốc về Quan Hệ Quốc Tế Hiện Đại thừa
nhận “Chúng tôi nắm lấy cơ hội để cải thiện kinh tế, cải thiện các mối
quan hệ với láng giềng và cải thiện quan hệ với Mỹ”. Gọi là “cải thiện
các mối quan hệ với láng giềng” nhưng thực chất là Trung Cộng gây sự với
hầu hết các nước trong vùng như Nhật Bản qua vụ xung đột đảo Senkaku
vào tháng Chín 2010, bắn vào tàu đánh cá Philippine và kiểm soát Việt
Nam một cách chặc chẽ hơn. Chính phủ Mỹ nghĩ rằng dù sao Trung Cộng nên
hành xử với tư cách một cường quốc có trách nhiệm và giữ đúng lời cam
kết mà Hồ Cẩm Đào “không chủ trương độc quyền bá chủ” Á Châu Thái Bình
Dương. Thực tế đã trái ngược. Từ năm 2006, Trung Cộng chi tiêu dành cho
quốc phòng cao thứ năm trên thế giới và có mức gia tăng hàng năm cao hơn
bất cứ quốc gia Tây Phương nào.
- Thời TT Barack Obama.
Các chính sách dưới thời TT Obama bao gồm thỏa hiệp tự do mậu dịch với
Nam Hàn (FTA), tham gia đàm phán TTP là bước tiếp tục đã được thực hiện
từ thời TT George W. Bush. Chủ trương hiện đại hóa quân sự một cách cấp
bách của Trung Cộng đã đặt ra cho các nhà làm chính sách Mỹ một chọn
lựa phải cứng rắn và cụ thể hơn trước sự bành trướng quân sự của Trung
Cộng.
Năm 2010 tại Hà Nội, Hillary Clinton,
lúc đó là Ngoại Trưởng, tuyên bố mạnh mẽ Hoa Kỳ sẽ “chống lại việc bất
cứ một quốc gia tranh chấp nào sử dụng vũ lực”. Cùng vào thời gian đó,
để đánh dấu 15 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước, Mỹ
gởi hàng loạt chiến hạm viếng thăm Đà Nẵng hay trong khu vực biển Đà
Nẵng như Hàng Không Mẫu Hạm USS George Washington, khu trục hạm USS John
S. McCain. Năm trước đó, khu trục hạm USS Blue Ridge USS Lassen, tàu
bịnh viện USNS Mercy, hàng không mẫu hạm USS John C. Stennis và cả soái
hạm của Đệ thất Hạm đội USS Blue Ridge cũng thăm viếng Việt Nam. Mùa
thu 2011 đánh dấu thời điểm chính quyền Obama đặt ưu tiên sự hiện diện
quân sự của Mỹ tại Á Châu lên hàng đầu như đã khẳng định trong diễn văn
trước Quốc Hội Úc tháng 11, 2011.
Mặc dù ngân sách quốc phòng Mỹ trong tài
khóa 2011, 2012 bị cắt giảm nhưng ảnh hưởng Lục Quân và Thủy Quân Lục
Chiến nhiều hơn là Hải Quân. Điều đó cho thấy Á Châu-Thái Bình Dương đã
được đánh giá cao trong quan điểm của các nhà chiến lược quốc phòng Mỹ.
Khái niệm Trận chiến Hải Không (Air-Sea Battle) gọi tắt là ASB là một
khái niệm chiến tranh mới do các chiến lược gia quốc phòng Mỹ đặt ra.
Khái niệm này được nhắc đến lần đầu vào năm 2010 và là một trong những
điểm được các nghị sĩ và dân biểu Mỹ quan tâm nhất. Chiến lược ASB nhắm
vào hai đối tượng thù địch là Trung Cộng và Iran.
Sự kiện đưa máy bay thám thính tối tân
nhất của Mỹ US P8-A Poseidon bay trên khu vực Trung Cộng đang xây đảo
nhân tạo trên Biển Đông và Khu trục hạm chiến đấu USS Forth Worth cũng
tiến vào khu vực Trung Cộng cho rằng thuộc chủ quyền của họ là một thể
hiện của phối hợp chiến lược ASB. Hôm 18 tháng Bảy vừa qua, đích thân Đô
đốc Scott Swift, Tân Tư Lịnh Đệ Thất Hạm Đội Mỹ đã bay trên phi cơ thám
tính U.S. P-8A Poseidon suốt bảy giờ trong Biển Đông. Phát ngôn viên
Trung Cộng phản ứng nhẹ và xem đó là một sự kiện quân sự hơn là một biến
cố ngoại giao và kêu gọi Mỹ không nên chọn phe trong cuộc tranh chấp
chủ quyền trên Biển Đông giữa Trung Cộng và các quốc gia khác trong
vùng.
Chính sách bao vây, ngăn chận (containment) của Mỹ đối với Trung Cộng
Liên Xô từng rất mạnh ở trung tâm nhưng
yếu ở các vòng ngoài và đã dẫn đến tan vỡ khi các quốc gia vùng Baltic
và Trung Á ly khai đòi độc lập. Các lãnh đạo Cộng sản Trung Quốc luôn bị
ám ảnh với các những cuộc nổi dậy như Thiên An Môn có thể xảy ra bất cứ
lúc nào và bất cứ tại đâu trên lãnh thổ mênh mông và dị biệt sâu sắc về
kinh tế, văn hóa, xã hội. Và cũng giống như Liên Xô, lãnh đạo Trung
Cộng buộc phải đáp ứng nhu cầu chuyển hóa tự nhiên của xã hội qua các
đổi mới nhưng các lãnh đạo đảng cũng không thể biết trước giọt nước đổi
mới nào sẽ làm tràn ly cách mạng dân chủ.
Các nhà chiến lược Mỹ dĩ nhiên chuẩn bị
cho mọi khả năng sụp đổ của Trung Cộng nhưng dù khả năng nào, chính sách
bao vây ngăn chận tham vọng bành trướng của Trung Cộng vẫn là chính
sách được hầu hết các tổng thống Mỹ đã và đang theo đuổi. Trong thời
gian tới, Mỹ sẽ gia tăng áp lực, kể cả áp lực quân sự, từ bên ngoài để
Trung Cộng một ngày sẽ tan vỡ từ bên trong, giống như các TT Mỹ từ Harry
Truman đến Ronald Reagan đã thực hiện và thành công đối với Liên Xô.
Mỹ, Trung Cộng và Việt Nam là tam giác?
Trong bài báo mới đây trên The Diplomat “A Tipping Point in the US-China-Vietnam Triangle”, tác giả Alexander L. Vuving cho rằng quan hệ giữa Mỹ, Trung Cộng và Việt Nam đang thay đổi sâu sắc và ở trong thế tam giác.
Đánh giá Việt Nam dưới chế độ CS như là
một quốc gia có tư thế độc lập không phản ảnh thực tế kinh tế chính trị
của Việt Nam trong bang giao quốc tế. CSVN không có được vị trí của một
chân kiềng hay chân vạc gì cả. Trung Quốc và Mỹ đều muốn làm thầy, làm
chủ để sai khiến giới lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam thuận theo chính
sách của họ hơn là một đồng minh thân cận.
Trong buổi tiếp xúc với “cử tri Hà Nội” hôm 18 tháng 7, Nguyễn Phú Trọng tuyên bố một cách đắc chí “Rất hay là vừa đi Mỹ về, thì Phó thủ tướng Trung Quốc cũng sang đây”.
Nói vậy mà không biết mắc cỡ. Chẳng có gì hay. Việc Barack Obama tiếp
Nguyễn Phú Trọng, trong chiến lược chống Trung Cộng bành trướng Á Châu
cũng không khác gì khi Richard Nixon tiếp Sese Seko của Congo hay Ronald
Reagan tiêp Samuel Doe của Liberia trong chiến lược chống Liên Xô bành
trướng sang Phi Châu. Tất cả chỉ là những con cờ ngắn hạn của Mỹ.
Kết luận
Việt Nam hiện trong vị trí của một quốc
gia độn (buffer state). Bài học từ hai cuộc chiến Triều Tiên và Việt Nam
cho thấy Trung Cộng bằng mọi cách sẽ giữ quốc gia độn Việt Nam trong
vòng lệ thuộc hay ảnh hưởng. Mỹ cũng biết Trung Cộng không dễ dàng thả
lỏng Việt Nam nhưng với chính sách bao vây, Mỹ tiếp tục gây áp lực kể cả
áp lực quân sự để Trung Cộng đến một thời điểm chín mùi cho sự tan rã
sẽ tan rã từ bên trong.
Đành rằng nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc
nhiều vào Trung Cộng với 30% nhập cảng, 12% xuất cảng, 25% du khách
viếng Việt Nam, nhưng Trung Cộng không phải là nước không phụ thuộc vào
ai. Khoan nhắc đến các yếu tố tham nhũng có tính đảng, chủ nghĩa dân tộc
tai họa, tình trạng nhân quyền tồi tệ, ô nhiễm hàng đầu thế giới, chỉ
riêng nền kinh tế suy thoái do giảm đầu tư nước ngoài, mức xuất cảng các
sản phẩm kỹ nghệ nặng xuống thấp, mất cân đối trong các ngành sản xuất
là những vấn đề mà các lãnh đạo Trung Cộng phải điên đầu.
Giả thiết Việt Nam là một Nam Hàn,
Singapore, Thái Lan, Mã Lai, Trung Cộng có thể vẫn tìm cách gây hấn, ăn
hiếp nhưng không sai khiến các “lãnh đạo” như sai đầy tớ, muốn cho gặp
thì gặp không muốn thì thôi như Tập Cận Bình đối xử với các lãnh đạo
CSVN.
Ngoài Việt Nam, Trung Cộng chia sẻ biên
giới với 13 quốc gia khác (India, Pakistan, Afghanistan, Tajikistan,
Kyrgyzstan, Kazakhstan, Mongolia, Bhutan, Nepal, Miến Điện, Nga, Bắc
Hàn, Lào). Phần lớn các quốc gia này nhỏ hơn Việt Nam nhiều nhưng không
có một lãnh đạo quốc gia nào phải chầu chực, hầu hạ các lãnh đạo Trung
Cộng như cách các lãnh đạo CSVN đã và đang làm.
Lý do Trung Cộng sai khiến lãnh đạo CSVN
dễ dàng vì chúng biết rõ gan ruột của đàn em một lần phản trắc này xem
quyền lợi của đảng lớn hơn, quan trọng hơn sự quyền lợi của đất nước.
Duy trì quyền cai trị của đảng CS là mục tiêu tối thượng, chi phối toàn
bộ chính sách đối nội và đối ngoại, ngắn hạn cũng như dài hạn của đảng
CSVN.
Khi phân tích về quan hệ giữa Việt - Mỹ
và Việt – Trung, nhiều nhà phân tích Tây phương bỏ sót một yếu tố có
tính quyết định, đó là cơ chế chính trị. Nếu đi ngược dòng lịch sử Việt
Nam cận đại, các nhà phân tích đó sẽ thấy cốt tủy của mọi xung đột chính
là cơ chế chính trị CS.
Muốn đứng thế chân vạc, một quốc gia
trước hết phải có vị trí độc lập trong tương quan về chính trị, kinh tế
và quân sự quốc tế. CSVN không có được vị trí độc lập và sẽ không bao
giờ có được vị trí độc lập khi nào đảng CS vẫn còn độc quyền cai trị
Việt Nam. Để có một vị trí độc lập trong bang giao quốc tế và để tạo thế
liên minh tin cậy chiến lược, Việt Nam trước hết phải là một quốc gia
dân chủ.
Trần Trung Đạo
No comments:
Post a Comment