Tuấn Phan
Đức Hùynh Giáo Chủ nhận xét Thục Phán An Dương Vương để mất nước Âu Lạc về tay Triệu Đà bằng hai câu thơ:
Mỵ Châu ơi, hỡi Mỵ Châu!
Mê chi thằng Chệt để sầu cho cha.
Rõ
ràng Ngài đã xác định Trọng Thủy, chồng của Mỵ Châu là …thằng Chệt mà
có nhiều lầm tưởng hắn là người Việt vì không đọc kỹ lịch sử nước nhà.
Chúng ta thử ôn lại một chút lịch sử giai đoạn nầy để thấy cái hoạ
mất nước về tay Tàu Hán Chệt luôn đeo đẳng dân tộc ta từ ngàn xưa và
đang có nguy cơ tái diễn vào thế kỷ 21 này.
1.- Triệu Đà, Trọng Thủy, Lữ Gia… của nước Nam Việt là ai? Tóm
tắt, khỏang thế kỷ thứ 3 trước Dương Lịch, Triệu Đà là một viên tướng
cũ của nhà Tần. Nhân cơ hội nhà Tần sụp đổ bởi cuộc khởi nghĩa của Lưu
Bang, ông lui về phía Đông Nam nước Tàu, hùng cứ một phương lập ra một
nước riêng tên là Nam Việt thuộc vùng Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay
giáp giới miền Bắc nước ta.
Sau
đó, Triệu Đà dòm ngó Âu Lạc, một quốc gia nhỏ bé phương Nam do Thục
Phán An Dương Vương trị vì nhưng bao lần mang quân chinh phạt ông đều
thất bại. Dò biết sự hùng mạnh của Âu Lạc qua truyền thuyết NỎ THẦN và
sự phòng bị vững vàng với CỔ LOA THÀNH, Triệu Đà dùng NAM NHÂN KỀ Trọng
Thủy, giả vờ cầu hòa và xin làm thông gia, với An Dương Vương để thực
hiện âm mưu nội gián.
Mặc
dù, sau đó Trọng Thủy và Mỵ Châu thực sự yêu thương nhau hết mực, nhưng
đặt việc nước lên trên, hắn đành phải lợi dụng sự ngây thơ chính trị
của vợ Mỵ Châu và sự ỷ lại của cha vợ Thục Phán để hòan thành sứ mạng do
vua cha Triệu Đà giao phó. Mối tình tào khang Trọng Thủy – Mỵ Châu kết
thúc bi thảm theo sự tiêu vong của nước Âu Lạc. Nhưng dưới thời vua thứ
năm Triệu Ai Vương, nước Nam Việt do công lao Triệu Đà gầy dựng, từng có
Thừa tướng đại lão trung thần Lữ Gia tài giỏi nhưng rồi cũng bị xóa sổ
trở thành một quận huyện của nhà Tây Hán. Nước Nam Việt (gồm luôn nước
Âu Lạc cũ) mất, mở màn cho ách Bắc thuộc lần thứ nhất, kéo dài gần ngàn
năm của giống nòi Việt.
2. Bài học lịch sử vong quốc chỉ vì MÊ THẰNG CHỆT Trọng
Thủy và QUÁ TIN TƯỞNG vào LÒNG TỐT (!?) của cựu thù Triệu Đà cha của
thằng Chệt, Thục Phán đã trả giá đắt và đây là một kinh nghiệm xương máu
không bao giờ được quên cho mọi triều đại Việt Nam suốt dòng lịch sử
Việt Nam tới tận ngày nay dưới triều đại Cộng Sản Việt Nam. Tuy Bộ Chính
Trị CSVN gồm hàng chục khối óc, nhưng chỉ có chung một trái tim Mỵ
Châu, luôn luôn tôn thờ, mê mệt đàn anh vừa là quan thầy Chệt Cộng.
Nguy
cơ mất nước đang hiện dần trước mắt, đúng như lời cảnh cáo của Đức
Hùynh Giáo Chủ rằng CSVN (Mỵ Châu) mê chi thằng Chệt Cộng (Trọng Thủy)
làm mất nước (sầu cho cha). Tên thi nô Tố Hữu của VC có mấy câu thơ: “ Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu. Trái tim lầm chỗ để trên đầu. Nỏ thần vô ý trao tay giặc. Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu”,
nhưng liệu đám Bộ Chính Trị CSVN có thức tỉnh hay nói một đường làm một
nẻo vì bọn chúng đã và đang trao “Nỏ thần Việt Nam” vào tay giặc Chệt
Cộng…
3. Ghi công … giặc Chệt! Thật
lạ lùng, trước 30-4-1975 tại Saigon chình ình con đường Triệu Đà và cả
một doanh trại Quân Cụ cùng tên nằm trên đường Trần Quốc Tỏan (VC đổi là
3/2), đường và cư xá Lữ Gia; tòan là tên của giặc Chệt đã thôn tính
nước Âu Lạc chúng ta! Mù mờ hay lơ là lịch sử dân tộc, vô tình tôn thờ
giặc xâm lăng làm…tổ tiên thì quả là đáng trách!
Trong khi đó Thống Quốc Thái Sư Trần Thủ Độ có công lớn dựng nghiệp Trần Triều hiển hách lại không có
con đường nào mang tên…ông! Có bất công không, hay chỉ vì ông quá tàn
nhẫn với nhà Lý, với chủ trương “trảm thảo trừ căn” dù ông là một rường
cột vững mạnh trong công cuộc bảo vệ đất nước Đại Việt trước gót giày
xâm lược của đế quốc Nguyên Mông?
Nếu không có câu nói khẳng khái đi vào lịch sử của ông: - Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” thì có thể vua Trần Thái Tông đã nghe lời em ruột là
Thái úy Trần Nhật Hạo dâng Đại Việt sớm cho kẻ thù sau khi văn võ triều
thần phải chạy khỏi kinh đô Thăng Long trước sức tấn công vũ bão của
giặc xâm lăng!
Cho
hay hiểu biết đúng và rõ lịch sử giống nòi thật vô cùng cần thiết và là
điều kiện tiên quyết nhằm rút tỉa những kinh nghiệm quý báu trong việc
bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam yêu dấu! Liên quan đề tài bài viết,
tôi xin phổ biến bài thơ “Lấy Chồng Chệt” của
Đức Hùynh Giáo Chủ, gợi lên tình yêu giống nòi nồng nàn ngay cả trong
hôn nhân để thức tỉnh mọi người Việt Nam về hiểm họa xâm lăng từ phương
Bắc lúc nào cũng cận kề chúng ta.
Tuấn Phan
Lấy Chồng Chệt
Lúc
Đức Thầy đang ẩn lánh 1946, Ngài có gặp một cô gái Việt lấy chồng Ngô.
Tức cảnh, Ngài có làm một bài thi sau đây (dùng biệt hiệu Hòai Việt):
Cô ơi, nước Việt Nam thiếu gì trai trẻ
Mà vội đi làm lẽ "Ba Tàu"?
Của tiền quý báu là bao
Đem tuổi mười tám so vào bốn mưởi
Rồi nuôi tánh biếng lười mê ngủ
Để ngày kia ủ rũ đau thương
Khi ba Tàu xách gói hồi hương
Vàng bạc tóm, bỏ cô thơ thẩn
Cô nhìn theo muôn vàn tiếc hận
Cô vì chàng mà bẩn tiết trinh
Cô tủi thân, cô lại bất bình
Nhưng muộn quá, tuổi xuân không trở lại
Trong tương lai, cô đầy sợ hãi,
Hoa úa tàn, người lại rẻ khinh
Cô tiếc rằng phải tuổi còn xinh (xanh)
Cô sẽ chọn người chồng Nam Việt
Ở trong hàng thanh niên, thanh niết
Tuy nghèn hèn, mà biết thủy chung
Yêu đương nhau đến phút cuối cùng
Vợ chồng ấy mới chân hạnh phúc
Ta là khách phương xa tá túc
Thấy sự đời vẽ khúc văn chương
Thấy đời cô chìm đắm trong gió sương
Than ít tiếng gọi hồn chủng loại
Việt Nam, người Việt Nam mau trở lại !
Yêu giống nòi có phải hơn không ?
Dầu sao cũng giống Lạc Hồng
Mà vội đi làm lẽ "Ba Tàu"?
Của tiền quý báu là bao
Đem tuổi mười tám so vào bốn mưởi
Rồi nuôi tánh biếng lười mê ngủ
Để ngày kia ủ rũ đau thương
Khi ba Tàu xách gói hồi hương
Vàng bạc tóm, bỏ cô thơ thẩn
Cô nhìn theo muôn vàn tiếc hận
Cô vì chàng mà bẩn tiết trinh
Cô tủi thân, cô lại bất bình
Nhưng muộn quá, tuổi xuân không trở lại
Trong tương lai, cô đầy sợ hãi,
Hoa úa tàn, người lại rẻ khinh
Cô tiếc rằng phải tuổi còn xinh (xanh)
Cô sẽ chọn người chồng Nam Việt
Ở trong hàng thanh niên, thanh niết
Tuy nghèn hèn, mà biết thủy chung
Yêu đương nhau đến phút cuối cùng
Vợ chồng ấy mới chân hạnh phúc
Ta là khách phương xa tá túc
Thấy sự đời vẽ khúc văn chương
Thấy đời cô chìm đắm trong gió sương
Than ít tiếng gọi hồn chủng loại
Việt Nam, người Việt Nam mau trở lại !
Yêu giống nòi có phải hơn không ?
Dầu sao cũng giống Lạc Hồng
Hoài Việt (Miền Đông, năm 1946)
– Sấm Giảng Thi Văn Giáo Lý trang 466.
Lưu Ý: Trên websitewww.tialia.com trong
phần Vườn Thơ (Chủ Đề -Sưu Tầm) có phổ biến nguyên văn bài thơ Lấy
Chồng Chệt nầy của Hòai Việt mà không ghi rõ tác giả Hòai Việt là…ai
theo nguyên gốc! Thật là điều đáng tiếc, bởi vì đâu phải ai cũng biết
Hòai Việt là bút hiệu của Đức Hùynh Giáo Chủ
---------------------
Trước
đây khá lâu, trên trang nhà Cali today có đoạn hội thoại về hai chữ “Ba
Tàu”, rồi…”Chệt”. Về nguồn gốc hai chữ “Ba Tàu”, trong một DVD giải trí
ở hải ngoại, “thím Xẩm” Hồng Đào đã giải thích đại ý rằng:
Một
buổi sáng…đẹp trời bỗng thấy thấy một số người… “lạ” từ ba chiếc… tàu ở
ngoài biển đổ bộ vào đất liền, dân Việt địa phương gọi đại họ là những người…Ba Tàu!
Riêng
tác giả bài nầy hồi năm 1997 suýt bị anh Ba Tàu gốc Chợ Lớn nói rành
tiếng Việt làTrần Đức – Chủ nhân chợ Việt Hoa (Viet-Wah) đưa
ra…tòa án Seattle về tội ... phỉ báng sắc tộc người Hoa với một câu...
nhận định trên tuần báo Chính Luận đại ý (không nhớ nguyên văn): “Ba Tàu nào cũng là Ba Tàu! Ba Tàu từ Chợ Lớn qua Singapore, đến lục địa, Đài Loan và…Seattle, đều xem lợi nhuận trên hết…”
Vào
thời ông Thống Đốc Tb. Washington gốc…Tàu là Gary Locke (sau làm đại
sứ Mỹ tại…Tàu Cộng), thế lực kinh tế và chính trị của anh Ba Tàu gốc Chợ
Lớn Trần Đức rất lớn, Tổng đại lý độc quyền nhập cảng sản phẩm từ VNCS,
gồm cả “những gói phở gà Vifon VC” quảng cáo trong Hội chợ Tết Đinh Sửu
1997 của Cộng đồng NVQG Seattle tại Seattle Center!
Nhưng
rồi, anh Ba Tàu Trần Đức và một số nhân vật cộng đồng NVQG
Tb/Washington ăn theo đành phải “tịt ngòi” khi… sáng mắt, thấy Tuấn Phan
tôi không phải là tác giả hai chữ “Ba Tàu” vì hai chữ nầy cùng với chữ
“Chệt” đã xuất hiện từ năm…1946 trong bài thơ “Lấy chồng Chệt” của Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo (Đức Thầy).
Anh
Ba Tàu gốc Chợ Lớn Trần Đức càng ngày càng giàu có nhất nhì Seattle,
làm TGĐ Tập đoàn kinh doanh Viet-Wah (tức Việt – Hoa). Một mặt bỏ tiển
“ủng hộ” rầm rộ phong trào vinh danh Cờ Vàng tại Tb. Washington, nhưng
mặt khác anh Ba Tàu Trần Đức không rõ có mở rộng giao thương với Tàu Cộng hay không mà cho in và tặng khách hàng gồm đông đảo người Việt tờ lịch treo tường toàn chữ Tàu, mừng Ngày Quốc Khánh Tàu Cộng 1-10-2012!
Sau khi bị cáo giác trên Tuần báo Người Việt Ngày Nay, Seattle thì anh
Ba Tàu gốc Chợ Lớn Trần Đức ngụy biện hành động đâm sau lưng Cộng đồng
NVQG của ông ta là do…sơ sót khi in lịch ở bên…Tàu!
Trở
lại trang web Calitoday, họ cho rằng dân Việt ta rất…lịch sự, thường
gọi “Chệt” bằng…chú tức “Chú Chệt” vì họ không biết còn có … “thằng
Chệt” như trong hai câu thơ sau đây của Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo
Hòa Hảo sáng tác vào tháng 6 năm Ất Dậu 1945.
Mỵ Châu ơi hỡi Mỵ Châu,
Mê chi thằng Chệt để sầu cho cha
(Sấm Giảng Thi Văn Giáo Lý, trang 453).
Thuộc
lịch sử cổ đại của nước nhà tất ai cũng hiểu Đức Thầy phê phán công
chúa Mỵ Châu đã bị "bùa mê thuốc lú ái tình" của “thằng Chệt…con” gián
điệp Trọng Thủy để nước Âu Lạc bị lọt vào tay “thằng Chệt…cha” Triệu Đà.
Lịch
sử tái diễn sau hơn 2000 năm, “Mỹ Châu tân thời” Việt Cộng cũng
mê…thằng Chệt Cộng từ lúc “bác Hồ gốc Tàu” còn ở bên xứ Chệt nên ngày
nay tổ quốc Việt Nam đang sắp biến thành một quận huyện của Chệt Cộng
theo hội nghị Thành Đô năm 1990!
Trọng
Thủy là “thằng Chệt” thì cha đẻ nó tức Triệu Đà cũng là Chệt! Thằng
Chệt…cha Triệu Đà dùng diệu kế hôn nhân, cho thằng Chệt con Trọng Thủy
vừa ở rể vừa làm…gián điệp bên nước Âu Lạc (tức nước Việt ta thời cổ) để
tìm bí mật thành Cổ Loa và nỏ Liên Châu (nỏ thần) rồi đánh úp và nuốt
gọn.
Triệu Đà vốn là quan võ của nhà Tần, rồi
được Tần Thủy Hoàng bổ làm Huyện Uý huyện Long Xuyên trong quận Nam Hải
mà Nhâm Ngao làm Quận Uý. Triệu Đà lập nên nước Nam Việt, độc lập với
nhà Tần, cai trị nước Nam Việt 67 năm, từ năm 203 trước Công nguyên tới
năm 137 trước Công nguyên, rồi truyền ngôi cho cháu là Triệu Muội. Triệu
Đà thực hành chính sách "hoà tập Bách Việt," nhằm đồng hoá dân Trung
Nguyên và Lĩnh Nam..…
Triệu
Đà là người phương Bắc, đến từ Trung Nguyên (nay là lưu vực sông Hoàng
Hà ở Trung Quốc) theo lệnh Tần Thuỷ Hoàng đem di dân người Hoa Hạ xuống
vùng Lĩnh Nam (là nơi cư trú của các bộ tộc Bách Việt) và được làm Huyện
lệnh Long Xuyên quận Nam Hải mới khai hoá, khi nhà Tần mất thì mới tách
ra cát cứ, do đó Triệu Đà là kẻ ngoại bang đến xâm lược nước Âu Lạc. An Dương Vương mất nước là mở đầu thời kỳ Bắc thuộc.(Theo Wikipedia).
Những
tưởng mấy lần đất nước bị Bắc thuộc, khởi đi từ thời Triệu Đà, thế nào
dân tộc Việt cũng bị đồng hóa thành dân Tàu Chệt. Nhưng không bao giờ
giặc phương Bắc thỏa mãn tham vọng của chúng cho đến thời đại ngày nay
vì tinh thần quật khởi mãnh liệt của dân tộc Việt:
Ngàn năm Bắc địch vày bừa,
Mà còn đứng dậy tống đưa quân thù.
( Đức Huỳnh Giáo Chủ PGHH, Sấm Giảng Thi Văn Giáo Lý, trang 417).
Thế mà thời VNCH, không hiểu vì lý do gì Chính quyền Thủ đô Sải gòn lại vinh danh tên xâm lược Triệu Đà, đặt
tên hắn cho một con đường ở Quận 10. Ngoài ra, còn có một doanh trại
QL/VNCH mang tên “Trại Triệu Đà” nằm trên đường Trần Quốc Toản, cách đó
không xa là đường …An Dương Vương!
Đúng là ở đời có nhiều chuyện có thật tưởng như…đùa: Vinh danh Triệu Đà là …kẻ cướp nước mình, (và cả…Lữ Gia – Tể tướng của nhà Triệu!), phủ Cờ Vàng cho tên VC nằm vùng làm mất nước mình là…Dương Văn Minh!
Sau cùng, liên quan chủ đề bài nầy, nhân câu đối khó… đối của Hồ xuân Hương (?): "Da trắng vỗ bì bạch", tôi xin nhắc đến một câu của dân Việt như là một câu đối cũng khó không kém, mời quý vị:
Xí xô xí xào như Chệt chìm tàu.
Tuấn Aet Phan
(Kỷ Niệm Năm Thứ 76 Ngày Đức Thầy Khai Sáng Phật Giáo Hòa Hảo).
No comments:
Post a Comment