Sư VC nằm vùng Nguyễn Công Hoan đổ xăng vào đầu, vào người HT Thích Quảng Đức
VC Nguyễn Công Hoan và các tăng ni nằm vùng PG Ấn Quang
dàn dựng thiêu sống HT Thích Quảng Đức.
Theo lời tố cáo
của ông Trần Trung Quân, Bà Hàn Giang Trần Lệ Tuyền và Video ghi lại HT
Thích Quảng Đức “không tự tẩm xăng tự thiêu”. Hình ảnh, tài liệu cho
thấy Thích Quảng Đức bị Nguyễn Công Hoan chích thuốc mê man, tê liệt,
xong bị tưới xăng đốt sống ngày 11 tháng 6, 1963 tại Sài gòn.
Lửa Từ Bi
Bây giờ, là
những ngày đầu của mùa Xuân Canh Dần, 2010. Đã bốn mươi bảy năm dài trôi
qua, nhưng có lẽ không riêng tôi, mà rất nhiều người trong chúng ta khi
nghe đến tên «Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu», với ngọn «Lửa Từ
Bi» đã bừng bừng đốt cháy một người đã hôn mê qua những tấm hình trên
các trang báo. Có những tấm hình người ta đã cho thấy «Hòa thượng Thích
Quảng Đức» đang bốc cháy, hoặc có tấm hình cho thấy có một người cầm can
xăng đang đổ từ vai xuống người của Hòa thượng Thích Quảng Đức.
Cách đây, bốn
mươi bảy năm, vào lúc 7 giờ sáng ngày 11-6-1963, (nhằm ngày 20-4 âm
lịch) những kẻ sát nhân này; trong đó có Trần Quang Thuận đã chở Hòa
thượng Thích Quảng Đức đến ngã tư Lê Văn Duyệt – Phan Đình Phùng, Sài
Gòn, để đốt chết. Ngoài Trần Quang Thuận còn có Nguyễn Công Hoan là dân
biểu lưỡng triều. Nghĩa là trước 30-4-1975,
Nguyễn Công
Hoan là dân biểu của Việt Nam Cộng Hòa và sau ngày mất nước Nguyễn công
Hoan cũng tiếp tục là dân biểu tỉnh Phú Khánh của bọn
việt-gian-cộng-sản. Nguyễn Công Hoan (Huỳnh Văn Thạnh) là người đồng
hương với Hòa thượng Thích Quảng Đức.
Theo những tài
liệu cũ, thì suốt trong thời gian cuối đời của Hòa thượng Thích Quảng
Đức, sau khi đã « được » Phật giáo Ấn Quang đã ra lệnh phải bức tử,
Nguyễn Công Hoan luôn luôn ở bên cạnh Thượng tọa Thích Quảng Đức, để «
theo dõi sức khỏe ». Nhưng, thực ra, là mỗi ngày Nguyễn Công Hoan (Huỳnh
Văn Thạnh) đóng vai là một y tá đã chích cho Hòa thượng Thích Quảng Đức
bằng « thuốc trợ tim » đến nỗi đã khiến cho Hòa thượng Thích Quảng Đức
từ từ biến thành một kẻ vô hồn. Bởi vậy, nên mọi người đều thấy khi được
dìu đến nơi để phải chịu đốt, thì Hòa thượng Thích Quảng Đức đã hoàn
toàn hôn mê, bất động và ngồi như một bức tượng đá trong ngọn «Lửa Từ Bi
».
Và, chính
Nguyễn Công Hoan (Huỳnh Văn Thạnh) là tên giả sư đã tự tay cầm một can
xăng để tưới từ trên vai xuống người của Hòa thượng Thích Quảng Đức. Rồi
cũng chính Nguyễn Công Hoan đã dùng chiếc Zipo loại lớn để bật lửa rồi
đốt cháy Hòa thượng Thích Quảng Đức trong lúc ông đã bị hôn mê hoàn
toàn, theo: Lệnh Bức Tử của Phật Giáo Ấn Quang.
Trước đây, tôi
đã viết về cái chết của Hòa thượng Thích Quảng Đức và dân biểu lưỡng
triều Nguyễn Công Hoan, là lúc Nguyễn Công Hoan đang có mặt tại nước Mỹ.
Tưởng cũng nên
nhắc lại: Vào năm 1977, trong lúc đương là Dân biểu của bọn
việt-gian-cộng-sản của tỉnh Phú Khánh, Nguyễn Công Hoan (Huỳnh Văn
Thạnh) đã cùng Trần Bình Nam, tức Trần Văn Sơn, cựu Trung tá Hải Quân –
cựu dân biểu VNCH; nhưng Trần Bình Nam vì là người thân của Dương Văn
Minh, và là bạn chí thiết của Nguyễn Công Hoan, nên không bị vào tù «
cải tạo » mà vẫn sát cánh kề vai bên Nguyễn Công Hoan (Huỳnh Văn Thạnh)
là Dân biểu của Việt-gian-cộng-sản.
Cả Nguyễn Công
Hoan và Trần Bình Nam đã dùng một chiếc thuyền chỉ có hai người là bạn
thân thiết với nhau cùng với người tài công, để lên đường « vượt biển »
tại bãi biển Nha Trang.
Sau đó, cả
Nguyễn Công Hoan và Trần Bình Nam đã đến nước Mỹ. Tôi nhớ lúc đó, đã có
nhiều tờ báo; trong đó, có Văn Nghệ Tiền Phong của Ông Nguyễn Thanh
Hoàng đã lên tiếng và đặt nghi vấn về chuyện « vượt biển » của hai người
này. Song rồi theo thời gian, mọi chuyện cũng đã đi vào quên lãng.
Nguyễn Công
Hoan hiện đang sống trên đất Mỹ, nhưng y không hề ra mặt hay lên tiếng.
Riêng Trần Bình Nam, tức Trần Văn Sơn là thường xuyên viết bài đưa lên
nhiều trang điện báo.
Xin mọi người
đừng quên: Trần Bình Nam là bạn thân thiết của Nguyễn Công Hoan (Huỳnh
Văn Thạnh), từng hoạt động với nhau, và cũng cùng nhau lên thuyền « vượt
biển » vào tháng 5 năm 1977, là thời điểm bọn việt-gian-cộng-sản đang
kềm kẹp người dân trong trong bàn tay sắt thép một cách kinh hoàng nhất;
nhưng Nguyễn Công Hoan và Trần Bình Nam đã thuận buồm xuôi gió trên một
chiếc thuyền du lịch để sang nước Mỹ.
Đến đây, tôi
xin được trích đoạn lại về cuộc đốt người này, qua cuốn sách “Trong Lòng
Địch” của Tác giả Trần Trung Quân, từ trang số 99 đến trang 114, đã
xuất bản vào năm 1984, như sau. Kính mời quý vị cùng theo dõi:
« Vào khoảng 4
giờ rưỡi sáng, Vũ Mạnh Trường mới đi vào công tác cụ thể. Trung úy Dương
Quang Lâm, phụ tá của Vũ Mạnh Trường chăm chú ghi từng tên một, và tên
người được trao phó cho công tác. Chính Vũ Mạnh Trường cũng đã thấm mệt.
Nhấp một ngụm trà cho thấm giọng, Trường đưa đôi mắt đỏ lừ gườm gườm
nhìn Thích Trí Quang.
Làm cách mạng
không thể không có máu đổ. Nếu là máu nhà sư thì càng tốt nữa. Sự thù
hận của dân chúng đối với Diệm-Nhu càng ngùn ngụt bốc cao hơn không còn
sức mạnh nào ngăn chặn nỗi nữa.
Bộ chính trị
trung Ương đảng đã nhận rõ tình hình và quyết định rằng, chỉ vài nhà sư
chết thảm là bọn Diệm-Nhu sẽ sụp đổ vô phương cứu vãn. Cho nên Đảng đã
quyết định là phải giết sư để xúc tiến công cuộc thống nhất đất nước.
Đồng chí Kiều Tuấn Cương ( bí danh của Thích Trí Quang ) nghĩ thế nào?
Thích Trí Quang ấp úng:
- Dạ … dạ …
Vũ Mạnh Trường quắc mắt đập mạnh tay xuống bàn giận dữ:
- Tôi yêu cầu
đồng chí phát biểu ý kiến về sự thực hiện kế hoạch của đảng, có yêu cầu
đồng chí tán thành hay phản đối đâu mà đồng chí dạ …
Thích Trí Quang
ngồi im, gục mặt xuống. Cả hội trường không ai phát biểu ý kiến nào.
Trường đắc chí, hất mặt lên, lớn tiếng dõng dạc:
Đảng ta đã trù
liệu cả rồi. Bộ Chính Trị ủy ban Trung ương Đảng đã là những « đỉnh cao
trí tuệ của loài người ». Chúng ta bì sao kịp! mà địch cũng không thể
nào chống đỡ nỗi. Đảng có lệnh chúng ta phải khích động hoặc tạo điều
kiện khích động các sư tự thiêu để cúng dường tam bảo! Có thế mới hấp
dẫn được dư luận thế giới, mới gây căm thù sâu sắc trong dân chúng đối
với chính quyền miền Nam được. Này, đồng chí Cương, thằng Giác Đức nó
dám tự thiêu không?
- Chắc là không
đâu, đồng chí. Nó nói thì hăng lắm, nhưng chỉ ba hoa thôi. Nó là học
trò tôi, tôi biết rõ nó lắm. Háo danh, nhưng rất hèn.
- Thế còn Thích Hộ Giác?
- Hộ Giác cũng
vậy, háo danh. Cái mộng của nó là mò lần lên chiếm ghế Viện Trưởng Viện
Hóa Đạo đặng nở mặt với đời. Cái thứ như thế mà đòi hỏi nó hy sinh thì
thật là khó. Chỉ có ai hy sinh cho nó leo lên thì chắc nó ký cả hai tay
mà thôi.
- Thích Thanh Từ thế nào?
- Thích Thanh
Từ là đệ tử của Thích Thiện Hoa. Thầy Thích Thiện Hoa còn ở Bến Tre chưa
lên. Không có lệnh của thầy thì hắn chắc không chịu làm việc gì.
Đến đây, Cao Đăng Chiếm mới lên tiếng:
- Việc này, đồng chí Hằng có thể làm được.
Hằng, tức Thích Thiện Minh giật mình đánh thót, vội nhỏm dậy:
- Thưa đồng chí …
Nhưng Chiếm đã khoát tay ra dấu cho Hằng ngồi xuống, cười nhạt:
- Tôi không bảo
đồng chí tự thiêu đâu mà lo ngại. Đồng chí còn đắc dụng vào nhiều việc
khác. Tôi chỉ nói rằng, với tài miệng lưỡi của đồng chí và lòng tín cẩn
của Thích Quảng Đức nơi đồng chí, chắc đồng chí thừa sức cải tạo tư
tưởng của Thích Quảng Đức, để hắn tình nguyện tự thiêu.
Thích Thiện
Minh cười tít mắt. Cao Đăng Chiếm đã gãi đúng chỗ ngứa của tên đội lốt
thầy chùa để làm chính trị và có nhiều anh hùng tính cá nhân này. Thích
Thiện Minh vặn mình mấy lượt cho khắp hội trường phải ngó lại nhìn hắn,
rồi mới lên tiếng:
- Cái đó, thì
mấy anh khỏi lo. Quảng Đức đã bị tôi thuốc nước rồi. Ngày hôm kia trả
lời cuộc phỏng vấn của tụi báo chí ngoại quốc, tôi đã gài cho Quảng Đức
kẹt cứng rồi. Tôi đã nhân danh Thích Quảng Đức mà tuyên bố như vầy: “Nếu
Diệm không phóng thích tất cả tù nhân chính trị, không ban hành một chế
độ đặc biệt cho các tôn giáo, trong đó có Phật Giáo được treo cờ Phật
Giáo ngang hàng với quốc kỳ, thì thầy Thích Quảng Đức nguyện sẽ tự thiêu
để gióng lên tiếng chuông báo động với thế giới về những hành động kỳ
thị tôn giáo, nhằm tiêu diệt Phật giáo của chính phủ Diệm-Nhu. Và Hội
đồng Ấn quang sẽ đưa vấn đề ra trước Liên Hiệp Quốc”.
Trường gật gù có vẻ tán thưởng:
- Thái độ của Quảng Đức lúc ấy như thế nào?
Quảng Đức không
nói gì, chỉ cúi đầu nhìn xuống. Nhưng tôi biết hắn có vẻ hơi thất vọng.
Tuy nhiên, tính Quảng Đức rất ôn hòa và vị tha, lại dễ xiêu lòng, nên
sau đó, tôi đã thêu dệt cả một tòa sen rực rỡ trên niết bàn đang chờ đợi
ông ta, nhờ ông ta hy sinh vì Phật Pháp. Ông ta sẽ đắc đạo, sẽ thành
Phật, và bức chân dung của ông sẽ được thờ phượng ở khắp các chùa sau
này …
Kết quả có đến
80 phần trăm là Quảng Đức nghe tôi và sẵn sàng hy sinh. Điều tôi lo ngại
là chúng ta không ra tay gấp, rủi gặp Hộ Giác, gặp những tên ba hoa như
Hộ Giác lỡ miệng xúi bậy ông ta bỏ ý định thì hỏng hết.
Ngày tự thiêu
của thầy Quảng Đức gần kề bao nhiêu, thì sức khỏe của thầy sa sút bấy
nhiêu. Tim thầy mệt cầm canh. Gần như cả ngày thầy không hề nói một câu,
ngoài việc tụng kinh niệm Phật. Ý thầy đã quyết chết và sẵn sàng “vị
pháp vong thân” rồi, nên tùy thân xác còn lưu lại nơi trần thế, hồn thầy
đã bay vào thế giới khác. Lúc này, Thích Thiện Minh ra lệnh cho Huỳnh
Văn Thạnh phải suốt ngày cận kề bên thầy Quảng Đức, không được rời thầy
nửa phút. Không phải hắn lo cho sức khỏe của thầy, nhưng là đề phòng mật
vụ VNCH bắt mất thầy thì thực là xôi hỏng bỏng không. Cộng sản đã mất
bao nhiêu thì giờ để thuyết phục vừa áp lực thầy tự thiêu cúng dường,
thì không thể sơ hở trong phút chót được. Thích Trí Quang đã thức trắng
mấy đêm liền để dọn tinh thần cho thầy, trong khi Huỳnh Văn Thạnh nâng
giấc thầy còn hơn cha mẹ, lo giặt giũ quần áo, lo từng miếng ăn tới ngụm
nước uống cho thầy. Để về sau, chính hắn đã tưới xăng lên người thầy và
châm lửa đốt thầy.
Huỳnh Văn Thạnh
theo cộng sản từ năm 1959, nhưng hắn không tập kết ra Bắc. Cộng sản để
hắn ở miền Nam làm công tác tình báo cho Việt cộng ở khu 5. Tới năm
1962, hắn được biệt phái qua khu Dương Minh Châu, cho xâm nhập vào Sài
Gòn hoạt động trong chiến dịch giáo vận. Năm 1964, cho phù hợp với đường
lối và chính sách mới của Việt cộng là “gây ung thối trong hàng ngũ
quốc gia” Thạnh được triệu ra khu, ẩn bóng một thời gian và sau đó Việt
cộng làm hộ tịch giả cho hắn mang tên mới là Nguyễn Công Hoan, và cho
hắn về Sài Gòn hoạt động chính trị công khai, đứng phe đối lập với chính
quyền Nguyễn Văn Thiệu. Năm 1966 tới năm 1972, nhiều lần cán bộ nằm
vùng vận động tối đa rồi mới đưa hắn ra ứng cử dân biểu quốc hội VNCH,
và hắn đắc cử tại đơn vị Phú Yên.
Sau ngày cộng
sản chiếm Sài Gòn, Huỳnh Văn Thạnh, tức Nguyễn Công Hoan, xuất đầu lộ
diện nguyên hình, tích cực tuyên truyền cho cộng sản và chỉ điểm cho
công an việt cộng bắt không biết bao nhiêu chiến sĩ quốc gia chân chính.
Để trả công cho hắn, việt cộng cho hắn vào quốc hội của cộng sản, để
lừa bịp dư luận rằng cái quốc hội của cộng sản không hoàn toàn chỉ gồm
những đảng viên hay tay sai của cộng sản, mà còn gồm cả một số dân biểu,
nghị sĩ “ Ngụy” đã biết ăn năn hối cải trở về với “cách mạng”.
Tuy nhiên,
Nguyễn Công Hoan vào múa may ở quốc hội của cộng sản một thời gian, thì
những tên chủ nhân việt cộng của hắn thấy cũng không lừa bịp nỗi ai, nên
bèn cho hắn “ vượt biên tỵ nạn” để ra nước ngoài làm công tác kiều vận.
Nguyễn Công Hoan đã vượt biển sang Nhật, sau đó, nhờ thủ đoạn và móc
nối chính trị hắn đã tới được nước Mỹ một cách ngon lành. Nhưng cái mác
dân biểu lưỡng trào của hắn và cuộc tỵ nạn mờ ám của hắn đã bị đồng bào
nghi kỵ, cho nên hắn chẳng làm được trò trống gì. Hiện nay, hắn trùm mền
núp bóng một tên sư hổ mang để chờ một cơ hội khác.
Đó là những chuyện xảy ra về sau, mà đa số chúng ta, nhất là bạn đọc của Văn Nghệ Tiền Phong đều biết rõ.
Nay xin trở lại
với chuyện “ tự thiêu của thầy Thích Quảng Đức”. Vấn đề mà Việt cộng lo
ngại nhất là làm sao mang một thùng xăng khá lớn để có thể đốt cháy
thầy Quảng Đức ngay tức khắc để các cơ quan công quyền không kịp cứu.
Mang một thùng
xăng lớn tới nơi mà chúng định thiêu thầy Quảng Đức cho trót lọt không
phải dễ, vì an ninh VNCH đã rõ mưu đồ của việt cộng. Huỳnh Văn Thạnh,
tức Nguyễn Công Hoan, chính là tên đã được việt cộng trao cho trọng
trách cung cấp xăng đốt thầy Thích Quảng Đức, và Thích Thiện Minh là
người được đề cử để giám sát vụ này, nên hắn rất lo lắng. Đêm hôm trước
khi xảy ra vụ “tự thiêu”, chính Thích Thiện Minh biểu tài xế lái xe chở
đi gặp Huỳnh Văn Thạnh để cho biết rằng xăng đã được giấu trong hai
thùng nhỏ đựng dầu hôi trong gánh hàng của một nữ cán bộ việt cộng đóng
vai người đi bán hàng rong buổi sớm.
Bao nhiêu lít ? Thích Thiện Minh hỏi.
-15 lít, thưa thầy. Thạnh trả lời.
-15 lít đủ đốt không con?
-Dư sức mà thầy, 5 lít cũng đủ chết bà Quảng Đức rồi.
-Phần kế hoạch F2 con cẩn thận nhé.
-Thầy yên tâm,
trước khi “ xuất hành”, con sẽ gửi thêm một mũi Trenxinne nữa. sau đó,
con sẽ bồi thêm hai mũi trợ tim Haldol là đủ.
Vậy à. Tốt lắm, công con to lắm …
Bảy giờ sáng,
ngày 20 tháng 4 năm 1963 ( ngày âm lịch ) dương lịch là ngày 11-6-1963,
không khí bên trong chùa buồn như đám ma. Tăng ni ai nấy đều mặt mày ủ
rũ thương cho thầy Quảng Đức chỉ chốc lát nữa đây sẽ bị đưa lên giàn hỏa
để “ bảo vệ đạo pháp”. Ngoại trừ một số ít cán bộ việt cộng và tay sai
núp áo cà sa giết người cho cộng sản, là hăm hở chờ đợi giờ phút xảy ra
biến cố.
Ngay từ lúc 4
giờ sáng, Huỳnh Văn Thạnh đã vô giường thầy Quảng Đức, lật mông thầy lên
để chích cho thầy một mũi Trenxinne, mà hắn thỏ thẻ thưa là “thuốc trợ
tim” để thầy mau bình phục sức khỏe. Thầy Quảng Đức ngủ mê man, ngủ say
sưa như một đứa trẻ thơ trong nôi, sau khi đã no sữa, ống thuốc
Trenxinne thấm, cơ thể thầy Thích Quảng Đức bỗng mềm nhũn, ngắt véo,
thầy cũng không biết đau.
Lúc ấy, Huỳnh
Văn Thạnh, tức Nguyễn Công Hoan, mới ra dấu cho đàn em chạy vào lau mình
mẩy cho thầy, và thay cho thầy bộ áo cà sa mới toanh. Thế là việt cộng
đã chuẩn bị xong để đưa thầy Thích Quảng Đức ra cúng tổ … Các … Mác!!! “
Trên đây, là
những trích đoạn về lệnh bức tử Hòa thượng Thích Quảng Đức của Phật giáo
Ấn Quang, tiền thân của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và bọn
việt-gian-cộng-sản, trong cuốn sách Trong Lòng Địch của tác giả Trần
Trung Quân.
Tôi cũng cần phải nhắc lại:
Vào tháng
5-1977, Nguyễn Công Hoan, tức Huỳnh Văn Thạnh đã cùng Trần Bình Nam lên
một chiếc thuyền và rời bãi biển Nha Trang, chỉ có hai người này và tài
công, và cả hai hiện đang có mặt trên đất Mỹ.
Và, vì đây là
một bài viết có liên quan đến đoạn phim vừa đưa lên: You Tube video: Bo
Tat Quang Duc ( Monge budista suicidio ). Nên một lần nữa, tôi lại phải
mời quý độc giả hãy cùng đọc lại những lời của cựu Đại đức Thích Huệ
Nhật, tức Mục sư Tin Lành Nguyễn Huệ Nhật, trong cuốn sách “Từ Áo Cà Sa
Đến Thập Tự Giá”. Ông đang có mặt tại Đức quốc, để cùng nhau suy gẫm:
Cái chết tự nguyện là gì? Những người tự thiêu cho đạo pháp
Nguyễn Huệ Nhật
“Tôi xin giới
hạn trong phạm vi hiểu biết của cá nhân mình, và những gì tôi viết sau
đây cũng là một số kinh nghiệm và nhận xét của riêng tôi, sau ba lần
tưởng đã chết nhưng nay tôi còn sống
Người tự thiêu
đầu tiên trong thời kỳ Phật giáo đấu tranh chống lại kỳ thị tôn giáo
dưới thời chính phủ Ngô Đình Diệm là Hòa thượng Thích Quảng Đức. Ngài là
một vị tu sĩ bán thế xuất gia, nghĩa là có vợ con trước khi đi tu. Con
ruột ngài cũng là đệ tử nổi tiếng của ngài sau khi ngài hy sinh. Ngài
chỉ nổi tiếng sau khi hy sinh.
Cũng như tất cả
các vị thánh tăng đã nối tiếp tự thiêu cho Đạo Pháp, bản thân Hòa
Thượng Thích Quảng Đức không hề biết rằng kết quả tốt do sự hy sinh của
ngài chỉ là nhất thời từ 1-11-1963, còn hậu quả xấu do sự hy sinh của
ngài là lâu dài từ mùa hè 1966 đến nay. Vì sau khi chính phủ Ngô Đình
Diệm bị lật đổ, Phật giáo Việt Nam chỉ thắng thế nhất thời, để rồi càng
bị CSVN lợi dụng sâu sắc hơn, và đưa những cuộc đấu tranh kế tiếp đến
ngày 30-4-1975, cho cộng sản Việt Nam lên cướp chính quyền.
Nhìn lại quá
trình, chỉ hai năm đầu sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm sụp đổ, Hội Phật
Học VN đã trở thành GHPGVNTN nổi như cồn, nhưng đó là thời gian manh nha
đưa GHPGVNTN đến tình trạng suy đồi và phân rẽ ngay trên đỉnh cao thế
lực của họ. Năm 1966, GHPGVNTN chia rẽ thảm khốc giữa hai phe Việt Nam
Quốc Tự và Ấn Quang.
Chưa bao giờ
lịch sử Phật giáo Việt Nam có sự căm thù nhau, phân rẽ nhau tệ hại như
thế. Vụ đem bàn thờ Phật ra đường để đấu tranh trong mùa hè 1966, là một
bằng chứng suy tàn nhất của tinh thần và tổ chức Phật giáo Việt Nam.
Nếu tôi kể ra những bất đồng của các vị lãnh đạo PG trong vụ Đem Phật Ra
Đường, thì rất phiền. Những cuộc tranh giành đẫm máu trong khuôn viên
Việt Nam Quốc Tự cho đến nay vẫn còn giữ kín, trừ vụ kéo sập dãy nhà do
Đại đức Thích Đức Nghiệp xây lên sát lề đường Trần Quốc Toản là không
thể dấu diếm được.
Tôi ngẫm nghĩ
Thượng tọa Thích Trí Quang chỉ là một mẹ mìn rất đắc lực của cộng sản
Bắc Việt. Ông bắt cóc niềm tin của đa số Phật tử, để biến họ thành
phương tiện hữu hiệu nhất cho cộng sản Bắc Việt vào xâm chiếm miền Nam,
và ông đã cho cộng sản Bắc Việt vắt chanh bỏ vỏ tất cả nhân, tài, vật
lực do niềm tin ấy mà có. Khi công việc bắt cóc ấy hoàn thành, mẹ mìn
Thích Trí Quang ngồi im lặng rung đùi và được cộng sản Việt Nam bảo vệ
kỹ, không ai dám động một sợi lông chân của ông.
Tôi tin chắc
rằng Hòa thượng Thích Quảng Đức đã không hình dung nổi hậu quả tang
thương về sau nầy, đối với Phật giáo nói riêng, và dân tộc nói chung,
qua sự hy sinh của ngài. Chính người con trai ruột của ngài, người đã
trở thành một vị Thượng tọa nổi tiếng tại ngôi chùa của ngài để lại trên
đường Trương Minh Giảng, đã sống ba chìm bảy nổi mang nhiều tăm tiếng
và cũng bị tù đày trong chế độ cộng sản.
Lần tự thiêu
thứ nhất tại Sài Gòn là lần tôi hoàn toàn chờ đợi theo sự sắp xếp và tổ
chức của Ủy Ban Liên Phái, nhưng không thực hiện được, vì tình hình sao
đó.
Một người khác
là thầy Lưu Bổn, đệ tử của Hòa Thượng T.M.H chùa TL, Huế, cũng đã nhảy
xuống giếng sâu tự tử tại chùa Phật giáo Đà Nẵng, vào mùa hè 1972, sau
khi bị nghi ngờ một chuyện xấu. Mười lăm phút trước khi nhảy xuống
giếng, thầy Lưu Bổn ngồi ăn trưa với tôi một cách lặng lẽ.
Một người bạn
khác của tôi tên T. An, cũng đi tu ở chùa Phổ Đà tại Đà Nẵng, ông mở một
trường Bồ Đề ở gần ga xe lửa Đà Nẵng, cũng đã tự thiêu vì một chuyện
riêng, nhưng sau đó được dư luận báo chí cho là tự thiêu vì ý nghĩa lớn
lao khác. Trong thế giới tôn giáo đã lâm lụy vào những cơ mưu chính trị
thời Việt Nam Cộng Hòa, một vài trường hợp các tu sĩ tự tử bằng cách tự
thiêu đã được gán cho những ý nghĩa cao cả “Ý nghĩa cao cả” ấy được áp
đặt cho mục đích khác, mà người tự thiêu không đặt ra, nhưng sau cùng
những người bà con của họ cũng được hưởng tiếng thơm “Thánh Tử Đạo”.
Cũng có nhiều vụ tự thiêu do ý định tự tử để giải quyết chuyện riêng,
nhưng khi thực hiện, họ lại nêu lý do thiêng liêng để che đậy chuyện bậy
bạ. Hoặc là người tự tử bằng cách tự thiêu xong rồi, sau đó mới được
gán cho một ý nghĩa thiêng liêng. Thời đó, nhiều vụ tự thiêu đã bị lạm
dụng. Người tình nguyện tự thiêu thì đông, nhưng người đáng được chấp
nhận thì ít. Vì một người có đời sống không sáng sủa, nếu được chấp nhận
cho tự thiêu, sẽ có nguy cơ làm mất niềm tin của nhiều người khác. Tất
cả những người tình nguyện tự thiêu đều là những người không sáng giá
khi còn sống. Những người sáng giá nghĩ rằng mình cần sống để làm việc
có kết quả hơn.
Những người nêu
trên đều quen thân với tôi, nên tôi biết một số lý do tại sao họ đã tự
thiêu. Giống như những người thất tình, những thí sinh thi rớt, những
đứa con giận cha mẹ, những người bị thất bại làm ăn … Họ không còn thiết
sống nữa. Họ tìm đến cái chết để trốn chạy một thực tại bất đắc chí
bằng cái chết tự sát”.
Quý độc giả vừa
đọc qua những trang sách của tác giả Trần Trung Quân và cựu Đại đức
Thích Huệ Nhật. Nên biết, sau khi chiếm được miền Nam tự do cho đến hôm
nay, thì bọn việt-gian-cộng-sản đã trả công cho Phật giáo Ấn Quang bằng
rất nhiều hình thức; trong đó, có nhiều con đường mang tên Thích Quảng
Đức.
Riêng tôi, vì
đã vô cùng căm phẫn trước những hình ảnh của Hòa thượng Thích Quảng Đức
đã bị cả lũ người bất lương, vô nhân tính và tàn ác, khi đem sinh mạng
của Hòa thượng Thích Quảng Đức ra để làm phương tiện cho cứu cánh. Bởi
vậy, nên tôi phải viết lên bài này, với tất cả tâm thành, tôi ước mong
cho mọi người đừng bao giờ đem sinh mạng của bất kể người đó là ai để
làm vật hy sinh. Bởi mỗi sinh mạng của một con người trên thế gian này,
đều do Trời sinh, thì xin mọi người hãy để cho Trời diệt.
Bọn sư VC nằm vùng Phật giáo Ấn Quang; trong đó có: Lệnh Bức Tử: Hòa thượng Thích Quảng Đức, đã được xác tín hơn nữa:
Với cái tựa đề
«Bằng đôi chân của mình mời người hãy đi lên», của Thích Đức Nhuận «
nguyên Tổng thư ký Viện Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
Nhất » tức Ấn Quang.
Mở đầu Thích Đức Nhuận đã viết:
« Tôi viết
những dòng chữ dưới đây thân gửi những tâm hồn luôn luôn thao thức đến
tiền đồ Dân tộc và Đạo pháp, dù bạn hiện ở trong nước hay ở ngoài nước,
xin hãy hướng lên Đức Phật từ bi cao cả nguyện cầu cho Tổ quốc và đồng
bào thân yêu của chúng ta: sớm chấm dứt mọi hận thù, biết tha thứ và yêu
thương nhau để cùng chung sức chung lòng góp phần xây dựng đất nước
Việt Nam Quang Vinh ».
Đến trang số 09, Thích Đức Nhuận viết tiếp:
« Năm 1963,
Phật giáo Việt Nam phát khởi cuộc vận động chống chế độ độc tài gia đình
trị Ngô Đình Diệm, đòi tự do và bình đẳng tôn giáo và được toàn dân từ
Bắc chí Nam ủng hộ. Bạo quyền mang đặc tính kỳ thị tôn giáo sụp đổ. Giáo
hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập ».
Nên ghi nhớ,
vào đại hội thống nhất Phật giáo năm 1981, Thích Đức Nhuận đã được bầu
lên ngôi « Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam cộng sản ».
Qua những lời
của chính Thích Đức Nhuận đã viết. Thì rõ ràng là Thích Đức Nhuận đã
công khai nhận trách nhiệm của Phật giáo Ấn Quang với câu nói:
« Phật giáo
Việt Nam phát khởi cuộc vận động chống chế độ… » là để đánh đổ Nền Đệ
Nhất Việt Nam Cộng Hòa. Điều quan trọng hơn cả là: « Đã được toàn dân từ
Bắc chí Nam ủng hộ ».
Như thế, đã quá
rõ ràng, đã quá sáng tỏ, để cho mọi người hiểu được rằng: Phật giáo Ấn
Quang « phát khởi cuộc vận động chống chế độ và đã được toàn dân từ Bắc
chí Nam ủng hộ ». Nghĩa là gồm cả cộng sản Bắc Việt.
Như vậy, căn cứ
theo những lời của chính hai người đã và đang đứng đầu của GHPGVNTN,
tức Ấn Quang thì cả hai đã công khai nhận trách nhiệm về cái chết của
Hòa thượng Thích Quảng Đức, và kéo theo là sự sụp đổ của Nền Đệ Nhất
Việt Nam Cộng Hòa và hệ lụy là ngày mất nước: 30-4-1975, với các sư sãi
của Phật giáo Ấn Quang đã công khai đưa từng đoàn xe ra tận núi rừng, để
đón rước cộng quân vào các thành phố tại miền Nam tự do, cùng với những
màn bắn giết các vị là Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa, vào trước ngày
30-4-1975, để trả thù và để lập công với bọn việt-gian-cộng-sản.
Đưa bàn thờ Phật xuống đường!
Chính vì thế,
Phật giáo Ấn Quang cho dù có ngụy biện bằng cách nào chăng nữa, thì vẫn
không bao giờ xóa được những tội ác của một thời « tranh đấu » có bàn
thờ Phật xuống đường, có máu đổ đầu rơi.
Chẳng những
vậy, mà qua cái « Thông bạch của hàng giáo phẩm đang đứng đầu Phật giáo
Việt Nam đang hành đạo tại Hoa Kỳ », những người này đã bênh vực cho
Thích Trí Dũng, người đã công khai trên sách báo là «Vào Tết Mậu Thân,
1968, chùa Phổ Quang là nơi khai hỏa đánh sân bay Tân Sơn Nhất».
Vậy, để biết thêm một cách tường tận hơn, xin hãy đọc lại bài:
Tưởng Niệm Cuộc thảm Sát Mậu thân 1968.
Trịnh công Sơn và những hoạt động nằm vùng
Biến động Miền Trung
Tổng kết có 5 Sư đã bị thiêu sống do " Lửa Từ Bi " của Việt cộng.













No comments:
Post a Comment