Chúng tôi vừa nhận được tin buồn:
Nhạc sĩ Văn Giảng tức Thông Đạt
Vừa từ trần tại Melbourne, Úc Đại Lợi
Ngày 9 Tháng Năm, 2013
Hưởng Thọ 89 tuổi.
Tang Lễ được cử hành tại Chùa Quang Minh
vào ngày 12 & 13-05-2013
Sẽ được hỏa táng vào lúc 8 giờ sáng ngày Thứ Ba 14-05-2013.
Dưới đây là bài viết
của nhạc sĩ Lê Dinh về Tiểu Sử của nhạc sĩ Văn Giảng vài năm trước đây
(xin trích) và 1 tấm hình 2 Ông Bà nhạc sĩ
Lê
Văn Khoa và Ông Bà Văn Giảng chụp chung với nhau trong chuyến viếng thăm Melbourne của ÔB Lê Văn Khoa (năm 2005)
(hình do nhạc sĩ Lê Văn Khoa vừa gởi tặng VH)
****
Tiểu Sử Nhạc Sĩ Văn Giảng
(Tác giả: Nhạc sĩ Lê Dinh)
Đường trường xa muôn vó câu bay dập dồn
Đoàn hùng binh trong sương lướt gió reo vang
Đi đi đi, lời thề nguyền, tung gươm thiêng, thi gan trai
Đời hùng cường quyết chiến đấu đoàn quân ra đi...
Trên đây là lời ca 8 trường
canh đầu của bài hành khúc "Lục Quân Việt Nam" của Văn Giảng mà mọi
người Việt Nam, từ cậu học sinh đến anh tân binh ở quân trường cũng như
tất cả quân nhân Việt Nam Cộng Hòa đều biết. Bài hát được tác giả viết
vào năm 1950 với cung Ré trưởng, khi được đồng ca bởi một số đông người,
đem lại cho người nghe một cảm giác như hăng say cương quyết, như nung
chí anh hùng:
... Phá tan tành ầm ầm đoàn quân xông pha
Thét oai linh tung gươm giết tan quân thù
Đoàn hùng binh say sưa nhìn trong trời sương
Ta anh hùng đời đời lục quân Việt Nam...
Nhạc sĩ Văn Giảng sinh ngày 12
tháng 5 năm 1924 tại Huế trong một gia đình trung lưu. Thừa hưởng năng
khiếu thiên phú gia tộc về âm nhạc vì ông nội của Văn Giảng cũng là một
nhạc sĩ cổ nhạc rất giỏi cho nên Văn Giảng cũng có khiếu về âm nhạc từ
lúc nhỏ và ngày còn bé, nghe người ta chơi một loại
nhạc khí nào là ông có thể về mò mẫm tự học lấy và thành công trong
việc xử dụng loại nhạc khí đó. Cũng như mọi người thích âm nhạc và quyết
tâm chơi nhạc, loại đàn dễ học nhất cho mọi người là đàn mandoline,
nhạc sĩ Văn Giảng cũng vậy, khi bắt đầu ông học đàn măng cầm và sau đó
lần đến lãnh vực tây ban cầm.
Có một người bạn lớn tuổi hơn ông biết đàn tây ban cầm, Văn Giảng
muốn tầm sư học đạo, đến nhà ông này để nhờ chỉ dạy nhưng người này bắt
ông phải trả công bằng một cây đàn guitare. Làm gì có tiền ở lứa tuổi
còn nhỏ? Văn Giảng về nhà tìm tòi tự học lấy và chỉ một thời gian sau,
ông vượt qua tài nghệ của ông "thầy hụt" kia và ông này phải nhờ Văn
Giảng chỉ lại cho. Nhờ có biệt tài
như vậy mà nhạc sĩ Văn Giảng có thể xử dụng rành rẽ nhiều nhạc khí cổ
kim, trở thành một nhạc sĩ tài giỏi và đào tạo rất nhiều môn sinh có
trình độ sau này.
Không những chỉ trong lãnh vực âm nhạc mà thôi, nhạc sĩ Văn Giảng
còn nổi bật trong lãnh vực văn hóa, mọi thứ, mọi việc ông đều tự học như
vừa làm giáo sư âm nhạc ở Huế, ông vừa tự học để rồi sau đó lặn lội vào
Saigon thi lấy bằng tú tài và bằng cử nhân.
Ông tốt nghiệp Anh văn ở Hội Việt Mỹ và trúng tuyển cuộc thi tuyển
sinh viên nghiên cứu về âm nhạc ở ngoại quốc, được xuất dương du học
tại trường Âm nhạc lớn của Hoa Kỳ ở Hawaii và Bloomington. Ở Hoa Kỳ, Văn
Giảng đã tốt nghiệp với lời khen của Ban Giám khảo và được cấp
thêm học bổng để nghiên cứu bậc cao học âm nhạc. Sau đó ông trở về nước
và được đề cử làm Giám đốc trường Quốc gia Âm nhạc Huế.
HÌNH VỢ CHỒNG NHẠC SĨ VĂN GIẢNG, CHỤP NĂM 1949
Phần đông những sáng tác của
nhạc sĩ Văn Giảng thuộc loại hùng ca như "Thúc Quân" (1949), "Lục Quân
Việt Nam" (1950), "Đêm Mê Linh" (1951), "Quân Hành Ca" (1951), "Qua Đèo"
(1952), "Nhảy Lửa"
(1953) v.v... nhưng ít người được biết nhạc sĩ Văn Giảng còn có một
biệt hiệu khác là "Thông Đạt" với ca khúc bất hủ "Ai Về Sông Tương" mà
mọi người trong giới học sinh, sinh viên và ở lứa tuổi 40 trở lên đều
biết:
Ai có về bên bến sông Tương
Nhắn người duyên dáng tôi thương
Bao ngày ôm mối tơ vương
Tháng với ngày mơ nhuốm đau thương
Tâm hồn mơ bóng em luôn
Mong vài lời em ngập hương...
Bài ca này được tác giả viết
vào năm 1949 với cung La trưởng,
uyển chuyển tha thướt trong phần lời lãng mạn, trữ tình, là một bản
nhạc gối đầu giường, nằm lòng của thanh thiếu niên nam nữ trong những
thập niên 50 - 60.
Về ca khúc này, có một câu chuyện khá thú vị như sau: Trong những
thập niên 1940, 1950, ở Huế ai ai cũng biết ông Tăng Duyệt, giám đốc nhà
Xuất bản Tinh Hoa Huế (xin đừng lẫn lộn với nhà xuất bản Tinh Hoa miền
Nam ở Saigon do nhạc sĩ Lê Mộng Bảo làm giám đốc) in ấn và phát hành một
số nhạc phẩm ít oi của thời đó.
Là nhạc sĩ, đương nhiên Văn Giảng chơi thân với ông Tăng Duyệt vì
một số hành khúc của ông đều do nhà xuất bản Tinh Hoa Huế của ông Tăng
Duyệt ấn hành. Một hôm trong lúc vui miệng, ông Tăng Duyệt có ngụ ý bảo
rằng nhạc sĩ Văn Giảng chỉ
viết được những bài hùng ca thôi còn về những bài tình ca không phải sở
trường của Văn Giảng.
Nghe vậy hay vậy, không cần
phải trả lời. Nhạc sĩ Văn Giảng về nhà, âm thầm lấy giấy bút viết bài
"Ai Về Sông Tương", không ghi tên tác giả là Văn Giảng như mọi khi mà đề
tên tác giả là Thông Đạt, một bút hiệu mới toanh trong làng tân nhạc
Việt Nam thời đó. Bản "Ai Về Sông Tương" được tác giả Thông Đạt gửi đến
các đài phát thanh ở Hà Nội, Huế và Saigon và cả nước đều nghe "Ai Về
Sông Tương" của Thông Đạt trong thời gian sau đó:
... Thu nay về vương áng thê lương
Vắng người duyên dáng tôi thương
Mối tình tôi vẫn cô đơn
Xa muôn trùng lưu luyến nhớ em
Mơ hoài hình bóng không quên
Hương tình mộng say dịu êm...
Sau nhiều lần được nghe bài
"Ai Về Sông Tương" quá hay trên làn sóng điện, qua các đài phát thanh,
ông Tăng Duyệt gặp Văn Giảng và hỏi ở trong giới nhạc, Văn Giảng có biết
Thông Đạt, tác giả bài "Ai Về Sông Tương" là ai không để ông thương
lượng mua bản quyền xuất bản nhạc phẩm này nhưng Văn Giảng tảng lờ như
không biết Thông Đạt là
ai!
Rồi một hôm có hai người bạn trẻ của Văn Giảng là nhạc sĩ Đỗ Kim
Bảng, tác giả bài "Mùa Thi" (Thi ơi là thi, sinh mi làm chi, "bay" nghẹn
ngào, "bám", ồn áo, buồn vui vì mi) và nhà văn Lữ Hồ tình cờ đến nhà
Văn Giảng chơi và thấy bản thảo bài "Ai Về Sông Tương" với tuồng chữ và
lối chép nhạc của nhạc sĩ Văn Giảng trong xấp nhạc trên bàn viết nên nói
cho ông Tăng Duyệt biết. Ông này mới lái xe ngay tới nhà Văn Giảng và
vài ngày sau đó, giới ngưỡng mộ tân nhạc mới có một ca khúc với thể điệu
"Blues" tha thướt trong tay để mà ngân nga cho đỡ thương đỡ nhớ những
khi trái tim rung động vì một bóng hình nào đó.
Nhạc phẩm "Ai Về Sông Tương"
đã
chiếm kỷ lục tái bản thời đó với 6 lần in thêm trong tháng đầu tiên và
được thính giả Đài Phát thanh Pháp Á chọn là bài nhạc hay nhất trong năm
1949. Qua bút hiệu Thông Đạt, chúng ta còn được thưởng thức những sáng
tác sau đây: "Đôi Mắt Huyền", "Hoa Cài Mái Tóc", "Tình Em Biển Rộng Sông
Dài", "Xin Đừng Chờ Em Nữa" v.v...
Ngoài hai bút hiệu trên, Văn Giảng - Thông Đạt còn một bút hiệu thứ ba
để sáng tác những bài Phật giáo. Đó là bút hiệu Nguyên Thông được dùng
để ghi trên những nhạc phẩm như "Từ Đàm Quê Hương Tôi", "Mừng Đản Sanh",
"Ca Tỳ La Vệ", "Vô Thường", "Hoa Cài Áo Lam" v.v...
Trong thời gian làm nhạc trưởng Đài Phát thanh Huế và giáo sư âm
nhạc tại các trường Trung học Hàm Nghi, Quốc Học và trường Sư phạm đào
tạo giáo viên Tiểu học, nhạc sĩ Văn Giảng có sáng tác và ấn hành một
tập nhạc dành cho thiếu nhi mang tên :"Hát Mà Học" gồm có 10 ca khúc:
Đến Trường, Chơi Ná, Chê Trò Xấu Nết, Mèo Chuột, Tham Mồi, Gương Sáng Lê
Lai, Quang Trung Hùng Ca, Trăng Trung Thu, Chúc Xuân và Tạm Biệt.
Cũng trong lãnh vực âm nhạc,
nhờ xuất thân từ một gia đình có truyền thống âm nhạc, Văn Giảng thích
tìm tòi và nghiên cứu nhạc cổ truyền Việt Nam. Năm 1956, ông đã tìm ra
phương pháp ký âm cho nhạc sĩ cổ truyền có thể nhìn bài bản mà trình tấu
chung với nhạc sĩ tân nhạc và từ đó, ông thành lập ban cổ kim hòa điệu
"Việt Thanh", một ban
nhạc đầu tiên trong nước dưới hình thức tân cổ hòa điệu với những nhạc
khí tranh, tỳ, nhị huyền, nhị hồ, đàn nguyệt... hoà tấu chung với dương
cầm, tây ban cầm, đại hồ cầm...
Trong phạm vi này, ông đã hoàn thành tác phẩm độc đáo "Ai Đưa Con
Sáo Sang Sông", một bản đại hòa tấu, thời lượng 60 phút, trình diễn bởi
các nhạc sĩ cổ truyền. Ông cũng đã soạn nhiều sách giáo khoa về âm nhạc,
hoàn thành quyển "Kỹ Thuật Hoà Âm" dày 350 trang được dùng làm tài liệu
dạy âm nhạc ở các trường.
Sau Tết Mậu Thân 1968, cảm
thấy sinh sống ở Huế bất an - ông Tăng Duyệt, bạn thân của ông,
đã chết trong biến cố này - nhạc sĩ Văn Giảng vào Saigon lập nghiệp từ
năm 1969 và ông nhanh chóng hòa hợp với nhịp sống âm nhạc của thủ đô,
soạn hòa âm cho hãng đĩa Asia - Sóng Nhạc, dạy nhạc tại trường Quốc gia
Âm nhạc Saigon, tham gia sinh hoạt ca nhạc ở đài phát thanh, đài truyền
hình.
Cũng trong thời gian này, một số nhạc phẩm tình cảm với bút hiệu
Thông Đạt của ông được thành hình và tung ra thị trường. Đồng thời, Văn
Giảng được Bộ Văn Hóa Giáo Dục đề cử làm Trưởng Phòng Học Vụ Nha Mỹ
Thuật, đảm trách học vấn của các trường Âm nhạc Saigon, Huế và các
trường Cao đẳng Mỹ thuật.
Năm 1970, ông được huy chương vàng giải Văn học Nghệ thuật của
Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (âm nhạc loại A)
với sáng tác phẩm "Ngũ Tấu Khúc" (Quintet for Flute and Strings). Cùng
năm này, ông được chỉ định làm Giám đốc Nghệ thuật điều hành Đoàn Văn
nghệ Việt Nam gồm 100 nghệ sĩ tân cổ nhạc và vũ, ban vũ do nhạc sĩ Hoàng
Thi Thơ phụ trách, ban vũ cổ truyền đại nội Huế do nhạc sĩ Nguyễn Hữu
Ba điều khiển, để tham dự Hội chợ Quốc tế Expo 70 tại Osaka (Nhật Bản).
Sau 1975, nhạc sĩ Văn Giảng
kẹt lại Việt Nam cho đến năm 1981 mới vượt biên đến đảo Natuna (Nam
Dương) và sau đó được chuyển đến đảo Pulau Galang. Ở đây, trong 6 tháng,
Văn Giảng sáng tác được một số bài nói lên thân phận lạc loài của người
dân
mất nước mà bài đầu tiên là "Natuna người tình đầu" cùng một số 70 ca
khúc khác.
Ngày 20/5/1982, Văn Giảng định cư tại Úc, ở đây, ông tiếp tục con
đường âm nhạc, soạn và xuất bản nhiều sách nhạc lý như cách dùng hợp âm,
tự học tây ban cầm, hòa âm, sáng tác, học hát, học đàn v.v...
Ở đây, ông cũng đã sáng tác thêm nhiều tình khúc như: 12 tình khúc
(Tập I), 12 Tình Khúc (Tập II) v.v... Những ai thiết tha với tân nhạc,
muốn đi sâu, tìm hiểu hơn về sáng tác và hòa âm hoặc muốn trau dồi việc
xử dụng các nhạc khí kim cổ, thiết nghĩ không gì bằng tìm các sách giáo
khoa của nhạc sĩ Văn Giảng để đi đến nơi đến chốn. Văn Giảng hiện cư ngụ
ở thành phố Footscray, bang Victoria (Úc Châu), điện thoại: (03)
9689-9623.
Ngoài một gia sản âm nhạc đồ sộ, từ những hành khúc hùng dũng đến
những cung bậc uyển chuyển lả lướt của những bài tình ca qua những điệu
nhạc vui tươi yêu đời dành cho thiếu nhi và những ca khúc uy nghiêm về
Phật giáo, nhạc sĩ Văn Giảng còn đóng góp trong việc phổ biến âm nhạc
Việt Nam ở hải ngoại với một số lượng đáng kể về sách dạy nhạc viết bằng
Việt ngữ và Anh ngữ, chẳng những dành cho thế hệ trẻ Việt Nam ở hải
ngoại mà cho cả người ngoại quốc muốn học hỏi và tìm hiểu về nền âm nhạc
Việt Nam.
Một con người giản dị, khiêm nhường, không thích phô trương với
một gia tài âm nhạc to lớn như thế của mình ẩn náu nơi một góc trời Đông
sau ngày mất nước quả thật là một người
đáng kính nể, đáng tôn thượng trong làng âm nhạc Việt Nam.
Lê Dinh
Ông
Bà nhạc sĩ Lê Văn Khoa và Ông Bà Văn Giảng
chụp chung với nhau trong chuyến viếng thăm Melbourne
của ÔB Lê Văn Khoa (năm 2005)
(hình do nhạc sĩ Lê Văn Khoa vừa gởi tặng VH)
|
No comments:
Post a Comment