Nước
chúng ta hiện nay vẫn chưa độc lập, lại không có tự do dân chủ, mặc dầu
cuộc đấu tranh cho độc lập, cho tự do, dân chủ đã bắt đầu từ lâu. Vậy
rút tỉa kinh nghiệm quá khứ, xét tình hình thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ
và Trung cộng, vì 2 nước này có liên quan nhiều tới Việt Nam, chúng ta
phải làm gì để đạt 2 mục đích trên.
A) Rút tỉa kinh nghiệm quá khứ :
Các tổ chức đấu tranh giành độc lập đi từ thái cực này đến thái cực khác.
Thật vậy, người ta có thể nói hai người
tiêu biểu cho cuộc đấu tranh giành độc lập Việt Nam là Phan bội Châu
(1867-1940) và Hồ chí Minh (1890-1969). Hai người là 2 thái cực từ tính
tình cá nhân cho tới đường lối chính trị.
Một người thì gian manh, giảo quyệt, ác
ôn côn đồ, làm bất cứ việc gì, trả bất cứ giá nào để đạt được mục đích.
Một người, nếu không nói là ngây thơ, thì là quá hiền lành, chỉ biết lấy
tấm lòng tốt và lòng yêu nước làm kim chỉ nam, đi đến chỗ dễ bị lừa. Ở
đây tôi không phải là sử gia, tôi không thể đi vào nghiên cứu lịch sử,
nhưng tôi tin ở giả thuyết là họ Hồ đã bán cụ Phan bội Châu cho Pháp.
Chính Hồ chí Minh đã nói về Phan bội Châu : « Cụ đã già và quá thành
thật. »
Về đường lối chính trị, thì chúng ta nhớ
là lúc đầu cụ Phan chủ trương duy trì chế độ quân chủ, tôn Cường Để lên
làm minh chủ. Cụ cũng nghĩ đến việc cần có sự hỗ trợ của quốc tế, nên đã
sang Nhật, tìm cách gửi người qua Nhật học. Nhưng sau đó Nhật ký hiệp
ước với Pháp, trục xuất cụ sang Thượng Hải ; và chính tại đây, năm 1912,
cụ cũng đã thay đổi lập trường là đi theo chế độ dân chủ. Tuy nhiên vận
động một vài nước chưa đủ, hơn thế nữa, cụ chết sớm, vừa mới lúc thế
chiến thứ Hai bắt đầu, đến khi thế chiến chấm dứt, tình hình chín mùi,
thì họ Hồ, lợi dụng thời cơ, hoàn toàn theo Đệ Tam quốc tế Cộng sản,
được tổ chức này giúp đỡ, nổi lên cướp chính quyền.
Thật vậy, Hồ chí Minh thì nhất nhất theo
ngoại bang, bán linh hồn cho cộng sản Mác Lê, mặc dầu chủ thuyết này chỉ
là cặn bã của văn hóa tây phương. Những nhà văn hóa hạng nhất tây
phương như đại văn hào Victor Hugo có viết về cộng sản như sau :
« Bắt con đại bàng thành con chim chích,
biến con thiên nga thành con dơi, bỏ tất cả mọi người trong một giỏ,
rồi xóc, để ai cũng như ai ; đó là cộng sản. Và đó cũng là điều mà tôi
không thích. »
Chính Proudhon, người đã từng bút chiến
với Marx, và Marx cũng đã khen ông là người có những cái nhìn sắc bén về
kinh tế, đã chỉ trích lý thuyết của Marx : « Lý thuyết này, nếu thực
hiện thì trở thành con sán lãi của xã hội. »
Ngày hôm nay, sau gần một thế kỷ thực
hiện, chúng ta thấy rất rõ điều này. Lý thuyết của Marx, ngoài việc giết
cả trăm triệu người, còn là một con sán lãi hút hết sức sống của dân.
Chỉ cần một thí dụ nhỏ : Tiền thuế là do từ dân, nay với chế độ cộng
sản, chủ trương độc đảng, ngoài chính quyền, còn có đảng, ăn lương còn
hơn chính quyền. Đây chính là con sán lãi. Đấy là chưa kể tham nhũng,
hối lộ, tài sản của toàn dân được gom thu vào tay một thiểu số là đảng
đoàn cán bộ.
B) Xét tình hình Hoa Kỳ, Trung cộng và Việt Nam
Trong suốt thế kỷ 20 vừa qua, không ai có
thể chối cãi rằng Hoa Kỳ là đại cường quốc, chiến thắng Đệ Nhất và Đệ
Nhị Thế Chiến, rồi Chiến tranh Lạnh. Được như vậy không những là nhờ Hoa
Kỳ có một thể chế chính trị tốt, một nền kinh tế giàu mạnh, một quân
đội được trang bị bởi những vũ khí tân tiến, khoa học nhất, mà là còn
nhờ quan niệm đặt ưu tiên chính trị lên quân sự và những lãnh vực khác,
cùng chiến lược ngoại giao, mà đôi khi có người ghét, đó là thủ thuật
biến bạn thành thù, đổi thù thành bạn.
Chúng ta cùng nhau xét 2 điểm trên về Hoa
kỳ và đề cập đến một số dữ kiện lịch sử của thế kỷ 20, trong đó có liên
quan đến Việt Nam.
I ) Quan niệm đông tây về chính trị, quân sự, đặt ưu tiên chính trị trên quân sự
Thật ra đây không phải là quan niệm riêng của Hoa kỳ, Tôn Tử, cách đó cả bao ngàn năm, cũng có viết :
« Phàm cách dùng binh, lành nước là hạng
trên, vỡ nước là hạng kém…Ấy cho nên, trăm trận đánh, trăm trận được,
không phải là người giỏi trong những người giỏi… Không đánh mà làm khuất
phục quân của người, ấy là người giỏi trong những người giỏi… Cho nên
sự thắng của người thiện chiến không có cái tiếng khôn ngoan, không có
cái công mạnh mẽ ( Tôn Ngô Binh pháp – do Ngô văn Triện dịch- trang 51).
Luận về tướng, ông nói đến 5 đức tính,
trong đó ông đặt chữ trí ( sự hiểu biết), tín ( lòng tín nhiệm), nhân (
lòng thương người) trước chữ dũng ( can đảm) và chữ nghiêm ( nghiêm
trang).
Ngô Khởi cũng là một nhà tư tưởng quân sự người Tàu, cũng sinh vào thời Chiến quốc ( 403 – 256 trước Tây lịch), có viết :
« Cho nên rằng, các chiến quốc trong
thiên hạ, năm trận thắng thì tai vạ, bốn trận thắng thì tồi tệ, ba trận
thắng thì làm nên nghiệp bá, hai trận thắng thì làm nên nghiệp vương,
một trận thắng thì làm nên nghiệp đế. Ấy cho nên, những người năng thắng
mà được thiên hạ thì ít, chỉ mất thì nhiều. » ( Sách đã dẫn – trang
269).
Ngay ở Việt Nam, đức Trần hưng Đạo, năm
sinh được phỏng đoán là 1232, ngày mất là 3/9/1300, người ba lần chiến
thắng quân Mông Cổ, vào năm 1257, 1284 và 1287, đạo quân mạnh nhất thế
giới lúc bấy giờ, thế kỷ thứ 13, cũng có viết :
« Khí lượng của tướng, lớn nhỏ khác
nhau. Tướng mà che điều gian, giấu điều họa, không nghĩ đến quần chúng
oán ghét, đó là tướng chỉ huy mười người. Tướng mà dậy sớm, khuya nằm,
lời lẽ kín đáo, đó là tướng chỉ huy được trăm người. Tướng mà ngoài mặt
hăm hở, trong lòng ân cần, biết người khó nhọc, thương kẻ đói rét, đó là
tướng chỉ huy được vạn người. Tướng mà gần người hiền, tiến người tài,
ngày thường cẩn thận, thành thật, rộng rãi, giỏi việc dẹp loạn, đó là
tướng chỉ huy được mười vạn người. Tướng mà dùng nhân ái đối với kẻ
dưới, lấy tín nghĩa phục nước láng giềng, trên biết thiên văn, dưới biết
địa lý, giữa biết việc người, coi bốn bể như một nhà, đó là tướng chỉ
huy cả thiên hạ, không ai địch được. » ( Trần hưng Đạo – Binh thư yếu
lược – trang 15 – nhà xuất bản Quê Mẹ 88- Paris).
Qua những dẫn chứng trên, chúng ta thấy
Tôn Tử, Ngô Khởi và Trần hưng Đạo đều nhấn mạnh ưu tiên của chính trị
trên quân sự. Người tướng mà Trần hưng Đạo chủ trương là dùng nhân ái
đối với kẻ dưới, giữ chữ tín với láng giềng, trên biết thiên văn, dưới
biết địa lý, giữa biết việc người, đó chính là một nhà chính trị vậy.
Người ta có thể nói từ Hồ chí Minh đến
tướng tá cộng sản con cháu đều là những tướng che điều gian, dấu điều
họa, không nghĩ đến quần chúng oán ghét.
Trước khi chết, Trần hưng Đạo còn trăn trối với vua Tần anh Tông :
« Làm thế nào để thu hút được quân lính
như cha con một nhà mới có thể dùng để chiến thắng được. Và phải khoan
dùng sức dân để làm cái kế sâu rễ, bền gốc, đó là thượng sách giữ nước,
không còn gì hơn. »
Ở điểm này chúng ta thấy giới lãnh đạo
cộng sản, coi dân như cỏ rác, pha phí sức dân, lôi cuốn, bắt buộc họ lao
đầu vào biết bao cuộc chiến, thêm vào đó cộng sản Việt Nam còn coi các
nước láng giềng như thù nghịch, trường hợp Căm bốt, Lào, nếu so sánh
Trần hưng Đạo với giới lãnh đạo cộng sản, từ Hồ chí Minh, Lê Duẫn, đến
con cháu sau này, sự khác biệt cao thấp quả là một trời một vực. Chính
vì vậy mà nước Việt Nam hôm nay, bị tụt hậu, bị coi thường, không những
bởi những nước chung quanh, mà cả trên trường quốc tế.
Nước Việt nam có một nền văn hóa cao rất
sớm, ngay từ thời nhà Lý ( 1010 – 1225), trước nhà Trần ( 1225 – 1400),
Việt Nam đã có đại học, vì Quốc tử giám tương đương với đại học, thế mà
ngày hôm nay, đại học Hà nội, được coi là đại học nhất Việt nam, lại bị
xếp vào hàng 80, trong 80 đại học của các nước Đông Nam Á, ngay vào thời
Pháp thuộc, rồi tới thời Việt Nam Cộng hòa, đại học Hà nội, rồi đại học
Sài gòn, được coi là đại học khá nhất trong vùng.
Nguyên sự kiện nạn phá thai, nạn trẻ em
phạm pháp, nạn tham nhũng hối lộ, Việt Nam là một trong những nước đứng
đầu trên thế giới. Tại sao?
Có rất nhiều nguyên nhân, nhưng một trong
những nguyên nhân chính, đó là Việt nam bị cai trị bởi những người lãnh
đạo vọng ngoại, thiếu đầu óc chính trị, không thương dân, những kẻ du
thử, du thực, giết cha, chém chú, như Đỗ Mười, một anh thiến heo, Phạm
Hùng, một anh giết người, Nguyễn tấn Dũng, một anh chăn trâu, du kích.
Gần đây, có sự kiện một số giới trẻ Việt Nam tôn sùng thần tượng một ca sĩ Nam Hàn, đã lên hôn cái ghế ngồi của người này.
Giới báo chí Việt Nam bất bình, phản đối,
cho rằng tuổi trẻ Việt Nam thác loạn, hèn hạ, mất định hướng. Nhưng họ
không suy nghĩ sâu xa. Đó chỉ là hậu quả tất yếu của chính sách vọng
ngoại, ngu dân của cộng sản.
Hồ chí Minh thì thản nhiên tuyên bố : «
Tôi không có tư tưởng gì cả, tư tưởng của tôi đã có Staline và Mao trạch
Đông nghĩ hộ. »
Một văn nô cộng sản thì làm bài thơ, trong đó có câu :
« Hôn cho anh nền tảng đá công trường, Nơi vĩ đại Lénine thường dạo bước. »
Ngày hôm nay họ Hồ được tôn lên làm
thánh, thơ của văn nô nọ vẫn được dạy trẻ em trong trường. Một số trẻ em
Việt Nam hôn nghế ngồi của một ca sĩ nam Hàn là chuyện bình thường, tất
yếu, vì ngày xưa cha ông thì hôn tảng đá, ngày hôm nay thì hôn ghế.
Hôn nghế người ta ngồi và hôn tảng đá
người ta dẵm chân, có gì khác nhau, có chi là điều lạ, đó là hậu quả tất
yếu của một đường lối chính trị và một nền giáo dục. Có chi mà báo chí
ngạc nhiên và bất bình !
Nước Việt Nam, từ ngày lọt vào tay cộng
sản, nếu xa là năm 1945, nếu gần là miền Nam vào năm 1975 ; cộng sản,
bằng bất cứ giá nào cũng phải cưỡng chiếm miền Nam bằng vũ lực, không
nghĩ đến giải pháp chính trị. Sau khi cưỡng chiếm được thì đánh tư bản,
mại sản, đổi tiền, người dân đã phải thốt lên :
« Năm đồng đổi lấy một xu. Người khôn đi học, thằng ngu làm thầy. »
Chỉ cần một câu này, nó đã đủ nói lên
thảm trạng, nỗi đau đớn, tủi nhục, bất hạnh Việt Nam, tiếng khóc thầm
trong lòng của mỗi người Việt Nam, từ nam chí bắc, tới hải ngoại, vì bị
cai trị bởi những kẻ không có đầu óc chính trị nhìn xa, chỉ có đầu óc vũ
biền, dùng dao găm, mã tấu, dùng súng ống để cướp đoạt chính quyền, để
đe dọa, cai trị dân, không biết đặt ưu tiên của chính trị lên quân sự và
trên những lãnh vực khác.
Ở tây phương, những người như Clausewitz
cho rằng chiến tranh là sự tiếp nối của chính trị hay Georges Clémenceau
nghĩ rằng chiến tranh quá quan trọng không thể trao cho quân sự, cũng
cùng quan niệm đó.
Tuy nhiên gới lãnh đạo lưu tâm đến quan niệm này có tính cách hệ thống và liên tục, phải nói đến giới lãnh đạo Hoa kỳ
I I ) Thủ thuật biến bạn thành thù, đổi thù thành bạn trong chiến lược ngoại giao của Hoa Kỳ
Chúng ta hãy quay ngược dòng lịch sử, để xem xét chiến lược ngoại giao này.
Nhiều người cho rằng mộng bá chủ, trở
thành đại cường quốc của Hoa kỳ mới bắt đầu với Đệ Nhất thế Chiến (1914 –
1918). Thực ra, thì nó đã bắt đầu ngay từ thời gian lập quốc, bằng
chứng là trên tờ giấy bạc 1 $, có hình, mặt bên này là Whasington, bên
kia là hình kim tự tháp, với hàng chữ ở dưới : « Novus ordo seclorum «
có nghĩa là « Trật tự thế giới mới «,đó là hình bên trái, còn hình bên
phải là con ó, một chân cầm cành dương liễu, một chân cầm bó tên, có
nghĩa là : Để thực hiện trật tự này, thì nên làm : lúc mạnh, lúc mềm,
lúc dùng phương pháp quân sự, lúc dùng phương pháp chính trị, hòa bình.
Hơn thế nữa, còn có người cho rằng, mộng
làm bá chủ có từ trước thời lập quốc, với những người trên chiếc « Tàu
vượt biển « Mayflower », mà ngày hôm nay dân Hoa kỳ tưởng niệm như ngày
« Tạ ơn Chúa « ( Thanksgiving day).
Thậy vậy, khoảng hơn 100 người Anh, phần
lớn là những người tin đạo, nhưng bị ngược đãi bởi chính quyền và tôn
giáo chính thống, Anh quốc giáo ( Anglicanisme), đã tách rời ra, mà
người sau gọi là (Pèlerins séparatistes) những Người Phân chia, là chủ
vào khoảng 40 gia đình, đã tìm cách vượt biên, đi tìm một thế giới mới.
Những người này đã cùng nhau làm ra một Khế Ước mới ( Mayflower
Compact), theo đó, họ sẽ cùng nhau làm nên một quốc gia mới không có sự
phân chia, bạc đãi tôn giáo, không phân chia chủng tộc, không có sự cấm
đoán những quyền căn bản của con người. Họ đã tới bờ biển Cod, vào ngày
26/12/1620, lập nên một thành phố mới, mang tên Nước Anh Mới ( Nouvelle
Angleterre), tức là vùng New Plymouth, ngày hôm nay, sau cuộc hành trình
sống gió, khổ sở và chết chóc. Dân Hoa Kỳ làm lễ « Cám ơn Thượng Đế –
Thanksgiving » là vì vậy.
Đây có thể nói là những nhà lập quốc đầu
tiên của Hoa Kỳ, với ơớc mơ là làm nên một nước dân chủ và quảng bá mô
hình tổ chức nhân xã này ra rộng lớn. Công việc này đã được thực hiện
với những nhà lập quốc tiếp theo.
Có người đưa ra thuyết Monroe, theo đó :
« Châu Mỹ là của người Mỷ », cho rằng quan niệm và chủ trương của Hoa
kỳ là không can thiệp ra nước ngoài là không đúng.
Không phải hoàn toàn như vậy. Monroe (
1758 – 1831), tổng thống thứ 5 của Hoa kỳ, đã đưa ra chủ thuyết này.
Nhưng trước khi là tổng thống, ông đã từng là nhà ngoại giao, ngoại
trưởng, đã từng thương thuyết ở Paris, để mua tiểu bang Lousiane của
Pháp, rồi mua tiểu bang Floride của Tây ban nha ( L’Espagne). Mục đích
của Monroe là như theo Ngô Khởi, một nhà tư tưởng chiến lược lớn của Tàu
và của cả thế giới, theo đó :
« Bất hòa trong nước thì không thể ra
quân, bất hòa trong quân thì không thể ra trận, bất hòa trong trận thì
không thể tiến chiến, bất hòa trong chiến thì không thể chiến thắng. »
Người ta không biết Monroe có đọc Ngô
Khởi không, nhưng hành động của ông là theo tư tưởng Ngô Khởi : Phải ổn
định tình hình quốc nội, phải ổn định tình hình châu Mỹ, sau đó mới tính
đến chuyện chiến thắng ở bên ngoài.
Monroe tìm cách ổn định những đất đai đã
chiếm của người Da Đỏ, mua phần đất của những người Âu châu. Chính vì lẽ
đó mà có thuyết này, nhưng chính là để sửa sọan chinh phục, chiến thắng
mai sau.
Đó là chuyện xa, nhưng chuyện gần của thế
kỷ 20, về chiến lược ngoại giao với thủ thuật : « Biến bạn thành thù,
đổi thù thành bạn «, người ta phải nói đến 2 hành động lớn bắt đầu trong
chiến lược ngoại giao là can thiệp vào Đệ Nhất thế Chiến ( 1914-1918),
và Hội nghị Hoa thịnh đốn 1921-1922, về vấn đề lực lượng hải quân và
hàng hải.
Hội nghị Hoa thịnh đốn sau Đệ Nhất Thế
Chiến là nhằm giảm bớt vũ khí hải quân ở vùng Viễn Đông ( l’Extreme
Orient) giữa Hoa Kỳ, Anh và Nhật, sau đến một Hiệp ước bảo đảm hỗ tương
về hải quân giữa Anh, Pháp, Hoa Kỳ và Nhật, cùng sự bảo đảm độc lập của
Tàu, yêu cầu Nhật trao trả phần đất Chia Chou cho Tàu. Với Hội nghị này,
Hoa kỳ muốn xác định mình như một cường quốc hải quân.
Đệ Nhất Thế Chiến bắt đầu vào ngày
28/07/1914 tới 11/11/1918 giữa 2 phe, phe Trục gồm đế quốc Đức, đế quốc
Áo Hung, và phe đế quốc Pháp, đế quốc Anh và đồng minh. Tôi không thể đi
vào chi tiết trong khuôn khổ bài này, tôi chỉ nói tới sự can thiệp của
Hoa kỳ bên cạnh Anh, Pháp.
Vào ngày 7/5/1915, Tham mưu Đức nghĩ rằng
phải diệt nguồn tiếp liệu cho Anh, Pháp, đã ra lệnh cho thủy lôi phá
hủy tàu Lusiania của Hoa Kỳ, sau đó lại tiếp tục trở lại ngày 1/2/1917.
Sau khi cắt đứt ngoại giao với Đức ngày 3 tháng 2, thì ngày 6/04 /1917,
Thương Viện Hoa kỳ bỏ phiếu tham chiến bên cạnh Anh, Pháp.
Qua hành động này, chúng ta thấy rõ là
Hoa kỳ đã chọn bạn là Anh, Pháp và kẻ thù là đế quốc Đức, đế quốc Áo
Hung cùng đồng minh của 2 đế quốc này.
Hành động can thiệp của Hoa Kỳ đã làm
lệch cán cân chiến tranh, nghiêng về phía Anh, Pháp, mặc dầu trên chiến
trường quân sự, sau khi Lénine cướp chính quyền, ký hiệp ước ngưng chiến
với Đức, nhượng cho Đức 1/3 đất đai về canh nông và kỹ nghệ, cho phép
Đức không bận rộn về mặt trận phía đông với Nga, rút 700 000 quân từ mặt
trận này về tăng cường mặt trận phía tây với Pháp, mặt trận chính.
Tuy nhiên, về chính trị thì Đức thua.
Điều này chứng tỏ câu của Clausewitz : « Chiến tranh là sự tiếp nối của
chính trị bằng phương tiện khác « ( La guerre est la continuation de la
polique par d’autres moyens) , cũng như câu nói của Georges Clémenceau,
một tác nhân chính trong chiến thắng Đệ Nhất Thế Chiến : « Chiến tranh
là điều gì quá quan trọng không thể để trao cho quân sự « ( La guerre
est trop sérieuse pour être confìée aux militaires «.
Chúng ta thấy ngay vấn đề quyết định tham
chiến, Hoa kỳ quyết định rất trễ, mãi gần đến giữa năm 1917, mới quyết
định. Khi quyết định, Hoa kỳ, dưới thời của tổng thống Wilson, đã mang
mộng xây dựng một trật tự thế giới mới, qua bài diễn văn 12 điểm của
ông, qua việc chủ trương xây dựng Hội Quốc Liên ( Socìté des Nations),
tiền thân của Liên Hiệp quốc sau này.
Tuy nhiên, sau khi chiến tranh chấm dứt,
Hoa Kỳ nhận thấy 2 đế quốc Anh Pháp còn mạnh, mộng trật tự thế giới mới
chưa thể thực hiện, phải làm cho Âu châu, nhất là Anh Pháp phải yếu
thêm. Chính vì vậy mà Hoa Kỳ mặc dầu là nước chủ trương thành lập Hội
Quốc Liên, lại không phê chuẩn hiệp ước này, làm cho tổ chức này yếu hẳn
đi, mà có người nói là một trong những nguyên nhân chính đưa đến Thế
Chiến thứ Hai.
Mặc dầu trên nguyên tắc Pháp Anh vẫn là
bạn của Hoa Kỳ, nhưng trên thực tế là thù, và thù cũ Đức trên thực tế
trở thành bạn, vì Hoa Kỳ ngầm giúp Đức, tăng cường buôn bán. Hoa kỳ còn
ngầm giúp ngay cả chế độ cộng sản của Lénine. Nhà báo viết quyển sách «
Mười ngày Làm Rung chuyển Thế giới « ( Les Dix Jours qui ébranlèrent
le monde ), John Reed, được « nâng niu « bởi Lénine, là một bằng chứng
cụ thể.
Quả như điều mong muốn và dự đoán của Hoa
Kỳ, Âu châu lại lâm vào hoàn cảnh các quốc gia « Cắn quái lẫn nhau « ,
nhất là từ khi Lénine thành lập Đệ Tam quốc tế Cộng Sản, năm 1919, nhằm
xuất cảng « Cách mạng Cộng sản « , từ khi đảng Phát xít của Mussolini
lên nắm quyền ở Ý, cuối năm 1922, rồi Hitler lên nắm quyền năm 1933, ở
Đức.
Và chuyện sẽ đến, phải đến : Đại Chiến Thứ Hai ( 1939-1945) xấy ra.
Trong cuộc thế chiến này, thủ thuật thay
đổi bạn và thù của Hoa Kỳ lại tái diễn. Anh Pháp trở lại bạn, có thêm là
Liên Sô. Phe Đức, Ý, Nhật trở nên thù.
Sau khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt, Hoa kỳ
lại thay đổi bạn và thù. Đức, Nhật, Ý nay trở thành bạn, được giúp đỡ
trong chương trình Marshall, tất nhiên có cả Anh, Pháp. Liên sô và Trung
Cộng sau này trở thành thù, trong thời gian Chiến tranh lạnh, từ cuối
thế Chiến đến khi Liên sô sụp đổ cuối năm 1990.
Tuy nhiên, trong thời gian Chiến tranh
Lạnh, lúc đầu Hoa kỳ nhắm vào Liên sô là thù chính, sau đó, nhắm vào
Trung Cộng từ khi Mao lên nắm quyền năm 1949, là thù chính, biến thù phụ
Liên sô, đôi khi thành đồng minh. Nhưng từ năm 1972, khi có cuộc gặp gỡ
giữa Mao và Nixon, thì Trung Cộng lại trở thành thù phụ và hơn thế nữa
thành đồng minh, Liên sô trở thành thù chính cho tới khi sụp đổ.
Chiến thuật đổi bạn thành thù, đổi thù thành bạn của Hoa Kỳ, mà một trong những nạn nhân chính là chế độ Việt nam Cộng Hòa.
Người ta có thể nói từ năm 1968, khi
Nixon lên nắm quyền ở Hoa Kỳ, chủ trương rút quân khỏi miền Nam, đi đến
Hiệp định Paris 1973, thì trên thực tế, Chính quyền miền Nam đã trở
thành « thù « của Hoa kỳ.
Việt nam hiện nay vẫn đi theo chế độ cộng
sản, chủ trương độc đảng, độc tài, một chế độ mà gần như toàn thế giới
lên án. Việt nam cộng sản, ngày xưa thì hoàn toàn lệ thuộc vào Liên sô,
nay thì hoàn toàn lệ thuộc vào Tàu, nhất là từ ngày có Hội nghị Thành
đô, giữa cộng sản Việt Nam và cộng sản Tàu, vào tháng 3/1990. Cộng sản
Tàu đã bỉ mặt cộng sản Việt Nam bằng cách không tiếp ở thủ đô, mà là ở
một quận huyện tỉnh nhỏ, không được phép đi máy bay, mà phải đi đường
bộ. Đặng tiểu Bình nói là tiếp phái đoàn cộng sản Việt nam lúc đầu,
nhưng sau đó không thèm tiếp, mà còn tuyên bố : « Cộng sản Việt nam là
phường ăn cháo đái bát. Tôi không muốn gặp. »
Có lẽ Việt Nam chưa bao giờ có một giới lãnh đạo hèn hạ và làm mất quốc thể như cộng sản Việt Nam.
Từ đó chó tới nay, Việt nam hoàn toàn bị
lệ thuộc Tàu cộng, tất cả những quyêt định quan trọng của Việt Nam đều
có sự phê chuẩn của Tàu. Việt Nam không những bị lệ thuộc về chính trị
ngoại giao, mà còn bị lệ thuộc về kinh tế và văn hóa : hàng Trung cộng
tràn ngập thị trường Việt Nam, phim ảnh Trung cộng bày bán ở khắp hang
cùng, ngõ hẻm.
Giới lãnh đạo Trung cộng đã biến giới
lãnh đạo cộng sản Việt Nam thành ra xác Việt, nhưng hồn Tàu, hành xử như
những quan thái thú xưa kia. Đây là một chính sách thuộc địa vô cùng
thâm độc : dùng người bản xứ cai trị người bản xứ, theo lệnh của ngoại
bang.
Theo hiến pháp Việt nam thì đảng cộng sản
là đảng độc quyền lãnh đạo. Việt nam thường nói là mong muốn có quan hệ
ngoại giao với tất cả những quốc gia trên thế giới, nhưng thực tế, và
đây là chỉ thị ngầm ngoại giao, đó là đặt ưu tiên ngoại giao với những
nước cộng sản còn lại, trong đó có Trung cộng, Bắc Hàn và Cu Ba, vì như
các cụ xưa nói : « Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã « , loại người nào thì chơi
với loại người đó. Theo hiến pháp cộng sản, thì chức vị Tổng Bí thư hay
Chủ tịch Đảng Cộng sản, là chức vị cao nhất của nước cộng sản đó. Tuy
nhiên nó không ăn nhập gì với những nước tự do, dân chủ, một người chủ
tịch đảng, dù là đảng cầm quyền, cũng như những người chủ tịch đảng
khác. Cộng thêm việc chế độ độc tài bị khinh bỉ, phỉ nhổ trên thế giới,
nên Tổng Bí thư đảng Cộng sản gần như không đi viếng thăm những nước tự
do, mà chỉ quanh quẩn thăm viếng những nước cộng sản còn lại. Như Nông
đức Mạnh, rồi Nguyễn phú Trọng chỉ sang Tàu, rồi Cu ba, qua Bắc Hàn.
Để tiên đoán tương lai một chế độ độc tài
thật khó khăn, vì là độc tài, nên tất cả những lực lượng đối lập bị trù
dập, không hiện ra ánh sáng. Tuy nhiên những lực này, nếu có cơ hội thì
sẽ bùng dậy, lật đổ độc tài. Vì vậy, những chế độ độc tài, bề ngoài thì
có vẻ vững chắc, nhưng bị sụp đổ lúc nào không biết, như trường hợp độc
tài Tunisie, Ai cập và Lybie gần đây.
Bề ngoài chế độ độc tài Lybie của Khadafi
trông có vẻ vững chắc, Khadafi coi thường đối lập, chửi họ là hèn nhát
như những con chuột cống. Thế rồi chính Khadafi bị lật đổ bởi những con
chuột cống này, và bị chui vào ống cống để ẩn náu, nhưng sau cũng bị
bắt, như chúng ta thấy trên truyền hình.
Trung cộng và Việt nam hiện nay, chế độ
có vẻ « vững chắc « , nhưng chắc chắn trong tình trạng tức nước vỡ bờ,
nâng thuyền là nước, lật thuyền cũng là nước, một buổi sớm nào đó, dân
đồng loạt nổi dậy, chứ không lẻ tẻ như trước đây rồi bị dập tắt, cùng
lật đổ chính quyền ; hay quân đội có thể đảo chính ; hoặc ngay chính một
thành phần trong đảng cộng sản, thấy đảng đang đi ngược lại lòng dân,
đi trái với chiều tiến bộ của nhân loại, đã can đảm cùng dân, cùng quân
đội đứng lên lật đổ chính quyền.
Xin quay lại vấn đề Hoa Kỳ, để tiên đoán, như vừa tiên đoán Trung cộng và Việt Nam :
Về Hoa kỳ, nước này hiện nay là đệ nhất
cường quốc trên thế giới sau khi Liên sô sụp đổ. Vì là đệ nhất cường
quốc nên có nhiều sách vở, báo chí, nghiên cứu và tài liệu; thêm vào đó,
Hoa kỳ còn là một nước dân chủ lớn. Dân chủ người ta có thể định nhĩa
nhiều cách khác nhau, nhưng người ta cũng có thể định nghĩa một cách đơn
giản là một thể chế chính trị tôn trọng sự trong sáng, không có sự dấu
diếm, bưng bít, che đạy như ở những nước độc tài. Chính nhờ 2 yếu tố đó,
nên tiên đoán về tương lai Hoa kỳ không đến nỗi khó khăn lắm, và có
nhiều bất ngờ, như tiên đoán về những chế độ độc tài.
Nhưng một câu hỏi được đặt ra với chúng
ta là Hoa kỳ còn có thể giữ địa vị đệ nhất siêu cường đến bao giờ ; và
từ trước đến nay, Hoa Kỳ luôn dùng thủ thuật ngoại giao biến bạn thành
thù, đổi thù thành bạn ; vậy hiện nay ai là bạn, ai là thù của Hoa Kỳ.
Để tiên đoán tương lai dài hạn, cả trăm
năm trở lên thì là một điều khó khăn ; nhưng nếu nói trung hạn từ một
trăm năm trở xuống, từ 20, 30 đến 50 năm, thì Hoa Kỳ trong trung hạn vẫn
có thể duy trì địa vị đệ nhất cường quốc của mình, vì những lý do sau
đây :
Hoa kỳ là một chế độ dân chủ, mà người ta
còn có thể định nghĩa khác, đó là một thể chế chính trị không hoàn hảo,
nhưng lại là một thể chế tránh được những xấu xa nhiều nhất. Nguyên yếu
tố tránh được những xấu xa đã là một trong những nguyên do chính giúp
Hoa Kỳ tồn tại và kéo dài.
Nền kinh tế Hoa Kỳ có gặp những khó khăn,
như nợ nhà nước lên tới 100% tổng sản lượng quốc gia, người dân cũng
như chính quyền tiêu xài quá độ, tuy nhiên nền kinh tế này vẫn đứng hàng
đầu và vẫn còn những nền tảng căn bản, như việc chương trình cải tổ
kinh tế của Obama, một phần nào cũng đã chấn chỉnh kinh tế, thất nghiệp
cũng đã giảm, trường hợp điển hình là hãng xe hơi Général Motor, đang bị
trên đường phá sản, nay nhờ chương trình này, đã phục hồi, ngay cả vấn
đề địa ốc.
Về văn hóa, giáo dục, theo bản nghiên cứu
của tờ báo Wall Street, gân đây, thì trong 10 nước có nền văn hóa cao,
với tỷ số dân có trình độ trên đại học, Hoa kỳ vẫn còn đứng thứ 4, với
dân số có trình độ đại học là 41%, chỉ sau Canada, với 50%, Do Thái với
với 45% và Nhật cũng với 45%. Về giáo dục, mặc dầu trình độ trung học và
nhất là tiểu học xuống cấp, nhưng Hoa Kỳ vẫn là nước dẫn đầu với nhiều
đại học nổi tiếng nhất thế giới, Hoa kỳ vẫn là nơi qui tụ nhiều giải
thưởng Nobel, và nhân tài thế giới.
Về quân sự, quân đội Hoa kỳ vẫn là quân đội mạnh nhất và được trang bị tối tân nhất hiện nay.(1)
Ai là bạn, ai là thù của Hoa Kỳ hiện nay ?
Có người nói rằng kẻ thù của Hoa Kỳ hiện
nay là Trung cộng, còn những nước khác đều là bạn của Hoa Kỳ, viện dẫn
lý do là trục kinh tế hiện nay chuyển mình về châu Á Thái Bình Dương, mà
trong đó đường hàng hải giữ một vai trò quan trọng, trong khi đó Trung
cộng vẽ « Đường lưỡi bỏ », đòi khống chế biển Thái bình dương, tất nhiên
động chạm tới Hoa kỳ. Thêm vào đó Trung cộng đi theo một đường lối
thương mại, ngoại giao « không có trách nhiệm của một cường quốc », như
chính lời của Obama tuyên bố trong một Hội nghị Thượng đỉnh châu Á gần
đây.
Nhận xét trên có nhiều điểm đúng, nhưng không hoàn toàn.
Người khác thì cho rằng Hoa kỳ có một mô
hình tổ chức nhân xã dân chủ tốt đẹp, muốn quảng bá mô hình này ra toàn
thế giới. Vì vậy bạn của Hoa kỳ là những nước dân chủ, và kẻ thù của Hoa
kỳ là những nước độc tài.
Điều nhận xét này cũng không hoàn toàn
sai, vì chính sách ngoại giao của Hoa kỳ từ trước đến nay rất là thực
tế, thực tiễn. Nói theo kiểu ông Kissinger : « Hoa kỳ chỉ có đồng minh,
chứ không có bạn và thù. » Đồng minh thì tùy lãnh vực và tùy hoàn cảnh,
thời điểm.
Có thể nói về dân chủ, nhân quyền, thì
Hoa kỳ coi Trung cộng như « Thù « , một bằng cớ cụ thể là Hoa kỳ vừa
mới cho tá túc một người đấu tranh nhân quyền Trung cộng, ông Trần quang
Thành, một luật sư mù, vẫn ngầm giúp đỡ những tổ chức nhân quyền; cũng
như trong lãnh vực thương mại, Hoa kỳ vẫn buôn bán với Trung cộng và
đồng thời vẫn tố cáo Trung cộng thi hành một đường lối thương mại « bất
chính « , như kìm giá đồng Nhân dân tệ rẻ so với đồng $, để xuất cảng.
Có người nghĩ rằng có thể có một cuộc chiến quân sự giữa Trung Cộng và Hoa kỳ.
Tôi không nghĩ như vậy, ít nhất là ngắn
hạn và trung hạn ; còn về dài hạn thì khó tiên đoán. Về ngắn hạn, tổng
thống Obama còn bận về bầu cử, không dại gì gây ra một cuộc chiến. Hơn
thế nữa, Hoa kỳ có đủ những con bài tẩy để ép Trung Cộng ít hay nhiều
theo ý của mình, không cần đến con bài quân sự. Về phía Trung cộng, thì
giới lãnh đạo cũng đủ sáng suốt để biết rằng gây chiến với Hoa kỳ chỉ có
hại chứ không có lợi, vì chưa đủ sức.
Tuy nhiên đó là về vấn đề ngoại giao, còn
vấn đề nội bộ Trung Cộng thì rất khó tiên đoán : Một cuộc « Cách mạng
Hồng vệ binh « có thể xẩy ra, như nhóm của Bạc Hi Lai định dùng con bài
này, trước đây, để gây thanh thế, hay một biến cố Thiên An môn có thể
xẩy ra, vì nội tình Trung cộng vô cùng mâu thuẫn, mâu thuẫn giữa dân với
chính quyền, và mâu thuẫn ngay trong lòng chính quyền.
Trong trường hợp này, ngay cả chính quyền
Trung Cộng cũng khó kiểm soát được tình hình. Lời tuyên bố của Thủ
tướng Trung cộng Ôn gia Bảo về hiểm họa một cách mạng hồng vệ binh tái
diễn, không phải là không có lý. Khi chính chính quyền Trung cộng không
kiểm soát được tình hình, thì nói chi đến nước ngoài, dù là đại cường
quốc như Hoa kỳ.
Xét quá khứ, nhìn hiện tại, chúng ta thấy
Việt Nam hiện nay vẫn chưa độc lập, mà còn lệ thuộc Tàu trầm trọng hơn,
có người nói ; « Việt Nam hiện nay đang bị Tàu đô hộ lần thứ 5 « ,
điều này không sai, hơn nữa Việt Nam vẫn không có tự do, dân chủ ; vì
vậy công cuộc đấu tranh cho độc lập, cho tự do, dân chủ, từ mỗi người
dân Việt, ở trong cũng như ở ngoài nước, vẫn phải tiếp tục. Nhưng làm
thế nào để không đi vào những vết xe đã đổ trước, hoặc cho rằng chỉ cần
trông cậy vào mình người Việt Nam, không cần người ngoại quốc, trường
hợp như người Hoa Kỳ, trước 1975, là đồng minh, sau trở thành thù ; hoặc
cho rằng hoàn toàn phải trông cậy vào ngoại quốc, hoàn toàn bán hồn cho
ngoại bang.
Đây là hai thái cực mà chúng ta phải tránh.
Chúng ta phải tự lực cánh sinh, tự trông
cậy vào mình trước ; nhưng chúng ta cũng phải biết cập nhật hóa cuộc đấu
tranh của chúng ta, để cho nó theo kịp đà tiến bộ của nhân loại, đồng
thời vận động sự hỗ trợ của quốc tế, không nhất thiết một vài nước, mà
càng nhiều càng tốt, không nhất thiết là chính quyền, có thể là những tổ
chức nhân quyền, đấu tranh cho tự do, dân chủ quốc tế, không nhất thiết
là những tổng thống, thủ tướng, ngoại trưởng, mà có thể là những nghị
sĩ, thượng nghị sĩ, những viện nghiên cứu, đại học, không cần đi sao
chép tư tưởng, ý thức hệ ngoại bang, như cộng sản đã làm, mà cần dựa
trên căn bản tư tưởng cổ truyền, được cập nhật hóa.
Ngày hôm nay, về vấn đề ngoại giao, giữa 2
cường quốc có ảnh hưởng nhiều đến Việt Nam, nhất là Hoa Kỳ và Trung
cộng, gần như chúng ta bắt buộc phải chọn Hoa Kỳ, mặc dầu vào năm 1975,
nước này đã bỏ rơi chúng ta, như vào đầu thế kỷ 20, Nhật đã bỏ rơi cụ
Phan bội Châu. Chúng ta phải can đảm lấy quyết đó, vì nói theo kiểu một
câu châm ngôn là phải chọn cái đỡ dở nhất trong những cái dở nhất, phải
chọn bệnh ghẻ thay vì bệnh hủi, vì trên trường bang giao quốc tế không
có lý tưởng tuyệt đối. Kẻ nào quá lý tưởng sẽ bị vỡ mộng. Thêm vào đó,
chúng ta có quyền nghĩ đến quyền lợi của dân tộc ta, thì những người
khác, Hoa Kỳ hay Nhật, họ cũng vậy. Bang giao quốc tế, nói như một nhà
ngoại giao, là tùy hoàn cảnh, tùy thời, để đi đến chỗ lưỡng lợi, không
có chuyện đặt tình cảm trong đó.
Cuộc đấu tranh cho độc lập quốc gia, cho
tự do, dân chủ, nhân quyền còn có rất nhiều khó khăn, tuy nhiên, chắc
chắn nó sẽ đi đến thành công, vì nó đi đúng chiều hướng tiến bộ của văn
minh nhân loại, đi đúng lòng dân Việt và chiều hướng lịch sử Việt (1).
Paris ngày 11/05/2012
Chu chi Nam
Xin xem thêm những bài về dân chủ và Hoa kỳ, Trung cộng, trên http://perso.orange.fr/chuchinam/

No comments:
Post a Comment