NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiếu - P1




Nha Kỹ Thuật là cơ quan tình báo chiến lược của Quân đội Sài Gòn, là một đơn vị đặc trách tổ chức, hoạt động thu thập tin tức tình báo, phản gián chiến lược từ trong lòng đối phương, cũng như trong hậu tuyến Quân đội Bắc Việt; hoặc những địa bàn có cơ sở, đơn vị đối phương trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam.

Tiền thân là Phòng 6, Bộ Tổng Tham mưu, do Trung tá Lung phụ trách. Dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, Phòng 6 có tên là Sở Liên lạc Phủ Tổng thống và Lực lượng đặc biệt, do Đại tá Lê Quang Tung làm Tư lệnh. Từ sau cuộc đảo chính 11/1963 cho đến tháng 4/1975, Nha Kỹ thuật lần lượt do các tướng Nghiêm, Quảng, Lam Sơn, Phú; các sĩ quan như Trung tá Lan, Đại tá Hổ và cuối cùng là Đại tá Nu chỉ huy. Riêng tên gọi, được đổi từ Phòng 6 đến Sở Liên lạc Phủ Tổng thống; Lực lượng đặc biệt; Sở Khai thác địa hình và cuối cùng là Nha Kỹ thuật.


Bia Budweiser quá tệ

Dưới chính thể của Ngô Đình Diệm, mọi hoạt động của biệt kích đều do Đại tá Tung trực tiếp nhận chỉ thị cũng như phúc trình với Tổng thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu. Cùng thời điểm này, mọi hoat động của Nha Kỹ thuật đều do cơ quan Trung ương tình báo CIA Mỹ tư vấn, chỉ đạo và yểm trợ. Sau cuộc đảo chính lật đổ anh em Ngô Đình Diệm vào tháng 11/1963, mọi hoạt động đều do Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên trực tiếp chỉ huy, được Bộ Tham mưu cơ quan tình báo quân sự Mỹ SOG (Study and Observation Group) làm cố vấn và yểm trợ.

Về tổ chức, Nha Kỹ thuật gồm: Sở công tác; Sở Liên lạc; Sở Phòng vệ duyên hải; Sở tâm lý chiến; Sở yểm trợ không quân và Trung tâm Huấn luyện Quyết Thắng. Sở Công tác đóng tại bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng. Hai Đoàn 11 và 72 đóng tại Đà Nẵng, Đoàn 75 đóng tại Pleiku. Đoàn 68 đóng tại Sài Gòn. Các toán trong đoàn công tác được huấn luyện xâm nhập bằng đường không hay đường bộ vào lãnh thổ Bắc Việt Nam, dọc theo biên giới Việt-Lào-Campuchia hoặc Thái Lan. Sở Liên lạc đóng tại Sài Gòn; Chiến đoàn 1 đóng tại Đà Nẵng, Chiến đoàn 2 đóng tại Kontum và Chiến đoàn 3 đóng tại Buôn Mê Thuột.

Các toán biệt kích thuộc Sở Liên lạc xâm nhập vào hậu tuyến của đối phương từ vĩ tuyến 17 trở vào cho đến mũi Cà Mau. Sở Phòng vệ Duyên hải đóng tại Tiên Sa, Đà Nẵng gồm lực lượng tuần tra Hải quân Việt Nam, chuyên sử dụng thuyền máy PCF, PT có tốc độ khá nhanh, hỏa lực mạnh để hoạt động tại bắc vĩ tuyến 17. Lực lượng biệt kích biển được huấn luyện thành các toán người nhái để xâm nhập vào lãnh thổ Bắc Việt bằng đường biển.

Sở Tâm lý chiến đóng tại số 7, đường Hồng Thập Tự, Sài Gòn; chuyên tổ chức và điều hành 2 đài phát thanh: “Tiếng nói tự do” và “Gươm thiêng ái quốc”. Ngoài ra, Sở Tâm lý chiến còn có nhiệm vụ gửi người ra Bắc hoạt động trong lĩnh vực tâm lý chiến. Sở Yểm trợ đường không đóng tại Sài Gòn để phối hợp với Phi đoàn trực thăng 219, Phi đoàn quan sát 110 tại Đà Nẵng trong việc xâm nhập, liên lạc, hướng dẫn và rút các toán biệt kích hoạt động trong lòng đối phương. Trung tâm Huấn luyện Quyết thắng đóng tại Long Thành, Biên Hòa, huấn luyện về chiến tranh ngoại lệ cho các toán, cũng như các phương pháp xâm nhập vào lãnh thổ đối phương, hoạt đông ở hậu phương, du kích chiến, ám sát, bắt cóc, phá hoại, chiến tranh tâm lý...


Vì lý do bảo mật, tuy cùng đơn vị nhưng nhiều biệt kích quân của Nha Kỹ thuật không được phép tiếp xúc hay tìm hiểu về nhiệm vụ của những đồng sự khác. Các cơ quan, đơn vị của Nha Kỹ thuật đồn trú trên khắp 4 vùng chiến thuật, hạn chế tối đa sự liên lạc với các cơ quan quân, dân, chính quyền địa phương. Vì vậy ít người biết về Nha Kỹ thuật hoặc chỉ biết mà không hiểu rõ về những hoạt động của nó. Quân nhân hoặc dân sự được tuyển chọn về Nha Kỹ thuật đều phải trải qua một cuộc điều tra tỉ mỉ về quá khứ và các mối quan hệ. Tất cả đều thuộc thành phần tình nguyện và khi nhận nhiệm vụ, họ đều phải hiểu rằng đó là công tác gian nan, nguy hiểm; một khi ra đi thì ít hy vọng trở về an toàn. Trong thực tế đã có biết bao nhiêu biệt kích quân đã bỏ mạng trên khắp vùng rừng núi Bắc Việt, ngoại biên hoặc sâu trong lãnh thổ miền Nam Việt Nam.

Những kẻ biến họ thành công cụ chiến tranh, có thể huyễn hoặc họ, gọi đó là sự hy sinh. Nhưng đối với đất nước và dân tộc thì cái chết của họ lại là nỗi đau và sự mất mát không thể bù đắp. Trải qua 20 năm tồn tại, dưới áp lực của bao diễn biến chính trị quốc tế về Việt Nam, Nha Kỹ thuật đã nhiều lần thay đổi về cơ cấu, tổ chức, phương thức cũng như quy mô hoạt động, nhưng bản chất bất biến của nó là mọi hoạt động đều nhắm vào mục đích phá hoại. Lẽ ra sự phá hoại đó phải dành cho kẻ thù dân tộc. Nhưng đáng tiếc, lại phục vụ cho mục đích chiến tranh. Bao nhiêu sinh mạng bỏ lại nơi rừng thẳm, non cao liệu có nghĩa lý gì không?


KẾ HOẠCH 34A - TÂM LÝ CHIẾN

Chiến tranh tâm lý, với mật danh là Forae được phê duyệt ngày 14/3/1968. Tướng Westmoreland ra lệnh không bằng văn bản. Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên, bởi đó là nguyên tắc hoạt động của SOG cùng những kế hoạch bí mật trong lòng hậu phương của đối phương.
Forae khởi đầu với 6 kế hoạch. Ba trong số 6 bản kế hoạch đó được giao cho Đoàn Nghiên cứu, quan sát (SOG) để áp dụng trong chương trình chiến tranh tâm lý. Ba bản kế hoạch còn lại đều nằm trong “Kế hoạch 34A”, là xương sống của chương trình “Trở mặt”.

Mục đích của chương trình này là làm cho đối phương bối rối về mặt tâm lý. Bob Kingston quyết định: “Đặt máy phát thanh trên lãnh thổ miền Bắc Việt Nam”. Một số máy do các toán biệt kích đem theo gài, số khác thả bằng dù. Những máy phát thanh đó đã được điều chỉnh trước để phát đi chương trình phát thanh của 2 đài phát thanh “đen” là đài “Gươm thiêng ái quốc” và đài “Cờ đỏ”. Với kế hoạch này, Bob Kingston hy vọng sẽ làm cho đối phương phải sử dụng lực lượng an ninh biên phòng lùng sục những toán biệt kích mà thực ra chỉ là những máy thu thanh. Ngoài ra, những đài phát thanh đen này còn gửi những mật điện cho các toán biệt kích đang hoạt động trên lãnh thổ miền Bắc hoặc những mật điện giả, khiến cho đối phương phải bối rối.

Năm 1968, Bob Kingston giao cương vị đảm trách “Kế hoạch 34A” cho Bob Mc Knight, ông ta điều hành một bộ phận gồm những sĩ quan lo việc điều nghiên, tìm hiểu hệ thống an ninh nội bộ trong hành ngũ đối phương. Họ cấu tạo một hệ thống “Trở mặt tay ba” rất phức tạp. Kế hoạch này gồm 3 chương trình:

+ Chương trình Borden:

Do Đại úy Bert Spivy đảm nhiệm, chuyên tuyển mộ tù binh Bắc Việt làm gián điệp cho SOG. Họ đến những trại giam tù binh Bắc Việt do quân đội Mỹ bắt được, chiêu dụ những tù binh “biết điều” hợp tác (họ không dùng những tù binh do Quân đội Sài Gòn bắt được). Có điều, các tù binh được chọn không biết được là có theo người Mỹ thật lòng hay không? Thậc ra, trong hồ sơ của chương trình Borden, họ hy vọng phần lớn những tù binh này sẽ ra trình diện và báo cáo cho cấp chỉ huy của Quân đội Bắc Việt về nhiệm vụ của họ. Những nhiệm vụ này đều là giả, cũng như những tin tức tình báo mà người Mỹ đã giao cho những điệp viên “đi hàng ba” này.
Khi được thả dù trở ra ngoài Bắc, những cựu tù binh sẽ hoạt động cho kế hoạch 34A một cách mù quáng mà họ không biết.



Trùm MACV-SOG, Đại tá Steve Cavanaugh, thay thế Jack Singlaub vào tháng 9/1968, giải thích: “Trong thời gian huấn luyện, chúng tôi cho điệp viên biết về nhiệm vụ liên lạc với các toán biệt kích đang hoạt động ngoài Bắc và trao cho họ những tin tức giả... Lẽ dĩ nhiên là không có toán biệt kích nào ở tọa độ đó cả. Tất cả đều là giả tạo, chúng tôi mong họ ra trình diện hoặc bị bắt để họ báo cáo cho các sĩ quan trong quân đội Bắc Việt về những toán “biệt kích ma” đang hoạt động trong lòng hậu phương của họ”.

Trong chương trình huấn luyện, những biệt kích quân thuộc Nha Kỹ thuật của Quân đội Sài Gòn được gài vào các trại tù binh, để thỉnh thoảng “rỉ tai” cho tù binh Bắc Việt về những toán biệt kích đã ra hoạt động ngoài miền Bắc rằng: “Phe ta đang làm ăn khấm khá”, cùng những tin đồn về các tổ chức “kháng chiến” đang được xây dựng ở miền Bắc. Họ cũng cung cấp cho tù binh những tin tức sai lệch hoặc báo cáo giả do điệp viên hay những toán biệt kích gửi về. Khi thả dù xuống miền Bắc, tù binh “hàng ba” cũng được trao cho “vinh dự nhảy ra trước vì đậu thủ khoa trong khóa huấn luyện”. Những người trong toán sẽ nhảy theo anh ta. Điều người cựu tù binh không được viết là khi anh ta đã rơi vào màn đêm, toán biệt kích thật sẽ tháo dây móc dù ra và ngồi xuống ghế. Mọi chuyện đều được sắp đặt trước, đến khi quân Bắc Việt tìm thấy dù vướng trên ngọn cây, toán biệt kích đã biến mất... Thật ra, đó là những tảng nước đá đã tan ra nước.

Cũng theo Spivy, lúc bắt đầu chương trình Borden dự định thả xuống miền Bắc hàng trăm điệp viên tù binh hàng năm. Trong năm 1968, khi chương trình bắt đầu xúc tiến, thì hồ sơ của SOG có ghi rõ là 98 tù binh được tuyển mộ, thì có tới 50 người bị loại, còn 44 người được thả xuống những khu vực do Quân đội Bắc Việt hoặc Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam kiểm soát. Bốn người khác sẽ được thả dù xuống vào tháng 1/1969. Năm 1968 được đánh giá là năm thành công. Đến cuối năm 1969, Washington ra lệnh chấm dứt tất cả mọi kế hoạch vượt biên xâm nhập lãnh thổ miền Bắc.

+ Chương trình Urgency:

Tìm tù binh trong những trại giam tù binh hoặc bị bắt cóc trong chương trình Plowman ( tổ chức các cuộc hành quân bằng đường biển nhằm bắt cóc dân sống ngoài miền Bắc như SOG lập kế hoạch). Những người này sẽ đem ra đảo Paradise hay Cù Lao Chàm ngoài khơi Đà Nẵng. Họ bị nhồi sọ về những tổ chức kháng chiến ngoài Bắc và đài phát thanh “Gươm thiêng ái quốc” do khối Chiến tranh tâm lý do SOG điều hành. Sau đó chia thành 2 nhóm:

Một, đối với lính Bắc Việt là Đảng viên Đảng cộng sản không chịu hợp tác, thành phần tin tưởng vào Hồ Chủ Tịch và Đảng cộng sản, theo Bob Mc Knight, những tù binh cứng đầu này sẽ bị dàn cảnh chụp mũ làm điệp viên cho người Mỹ, rồi thả trở lại miền Bắc. CIA hy vọng rằng họ sẽ bị bắt, bị tra tấn và bị giết bởi chính bàn tay của cộng sản, kế hoạch này quả thật rất hiểm độc.


Trại huấn luyện tại Cù Lao Chàm với những ngôi nhà có kiểu giống với miền Bắc

Hai, dành cho những tù binh ngoài Cù Lao Chàm muốn hợp tác. Họ được huấn luyện để trở thành điệp viên, được gửi ra miền Bắc nằm chờ lệnh, sẽ liên lạc sau.

Thật ra Kế hoạch 34A đã bắt đầu chương trình từ năm 1967, hai điệp viên mang mật danh Goldfish và Pergola đã trở ra ngoài Bắc vào tháng 9/1967. Nhưng cả hai đều biệt tăm.

+ Chương trình Oodles:

Sử dụng hệ thống phát thanh, truyền tin đánh lạc hướng Quân đội Bắc Việt. Trong hồ sơ SOG, chương trình Oodles sẽ ngụy tạo ra một màng lưới điệp viên đang hoạt động rất hữu hiệu trong một số vùng được xác định rất kỹ ngoài Bắc. Cho đến khi chương trình chấm dứt, có tất cả 14 toán biệt kích ma hoạt động trong lòng đối phương. Để làm như thật, nhiều điện văn giả được gửi đi cho những toán biệt kích ma. Những điện văn giả bao gồm lệnh hành quân lấy tin tình báo cho những mục tiêu, báo cáo về những hoạt động của các toán biệt kích khác, những chuyến thả dù tiếp tế và tăng cường thêm nhân lực sắp tới. Họ cũng tổ chức những chuyến thả dù tiếp tế ma, nhưng khi công an biên phòng Bắc Việt đến sẽ chỉ thấy những kiện hàng trống rỗng, còn đồ tiếp tế thì đã biến mất. Điều đó có thể khiến cho đối phương càng tin là những toán quân biệt kích ma là có thật. nhưng cũng giống như số phận của Borden và Urgency, tất cả đều chấm dứt vào cuối năm 1968.

+ Chương trình Strata:

Là các toán biệt kích hoạt động ngắn hạn. Những toán Strata cũng được thả ra ngoài Bắc với nhiệm vụ do thám đường giao thông và tìm mục tiêu chiến lược. Chương trình này bắt đầu từ tháng 5/1967. Hai toán Strata đầu tiên xâm nhập miền Bắc vào cuối năm 1967. Khu vực hoạt động của những toán biệt kích Strata nằm dưới vĩ tuyến 20, khoảng 150 dặm về phía bắc khu phi quân sự. Toán biệt kích thứ nhất có nhiệm vụ xâm nhập để thu thập tin tức về hệ thống đường mòn, dẫn đến 3 ngọn đèo để cuối cùng sẽ nhập vào đường mòn Hồ Chí Minh trên đất Lào. Những toán biệt kích Strata chỉ hoạt động trong thời gian rất ngắn, do đó họ có cơ hội sống sót nhiều hơn những toán biệt kích thả sâu vào lãnh thổ Bắc Việt trước đó.

Những toán Strata thường gồm từ 5-15 biệt kích quân Sài Gòn hoặc người dân tộc thiểu số, xâm nhập miền Bắc bằng trực thăng Mỹ hay của quân đội Sài Gòn...Thời gian hoạt động của các toán biệt kích trong lòng đối phương khoảng 15-30 ngày.


Toán Idaho

Trong năm 1968, đã có 24 toán biệt kích Strata xâm nhập miền Bắc. Ngoài nhiệm vụ do thám hệ thống đường giao thông, các toán Strata còn có thêm nhiệm vụ gài mìn, bắt cóc và rải truyền đơn trên những lộ trình có dân, hoặc quân đội Bắc Việt di chuyển qua.

Đến năm 1969, các toán biệt kích Strata đã chuyển hướng hoạt động sang lãnh thổ Lào và Campuchia.

NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
Giáo sư Vủ Đình Hiếu - P2



KẾ HOẠCH 34A - THẢ BIỆT KÍCH

Trong những tháng đầu năm 1964, cơ quan tình báo Trung ương Mỹ CIA hoàn tất việc bàn giao những toán biệt kích sẽ thả xuống lãnh thổ miền Bắc Việt Nam cho Đoàn nghiên cứu quan sát (SOG), bao gồm 4 toán Bell, Remus, Tourbillon và Easy, mà họ tin là vẫn đang hoạt động trong lòng hậu phương của đối phương, với tổng quân số gồm 30 người. Toán thứ năm Europa, do cơ quan CIA thả trong tháng 2/1962, bị mất liên lạc ngay khi đang tiến hành chương trình bàn giao. Cuối cùng CIA bàn giao điệp viên Ares, cùng căn cứ huấn luyện ở Long Thành, với khoảng 169 biệt kích quân đang huấn luyện và nhiều nhà tạm trú cho các biệt kích quân ở Sài Gòn.


Sài Gòn 1960s. Ngã 4 Châu Văn Liêm - Hùng Vương

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Mc. Namara cùng những viên chức cao cấp khác ở Washington luôn muốn hành động. Họ thúc đẩy SOG gia tăng việc thả những toán biệt kích xâm nhập lãnh thổ lãnh thổ miền Bắc Việt Nam. Từ giữa tháng 4/1964 đến tháng 10/1967, gần 30 toán biệt kích và một số điệp viên đơn tuyến đã xâm nhập vào lãnh thổ miền Bắc Việt Nam, với tổng quân số khoảng 250 người. Nếu cộng thêm số biệt kích quân do CIA thả trước đó thì tổng số biệt kích quân có khoảng 500 người. Có điều, CIA và SOG đều biết khả năng thành công của “Kế hoạch 34A” nhằm thả những toán biệt kích xâm nhập miền Bắc Việt Nam là rất thấp.

Đến cuối 1967, chỉ còn lại 7 toán biệt kích là Remus, Tourbillon, Easy, Eagle, Hadley, Red Dragon, Romeo và điệp viên đơn tuyến Ares vẫn còn hoạt động ở Bắc Việt Nam.

CIA thả toán Tourbillon ngày 16/5/1962. Sau đó 2 lần thả thêm biệt kích quân tăng cường cho toán Tourbillon đang hoạt động ở vùng Tây Bắc, Bắc Việt Nam. Toán Tourbillon được lệnh tổ chức những vụ phá hoại; sau đó đổi sang thu thập tin tức tình báo. Nhưng không có tài liệu nào ghi lại những hoạt động của toán Tourbillon. Mỗi lần SOG tìm cách rút toán về thì y như rằng toán Tourbillon không đến được điểm hẹn để được bốc về (?!)

Tháng 8/1963, CIA thả toán Easy xuống vùng rừng núi tỉnh Sơn La để bắt liên lạc với các phần tử người H’mông, Thái lập ra những căn cứ cho các toán khác đến hoạt động. Ngoài ra, toán Easy sẽ thăm dò mức độ phản ứng của lực lượng an ninh Bắc Việt để tuyển mộ dân thiểu số, tổ chức những vụ phục kích, phá hoại trục đường giao thông trên địa bàn. Nhưng từ tháng 1/1964, những vụ phá hoại trên không được SOG chấp thuận, nhất là không cho phép tổ chức những trận phục kích, vì SOG cho rằng như vậy quá mạo hiểm. Easy chỉ còn nhiệm vụ thu thập tin tức tình báo từ những người dân bản địa mà họ đã tuyển mộ. Trong hồ sơ của SOG, không có bản báo cáo nào quan trọng về toán Easy. Thực tế Easy được gửi tăng cường 4 lần, với tổng số 23 biệt kích quân. Khi SOG thông báo cho Easy biết rằng sẽ rút vài thành viên trong toán về, thì Easy tắt máy, chấm dứt liên lạc.

Riêng toán Remus, có 6 biệt kích quân nhảy dù xuống khu vực gần Điện Biên Phủ ngày 16/4/1962, để thiết lập căn cứ cho những hoạt động tình báo như: thu thập tin tức liên quan đến quân đội, tình hình chính trị và kinh tế...Ngoài ra, toán có thêm nhiệm vụ tìm kiếm những khu vực làm địa điểm thả dù tiếp tế, hoặc những khu vực an toàn cho những toán xâm nhập kế tiếp; tuyển mộ dân thiểu số cho công tác bảo đảm. Năm 1964, toán Remus báo cáo đã phá hủy 2 chiếc cầu. Bộ trưởng quốc phòng Mc. Namara rất hài lòng. Sau này ông trùm CIA W. Colby nhớ lại: “Lúc đó, ông Bộ trưởng phấn khích như trẻ con, khi nhận được bản báo cáo. Ông ta coi đó như một thành quả to lớn, có thể làm thay đổi cục diện chiến tranh”.

Do được SOG coi như thành công, toán Remus được tăng cường thêm 5 lần. Năm 1966, Remus được lệnh thay đổi nhiệm vụ, toán bắt đầu than phiền rằng không nhận được lệnh đầy đủ, rõ ràng. Năm 1967, SOG ra lệnh cho toán rút 2 biệt kích quân về. Remus trả lời là điều đó rất nguy hiểm.


Xuân Lộc, 14/4/1975

Năm 1968, mọi liên lạc bằng vô tuyến với toán Remus đều chấm dứt. Cùng thời gian đó, do thẩm vấn một tù binh Bắc Việt bị bắt, anh ta cho biết là có nghe nói đến vụ bắt được một toán biệt kích trên địa bàn mà toán Remus từng hoạt động hồi ... tháng 6/1962.

Ngày 13/5/1968, Hà Nội xác định có bắt được một toán biệt kích. Như vậy không còn nghi ngờ gì nữa, đó là toán Remus.

Ares là điệp viên duy nhất do CIA thả xuống Bắc Việt còn sống sót. Trong các bản báo cáo của mình, nhân viên CIA mô tả gặp Ares - Phạm Chuyên trong văn phòng định cư tại Sài Gòn ngày 29/8/1960. Qua thẩm định, CIA cho rằng Ares là người có khả năng, linh động và muốn chống lại chính quyền Bắc Việt. Sau đó anh ta được CIA tuyển mộ và được phái ra xâm nhập miền Bắc bằng đường biển vào đầu năm 1961, gần biên giới Việt – Trung. Lúc đầu Ares rất thành công, cung cấp những tin tức về miền Bắc, về nhà máy điện Uông Bí cũng như hệ thống đường sá, cầu cống, cảng Hải Phòng...cùng nhiều tin tức khác.

Tuy nhiên, đến năm 1966, SOG bắt đầu để ý đến những báo cáo cũng như yêu cầu tiếp tế của điệp viên Ares. Khi được lệnh tìm một địa điểm để thả dù tiếp tế, Ares đề nghị một phương thức khác. Điều này khiến cho SOG nghi ngờ. Khi được lệnh rút quân, anh ta không trả lời. Nhưng Ares vẫn tiếp tục liên lạc cho đến năm 1968.

Toán Eagle xâm nhập khu vực biên giới Việt – Trung ngày 27/6/1964, với nhiệm vụ phá hoại hai tuyến quốc lộ số 1, số 4 và phá hoại tuyến xe lửa Mục Nam Quan; căn cứ không quân Mai Phả. Tuy nhiên, chẳng có thông tin nào ghi nhận việc thi hành nhiệm vụ của toán Eagle. Chưa kể toán còn được giao nhiệm vụ thu thập tin tức tình báo về những mục tiêu trên. Theo tổng hợp của SOG, thì những báo cáo của toán Eagle gửi về hầu như không có giá trị.




Năm 1966, toán Eagle nhận nhiệm vụ chỉ do thám đường giao thông. Nhưng kết quả báo cáo về cũng chỉ là con số 0. Năm 1968, toán được lệnh di chuyển về hướng nam để rút quân. Eagle báo cáo không tìm ra vị trí để thu quân, sau đó mất liên lạc hoàn toàn.

Toán Hadley cũng xâm nhập vào khu vực phía bắc khu phi quân sự, do thám con đường số 8, nối thông các tuyến đường số 15 với các tuyến đường 81, 12 và 121 của Lào. Đó là những trục đường giao thông được Quân đội Bắc Việt dùng để chuyển quân cũng như đồ tiếp tế cho chiến trường miền Nam. Ngoài ra, Hadley còn phải đề ý theo dõi tuyến giao thông đường thủy sông Ngàn Phố, con sông này cũng chính là nguồn cung cấp nước chính yếu cho khu vực phía bắc khu phi quân sự. Thế nhưng Hadley đã bị phát giác ngay từ lúc đầu khi xâm nhập. Toán trưởng ngay lập tức báo cáo cho SOG rằng họ đã xâm nhập thành công, nhưng chẳng có gì chứng minh rằng Hadley hoạt động hữu hiệu cũng như không báo cáo được về những mục tiêu để chỉ điểm cho máy bay đến oanh tạc.

Toán biệt kích cuối cùng được thả vào ngày 21/9/1967. Đó là toán Red Dragon, gồm 7 biệt kích quân, với nhiệm vụ xâm nhập khu vực phía bắc hai tỉnh Lào Cai và Yên Bái. Hai tỉnh địa đầu của lưu vực sông Hồng, dọc theo biên giới Việt – Trung. Ở đó, những trục lộ giao thông đường bộ, đường xe lửa, đường thủy đều đi qua hai tỉnh này. Đó cũng chính là những mục tiêu mà toán Red Dragon có nhiệm vụ do thám và phá hoại.

Theo các dữ liệu trong các bản báo cáo về tất cả những gì liên quan đến toán Red Dragon, cho thấy có những bất đồng khá sâu sắc giữa hai trung tâm chỉ huy lực lượng biệt kích Mỹ và Việt Nam. Người Mỹ tin là toán đã nằm trong tay đối phương và bị khống chế, buộc phải gửi đi những bản báo cáo sai sự thật về cho SOG. Các sĩ quan quân đội Sài Gòn thì ngược lại, cho rằng toán biệt kích Red Dragon vẫn còn hoạt động, vì toán vẫn tiếp tục liên lạc từ năm 1968, cho đến 1969 mới chấm dứt.

Trong bài diễn văn được phát trên các kênh truyền hình Mỹ ngày 31/3/1968, Tổng thống Johnson tuyên bố sẽ không ra tái tranh cử và ra lệnh chấm dứt việc ném bom ngoài vĩ tuyến 20 trên lãnh thổ miền Bắc Việt Nam. Theo đó, Bộ Ngoại giao Mỹ thông tư cho SOG biết, không được điều máy bay xâm nhập ngoài vĩ tuyến 20. Thông tư trên gần như hợp thức hóa việc SOG bỏ rơi 6 toán biệt kích đã nhảy dù xâm nhập lãnh thổ miền Bắc trước đây.

Hà Nội đã bắt được vài toán biệt kích và khống chế những biệt kích quân này gửi đi những báo cáo sai sự thật về cho SOG. Trên tấm bản đồ miền Bắc Việt Nam treo trong Phòng hành quân, có ghim 8 cây kim màu xanh, đánh dấu vị trí hoạt động của 8 toán biệt kích. Trên hướng Tây Bắc, gần biên giới Việt – Trung, có 4 toán biệt kích là Remus, Easy, Tourbillon và Red Dragon. Hướng Đông Bắc, ngay sát biên giới là toán Eagle; gần bờ biển có điệp viên bí ẩn Ares. Khu vực miền Trung khu 4 (Thanh Hóa, Nghệ An) có toán Hadley và Romeo.


Hoạt động các toán năm 1961