Tuesday, January 31, 2012

Giáo Xứ CTTĐVN Seattle đón Xuân Nhâm Thìn

Nguyễn An Quý

Xin bấm vào đây để xem hình ảnh:


https://picasaweb.google.com/100429147408528482693/XUANNHAMTHIN#

SEATTLE. Hôm nay Chúa nhật ngày 22 tháng 01 năm 2012, bây giờ là 10 giờ 45 phút, tôi nhìn thấy các ghế trong hội trường của trường học Aki Kurosse đã đầy kín người kể cả tầng lầu của hội trường. Ngoài trời mưa đang rơi, trời Seattle tương đối khá lạnh sau gần một tuần lễ tuyết trắng phủ kín các con phố của xứ Cao Nguyên Tình Xanh. Cùng hướng lòng về cội nguồn trong ngày Tết cổ truyền của Dân Tộc, Giáo xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam sẽ cử hành Thánh lễ mừng xuân Nhâm Thìn tại đây lúc 11 giờ. Giáo dân khắp chung quanh thành phố Seattle và các vùng phụ cận đã tề tựu đông đảo để cùng nhau tham dự thánh lễ tạ ơn và chào đón năm mới. Trong giờ phút này, có lẻ mọi người Việt Nam ly hương trên khắp thế giới cũng đang hướng lòng về quê nhà trong giờ phút thiêng liêng để cùng hiệp thông trong những giây đón Giao Thừa với những người thân thương còn lưu lại quê nhà.

Hội Tết Nhâm Thìn 2012 tại Thành Phố Everett Tiểu Bang Washington

Đầu năm xem Xiếc

Tác Giả: SE sưu tầm

Không thể không coi xô đặc sắc này: Cirque de Pekin

Các em trai nhảy múa, nhào lộn đầy công phu luyện tập

Xin BẤM VÀO ĐÂY : Les Etoiles Du Cirque De Pekin


Tuổi trẻ tài cao

Tác Giả: SE sưu tầm

Thật đáng khâm phục các em tuổi từ 8 đến 10 tuổi trong ban nhạc The Mini Band. Các em chơi hay và nhà nghề không khác gì ban nhạc trẻ The Beathes ngày xưa

BẤM VÀO ĐÂY xem em Zoe Thompson 8 tuổi chơi guitas thật độc đáo

BẤM VÀO ĐÂY xem ban nhạc The Mini Band chơi thật nhà nghề

Xiệc Thái Lan


Tác Giả: SE sưu tầm

5 Cô gái trẻ, đẹp như hoa, lái xe đạp 1 bánh, dùng chân tung, hứng những chiếc bát, thật là tuyệt vời

Xin BẤM VÀO ĐÂY

Múa Lân Mã Lai


Tác Giả: GuangYi Lion Dance

Nhân dịp Tết, kính mời quý vị thưởng thức một màn Múa Lân rất độc đáo tại Mã La

Chưa thể xẩy ra cách mạng « Mùa Xuân Ả Rập » tại Nga

Tác Giả: Đức Tâm

Chỉ có tầng lớp trung lưu đi biểu tình ở Matxcơva


Một cuộc biểu tình của phe đối lập Nga tại St. Petersburg ngày 14/01/2012.
Reuters

Các cuộc biểu tình trên quy mô lớn từ tháng 12/2011 tại nhiều nơi trên lãnh thổ Nga, được tổ chức thông qua các mạng xã hội, cho thấy có một sự thức tỉnh rõ rệt về ý thức chính trị của công dân.

Thế nhưng, theo các nhà phân tích, « mùa xuân » cách mạng theo mô hình các nước Ả Rập còn lâu mới có thể xẩy ra ở Nga.

Theo các nhà phân tích, có ít nhất là ba yếu tố chính cho phép nhận định như trên: Thành phần tham gia biểu tình, thái độ của chính quyền và nỗi ám ảnh về quá khứ rối loạn.

Tầng lớp trung lưu tham gia biểu tình tại Nga

Kể từ khi ông Vladimir Putin lên cầm quyền, (từ 2000 đến 2008 làm tổng thống, sau đó, trở thành thủ tướng và hiện nay là ứng cử viên nặng ký nhất trong cuộc bầu cử tổng thống), chưa bao giờ phe đối lập Nga lại huy động và tổ chức được các cuộc biểu tình, tuần hành lớn như vậy.

Tuy nhiên, phong trào đấu tranh tại Nga không thể so sánh được với làn sóng biểu tình ở Tunisia, Ai Cập. Tại những nước Ả Rập này, người dân tham gia đấu tranh ngày càng đông đảo, bất chấp các hành động bạo lực và trấn áp của chính quyền.

Còn ở Nga, hàng chục ngàn người đã tham gia hai cuộc biểu tình hồi tháng 12 năm ngoái tại Matxcơva, phản đối những gian lận trong cuộc bầu cử lập pháp ngày 04/12, nhưng họ lại thuộc tầng lớp trung lưu.

Ông Mazen Abbas, thông tín viên của đài truyền hình Al Arabiya, đồng thời là chủ tịch Hiệp hội những người nhập cư Ả Rập tại Nga giải thích với AFP :

« Ở Ai Cập, tầng lớp trung lưu khởi xướng phong trào, nhưng sau đó, các tầng lớp khác trong xã hội đã hưởng ứng, đặc biệt là những tầng lớp nghèo khó nhất.

Tại Nga, tình hình rất khác biệt. Chỉ có tầng lớp trung lưu đi biểu tình ở Matxcơva ».

Các cuộc thăm dò dư luận cho thấy, ngày càng có nhiều dân Nga mong muốn cải cách chính trị, nhưng họ lại chưa sẵn sàng để làm việc này.

Theo cuộc điều tra được công bố cuối tháng 12 năm ngoái của viện Levada, một tổ chức độc lập, phi chính phủ, chuyên về xã hội học và thăm dò dư luận, thì 44% số người được hỏi ủng hộ các cuộc biểu tình, nhưng chỉ có 4% là « sẵn sàng » và 11% « có thể sẵn sàng » xuống đường tuần hành.

Kremlin không thẳng tay đàn áp biểu tình


Mặt khác, phản ứng của chính quyền Nga trước các cuộc biểu tình cũng khác so với thái độ và hành xử của các chế độ độc tài ở các nước Ả Rập : Thay vì thẳng tay đàn áp, Matxcơva áp dụng sách lược chỉ trích, cáo buộc các nhà đối lập ăn lương của Mỹ, do phương Tây giật dây.

Vẫn theo ông Abbas, tại Nga, những người biểu tình không đối mặt với một chế độ độc tài đã tồn tại từ 30 hay 40 năm, mà đó là một « nền dân chủ có lãnh đạo » và người ta vẫn có thể bày tỏ các bất bình.

Trưởng ban biên tập tạp chí « Nước Nga trong chính trị thế giới, », ông Fiodor Loukianov, nhận định là những người ủng hộ ông Putin cũng như phe đối lập đều không có lập trường cực đoan, « đấu tranh tới cùng » : Phía chính quyền hứa tiến hành các cải tổ, cho dù chỉ ở mức tối thiểu, còn phe đối lập thì đòi phải có những thay đổi thông qua bầu cử dân chủ.

Ông nói : « Những người biểu tình có thái độ bất bình, nhưng nhìn chung, họ muốn thịnh vượng hơn, triển vọng tuơng lai sáng sủa hơn, chứ họ không muốn một cuộc cách mạng. Không có những căng thẳng như ở các nước Ả Rập và chính quyền Nga đã phản ứng mềm dẻo hơn ».

Lo sợ tình trạng hỗn loạn

Đồng thời, chuyên gia Loukianov cũng nhấn mạnh là người Nga vẫn còn bị « chấn thương », ám ảnh bởi tình trạng hỗn loạn xẩy ra trong thời kỳ sau khi Liên Xô sụp đổ. Do vậy, họ chống lại mọi chấn động chính trị. « Cách nay 20 năm, sức mạnh cách mạng tiềm tàng của dân Nga đã gây ra những hậu quả trầm trọng và rất nhiều thất vọng ».

Chính quyền Matxcơva hiểu rõ tâm lý này và tìm cách làm tàn lụi phong trào phản kháng, quy kết các nhà đối lập là những phần tử cách mạng nguy hiểm, muốn gây ra hỗn loạn như ở các nước Ả Rập.

Nhật báo chính thức, tờ Rossiiskaia, lập ra diễn đàn « Nước Nga : Hướng tới pháp quyền hay hỗn loạn ».

Trong tháng Giêng này, chủ tịch Tòa Bảo Hiến Nga, ông Valeri Zorkine, đã viết :

« Những người lãnh đạo biểu tình (…) liệu họ có sẵn sàng tuyên bố rằng đất nước của họ hoàn toàn mất tính chính đáng về chính trị và luật pháp và do vậy mất cả chủ quyền ? Liệu họ có sẵn sàng kêu gọi những kẻ thù – đặc biệt là những đơn vị biệt động của các nước trong khối NATO - hỗ trợ thành lập một Nhà nước mới tại Nga theo mô hình Libya ? ».

Một tháng trước cuộc bầu cử tổng thống Nga ngày 04/03, phe đối lập lại kêu gọi biểu tình vào ngày 04/02, để phản đối ông Putin và đòi phải có « bầu cử trung thực ».

Chuyên gia Boris Dolgov, thuộc Trung tâm nghiên cứu các nước Ả Rập, Viện Hàn lâm Khoa học Nga cho rằng điện Kremlin đang đối mặt với một thách thức thật sự.

Ông lưu ý : « Tất cả các cuộc cách mạng ở những nước Ả Rập đều mở đầu bằng các cuộc biểu tình và tại Nga thì có những vấn đề nghiêm trọng trong lĩnh vực xã hội, kinh tế và tội phạm. Liệu sẽ có một sự bùng nổ hay không ? Điều này phụ thuộc nhiều vào những việc mà chính quyền sẽ làm ».

Tập so sánh

Hầu như tất cả những đứa trẻ con mới bắt đầu học vỡ lòng thì cũng là lúc bắt đầu biết và tập so sánh. Nhưng khi những người đã trưởng thành, sự so sánh lại càng phức tạp hơn.

Có muôn ngàn sự việc và vấn đề trong cuộc sống này để chúng ta so sánh. Sự so sánh không có “công thức” tuyệt đối bởi vì vạn vật luôn biến đổi tùy theo môi trường, điều kiện, thể chất, thời gian.

Gần đây người ta đem ra so sánh giữa mọi ngành nghề với nhau, trong đó có ngành nghề và vai trò của người trí thức.

Đúng vậy, không có ngành nghề nào giống ngành nghề nào. Ngành nghề chỉ là một việc làm có thể chỉ thành thạo chuyên môn trong một lãnh vực hay công việc nào đó. Không thể đòi hỏi một anh chăn trâu, làm ruộng đi làm công việc của người trí thức. Nhưng ngược lại, người trí thức có thể sẽ biết chăn trâu, làm ruộng (nếu bị đem đi cải tạo theo ý đảng). Cũng không thể đòi hỏi một chị thợ dệt phải thành thạo trong cái công việc của nhà giáo.

Nhưng người chăn trâu, làm ruộng; chị thợ dệt khác hơn người trí thức về kiến thức.

Có thể anh chăn trâu, làm ruộng chỉ biết đến xóm làng, vườn cây, ao cá nơi anh sinh sống là cùng. Có thể chị thợ dệt chỉ biết đến gia đình chị, cùng lắm thì biết thêm mọi diễn biến trong cái cơ xưởng mà mỗi buổi chị làm việc.

Nhưng người trí thức (hay là người có kiến thức) đương nhiên chỉ giống như những người lao động khác ở cái chỗ tạo sản phẩm theo ngành nghề của mình cho xã hội. Mỗi sản phẩm của mọi ngành nghề có giá trị khác nhau. Nhưng người trí thức ít nhiều sẽ hiểu biết rộng hơn về mọi diển biến chung quanh trong cuộc sống: từ gia đình xã hội cho đến quốc gia. Bảo rằng người trí thức không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội là một tiền đề làm vỏ bọc cho kẻ sống cầu an, cơ hội, vô trách nhiệm

Người ta bảo rằng biết mà không nói là bất nhân; nói mà không biết là bất trí. Nhiều người trí thức Vn lựa chọn sự bất nhân hơn bất trí. Bởi vì mang danh trí thức thì phải ăn nói chừng mực, dè dặt chứ không sẽ bị chửi là bất trí. Thà không nói thì không ai biết là mình bất nhân.

Ở Việt Nam thành phần sống cầu an, cơ hội, vô trách nhiệm càng ngày càng tăng theo thời gian. Chính do đảng cộng sản Vn đã tạo ra tình trạng này. Người lãnh đạo có tài, có kiến thức phải biết vì đâu mà dẫn đến nguyên nhân. Đừng có hòng, tưởng rằng chỉ có “chỉnh” với “đốn” không thôi là đủ!

Bất nhân trong trường hợp vừa nêu khó mà nhận ra. Bởi có nhiều khi bị thiên hạ “hỏi thăm” thì bảo rằng không hay, không biết, chỉ lo công việc chuyên môn; Giá trị của trí thức là sản phẩm do anh làm ra; đừng đòi hỏi người trí thức phải thế này thế nọ.

Không ai có quyền đòi hỏi người trí thức. Nhưng người ta gióng lên tiếng chuông, lúc đó, so ra mới biết tư cách của người trí thức là loại người nào trong tình cảnh nước nhà hiện nay.

Nếu đem so sánh thì người có tinh thần quốc gia, dân tộc khác với kẻ cầu an, cơ hội, vô trách nhiệm ở cái chỗ là sẵn sàng phản biện xã hội theo kiến thức của mình. Nói mà không sợ sai, không sợ thiên hạ bảo rằng bất trí; bất trí cũng mặc kệ, bởi trên đời này có ai mà hoàn hảo.

Nguyễn Dư

Việt Nam hãy đi trước Trung Quốc

Nguyễn Đại Việt

Lê Thị Công Nhân và thế hệ của cô chỉ có một khát vọng là biến đất nước trở thành một cường quốc.



Đất rộng dân đông không phải là một điều kiện cần và đủ để biến thành một cường quốc kinh tế hoặc trở nên bất khả xâm phạm. Trung Quốc đã từng bị mất nước hai lần, tổng cộng gần 400 năm. Khoảng cuối thế kỷ thứ 13, vào thời nhà Tống, Hoa lục (1) bị Mông Cổ chiếm đóng gần một thế kỷ. Năm 1644, nhà Minh bị người Mãn Châu tiêu diệt và cai trị trong 268 năm. Đến đầu thế kỷ 20, quốc gia này lại bị Nhật Bản xâm chiếm và đánh bại. Các nước tấn công đều nhỏ hơn nhiều so với Trung Quốc. Họ chiến thắng là vì quân đội tinh nhuệ và hiện đại hơn. Đặc biệt, các đạo quân của Mông Cổ và Nhật Bản đều được trang bị một vũ khí quan trọng, đó là tư tưởng “chinh phục”. Sau thế chiến thứ II, Nhật Bản đưa tư tưởng ấy vào lãnh vực kỹ thuật để phát triển đất nước theo mô hình kinh tế thị trường tự do. Trong 14 năm, từ 1960 đến 1973, người Nhật đã hoàn tất một nền tảng kinh tế vững chắc, và không đầy 7 năm sau đó, họ đã trở thành một siêu cường về kinh tế (2). Trong khi ấy, hiện tại Trung Quốc chỉ là một nước đang phát triển.

Lãnh thổ Việt Nam nhỏ hơn và dân số ít hơn nước láng giềng, nhưng không có nghĩa là cần phải nghèo và lạc hậu hơn. Họ vẫn có cơ hội và tiềm năng để trở thành một cường quốc kinh tế trước Trung Quốc, nhưng liệu rằng dân tộc này có dám mang tư tưởng đi trước Hoa lục không?

Cuộc hành trình tiến đến vị trí cường quốc kinh tế của Trung Quốc đầy trắc trở và nhiều mâu thuẫn vì ba nhược điểm lớn. Thứ nhất là vì kiên trì đeo đuổi mô hình “kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN)”; thứ hai là gánh nặng về dân số, và thứ ba là bị thế giới tự do xem là một hiểm họa đối với nền an ninh chung của nhân loại. Việt Nam không thể lẽo đẽo đi sau trên con đường dẫn đến vực thẳm ấy. Vì quyền lợi của quốc gia và trật tự của toàn vùng Đông Nam Á, Việt Nam bắt buộc phải đi trước Hoa lục và đi theo lộ trình riêng của mình.

Những nghịch lý của “kinh tế thị trường định hướng XHCN” đang hoành hành và đang tạo ra những trở lực, kềm hãm tiềm năng phát triển một cách lành mạnh của nền kinh tế của quốc gia đông dân nhất thế giới. Sự nguy hiểm của mô thức “kinh tế thị trường định hướng XHCN” không phải chỉ dừng lại trong lãnh vực kinh tế mà nó còn di hại đến nhiều thế hệ tương lai vì những bất công và khoảng cách qúa lớn trong xã hội đang làm thui chột tinh thần trách nhiệm của người dân, đồng thời phá vỡ nền tảng đạo đức và luân lý Khổng Mạnh lâu đời mà dân Trung Quốc luôn hãnh diện.

Những thành qủa của nền kinh tế Trung Quốc trong hai thập niên qua không phải là một ngạc nhiên, mà nó chỉ là một sự tăng trưởng tự nhiên. Nền kinh tế ấy đã không có cơ hội nào để ngóc đầu dậy trong suốt thời gian xây dựng CNXH. Kể từ lúc “đổi mới” đến nay, từ 1979, GDP của quốc gia này đã gia tăng hằng năm từ 9% đến 11% và được xếp hạng tư trên thế giới trong năm 2006 với 2.700 tỷ US dollars, chỉ đứng sau Hoa Kỳ, Nhật và Đức. Tuy nhiên, tính theo GDP per capita và chỉ số HDI (3) thì Trung Quốc vẫn còn là một nước nghèo, lạc hậu, và thua xa Nam Hàn, một tiểu quốc về lãnh thổ và dân số nếu so với Hoa lục, nhưng lại là một cường quốc kinh tế và được xếp trong bảng các quốc gia đã phát triển.

Cho đến nay, vốn liếng duy nhất Trung Quốc dùng để đầu tư vào nền kinh tế định hướng XHCN chỉ là sức lao động của 1 tỷ 3 người. Sở dĩ GDP tăng vọt là do năng xuất lao động của người dân thay đổi khi nền kinh tế chuyên chính vô sản bị phế bỏ. Sự kết hợp ngẫu nhiên của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2000 và việc Hoa lục gia nhập WTO một năm sau đó đã mang lại một cơ hội thuận lợi cho quốc gia này. Trong bối cảnh ấy, các công ty Tây phương nhận thấy lực lượng lao động của Hoa lục có thể giúp họ đạt được mục tiêu cắt giảm gía thành của một số sản phẩm low-tech. Kỹ nghệ gia công của Trung Quốc đã thực sự tăng trưởng mạnh mẽ kể từ lúc ấy, và ngày càng có nhiều công ty ngoại quốc đổ xô vào để khai thác nguồn lao động rẻ mạt kia.


GDP của Trung Quốc từ 1952 đến 2005
Nguồn hình: Wikipedia
Trung Quốc gia công cho thế giới từ những món đồ chơi trẻ em cho đến đôi giày chiếc dép, từ áo quần đến cho đến cái đinh con ốc, cộng thêm một số mặt hàng điện tử đơn giản và thiết bị rẻ tiền khác. Hầu như Trung Quốc độc quyền về ngành sản xuất đồ chơi. Họ có hơn 10.000 hảng xưởng và chiếm 75% thị trường thế giới (4). Một trong những khuyết điểm của nền kinh tế này là khi nào họ nắm được thị trường, thì đó cũng là lúc mà phẩm chất của sản phẩm sắp bắt đầu có vấn đề.

Trong khi các cường quốc dùng sản phẩm trí tuệ (5) để phát triển kinh tế thì Trung Quốc chỉ dựa vào sức lao động tay chân để gia tăng GDP. Do đó, kinh tế của Hoa lục tuy có tăng trưởng nhưng không thể xem đó là dấu hiệu của sự phát triển so với kinh nghiệm của một số quốc gia đã phát triển.

Ngoài chỉ số HDI và GDP per capita, số lượng sản phẩm trí tuệ hoặc bằng sáng chế cũng được xem như là thước đo dùng đánh gía sự phát triển kinh tế của một nước. Ba khu vực chiếm hơn 90% số lượng bằng phát minh của thế giới là Hoa Kỳ, Âu châu, và Nhật Bản. Mặc dù có sự gia tăng về số lượng trong những năm gần đây, nhưng phẩm chất của các bằng sáng chế ở Hoa lục vẫn còn rất thấp so với các cường quốc (6). Theo thống kê năm 2004, cứ mỗi triệu người Nam Hàn thì có khoảng 2.200 đơn xin cấp bằng phát minh so với 51 đơn của Trung Quốc (7). Nam Hàn hiện đang nắm giữ vị trí số một trên thế giới về kỹ thuật đóng tàu và dẫn đầu thế giới về chế tạo và sản xuất DRAM (8).

Một công ty thường xuyên có nhiều sáng kiến và phát minh thì sẽ khó bị cạnh tranh và tạo được thế đứng vững vàng trên thị trường. Một nước càng có nhiều công ty như vậy thì nền tảng kinh tế càng vững bền và tiềm lực phát triển kinh tế của quốc gia ngày càng gia tăng. Để thúc đẩy việc sáng chế, quyền lợi của người hoặc công ty sở hữu cần được luật pháp tôn trọng và bảo vệ. Bảo vệ quyền phát minh là tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Cạnh tranh lành mạnh là cạnh tranh về phẩm chất và giá thành của sản phẩm mà không phải dựa vào “quan hệ”. Hơn nữa, cạnh tranh lành mạnh là một trong những điều kiện cần, nhưng chưa đủ, trong tiến trình chuyển mình để trở thành một cường quốc kinh tế.

Trong một môi trường mà “quan hệ” được dùng làm tiên đề cho mọi giao dịch, và uy lực của nó lại có khả năng mang lại lợi nhuận một cách mau chóng thì sản phẩm trí tuệ chắc chắn sẽ không còn môi trường để phát triển. Nói một cách khác, “quan hệ” đã vô tình giết chết mọi mầm mống sáng tạo. Đó là mâu thuẫn của Hoa lục trong nổ lực để trở thành một cường quốc kinh tế. Không có sản phẩm trí tuệ thì dù lãnh thổ rộng lớn xếp hàng thứ ba và dân số đông nhất thế giới, Trung Quốc chỉ có thể làm gia công và mãi mãi nằm trong danh sách các nước đang phát triển.

Đối với Trung Quốc, tham nhũng không phải là vấn nạn mà là một điều kiện cần để trị quốc. Nói một cách dễ hiểu hơn, tham nhũng là nguồn nhiên liệu dùng duy trì sự hoạt động của guồng máy quốc gia. Ví dụ, nếu tất cả các hành vi tham nhũng không xảy ra trong một khoảnh khắc nào đó, thì cũng chính trong khoảnh khắc ấy, mọi hoạt động trong xã hội đều bị tê liệt. Hơn nữa, nếu bất kỳ một cơ chế nào trong guồng máy quốc gia (và xã hội) không thể chạy bằng loại nhiên liệu đó, thì nó cần phải được thay thế, để sự vận hành của guồng máy không bị gián đoạn. Cho dù bộ phận bị thay thế là ông thủ tướng (9) hoặc một chuyên viên mới được đào tạo từ một trường danh tiếng của Tây phương. Trong nền kinh tế định hướng XHCN, nạn tham nhũng không bao giờ giảm bớt hoặc bị tiêu diệt mà nó chỉ biến dạng.

Năm 1949, bị đánh bại ở lục địa, trên đường rút quân ra đảo Đài Loan, Trung hoa Quốc Dân Đảng (Kuomintang) đã mang theo đoàn quân những thành phần trí thức và thương gia xuất sắc nhất lúc bấy giờ (10). Vì vậy, dù lực lượng chỉ còn khoảng 2 triệu người cộng với 4 triệu dân bản xứ, nhưng nhờ vào những tinh hoa ấy, Tưởng Giới Thạch đã xây dựng được một nền tảng vững chắc cho hòn đảo có diện tích 35.980 cây số vuông và cách bờ biển Đông Nam của Hoa lục chỉ hơn 100 hải lý. Thế giới gọi sự phát triển kinh tế của hòn đảo nhỏ này là một “phép lạ Đài Loan” (11).

Ngược lại, ở lục địa, suốt từ năm 1966 đến 1976, Mao Trạch Đông đã tiêu diệt nguyên cả một thế hệ năng động và sáng tạo qua cuộc Cách mạng Văn hóa khiến sự phát triển của lục địa bị khựng lại và tạo ra một lổ hổng lớn về sự thiếu hụt nhân tài. Lổ hổng này vẫn còn ảnh hưởng đến Trung Quốc về nhiều phương diện mãi cho đến ngày hôm nay. Trong khi đó, vì lẫn lộn giữa Đảng và quốc gia, nhầm lẫn giữa Đảng và nhân dân, nên các thế hệ XHCN khó nhìn ra và tiếp nhận những cái tốt đẹp và văn minh của thế giới tự do khi chủ nghĩa CS bị đào thải và lên án. Chưa nói đến sự lạc hậu về khoa học kỹ thuật, đa số đều thiếu sáng tạo, thiếu trung thực, và sợ trách nhiệm. Vì những khuyết điểm ấy nên phần đông đã không hội nhập được với phong cách làm việc khoa học của Tây phương. Do vậy, dù là một quốc gia có dân số đông nhất thế giới nhưng hiện nay số lượng chuyên viên của Trung Quốc vẫn khan hiếm.

Trong một cuộc nghiên cứu vào năm 2005 của viện McKinsey Global (12), họ đã phỏng vấn 83 nhà chuyên môn ngoại quốc về nghành thuê mướn nhân sự (human resource) ở Trung Quốc. Lần thăm dò này cho biết, trong tổng số những ứng viên có bằng cấp thì chỉ có ít hơn 10% là đạt tiêu chuẩn để làm việc cho các công ty ngoại quốc. Họ là những kỹ sư thông minh và làm việc siêng năng nhưng hầu như đa số đều không có khả năng giải quyết vấn đề (problem solving skill) và không có khả năng suy nghĩ những điều mới lạ (thinking outside the box).


Tăng trưởng của GDP (nominal) của South Korea's GDP 1960 to 2007
Nguồn hình: mtholyoke.edu
Hiện tại, Hoa lục có khoảng 1.600.000 kỹ sư, nhiều hơn bất kỳ nước nào trên thế giới. Thế nhưng, khi so sánh phẩm chất và năng xuất của kỹ sư Trung Quốc với kỹ sư của các cường quốc thì con số 1.600.000 kia chỉ còn lại 160.000, ít hơn cả số lượng kỹ sư của Nam Hàn, một quốc gia với dân số chỉ bằng 1/26 của Trung Quốc.

Mặt khác, tuy có hơn 1 tỷ 3 dân, nhưng trong số ấy có khoảng 800 triệu người đang sống ở các vùng nông thôn (13) và có mức thu nhập bình quân khoảng hơn 1 đô la mỗi ngày (14). Trong khi ấy, chỉ hơn một thập niên trở lại đây, Trung Quốc đã sản xuất trên 300.000 triệu phú (15) và khoảng 650.000 người bị nhiễm HIV/AIDS (16). Bên cạnh đó, sự bất ổn trong đời sống người dân ngày càng gia tăng do những bất công trong xã hội mang lại. Riêng trong năm 2003 có khoảng 58.000 vụ biểu tình và xung đột giữa người dân với chính quyền địa phương. Con số này lên đến 87.000 vụ trong năm 2005 .Về giáo dục, trong lứa tuổi từ 15 trở lên, có đến 74% dân nông thôn và khoảng 41% dân thành thị hoặc bị mù chữ hoặc chưa học hết bậc tiểu học (17)

Hoa Kỳ là nước phát minh ra kỹ thuật IC vào năm 1958. Từ đó đến nay, hàng năm các cường quốc kinh tế đã đầu tư nhiều tỷ đô la và chất xám trong việc nghiên cứu, phát triển, và ứng dụng IC vào nhiều lãnh vực khác nhau như điện toán, truyền thông, sản xuất, giao thông, và cả Internet. Một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, mọi sinh hoạt hàng ngày của con người trong thế kỷ 21 đều có sự hiện diện của kỹ thuật này. Điện thoại di động là một ví dụ điển hình.

Thành công rực rỡ trong kỹ nghệ gia công, Trung Quốc có tham vọng đi vào kỹ nghệ hi-tech và họ đang nhắm vào thị trường IC. Về lãnh vực này, tính đến cuối năm 2004, Hoa lục có khoảng 50 nhà máy sản xuất “wafers”, 102 xưởng lắp ráp và đóng bao bì
(IC packaging), cùng với 457 trung tâm thiết kế (design house). Trong đó ngành đóng bao bì chiếm phần lớn tổng số doanh thu của kỹ nghệ IC ở Hoa lục. Mặc dù được sự góp sức của một số chuyên viên Trung Quốc từ hải ngoại, nhưng tất cả các thiết bị và kỹ thuật đều do các công ty ngoại quốc cung cấp và hướng dẫn. Dẫu vậy, cho đến nay, nghành IC của Hoa lục cũng chỉ có khả năng xử dụng kỹ thuật (CMOS process) thuộc các thế hệ cũ (18).

Trung Quốc chỉ mới thực sự bước vào lãnh vực này từ năm 2000 và hoàn toàn không có khả năng đuổi kịp các cường quốc về kỹ thuật IC nếu không được sự hỗ trợ tích cực của họ. Việc chia xẻ kỹ thuật hiện đại của các nước tự do với Trung Quốc là điều khó xảy ra, cho dù việc trao đổi đi kèm với những lợi nhuận khổng lồ. Thứ nhất là vì lý do cạnh tranh, nên các cường quốc không thể san xẻ với Hoa lục tất cả kinh nghiệm về IC. Có chăng là các kỹ thuật lỗi thời dùng để gia công một số sản phẩm rẻ tiền. Thứ hai, là vì thế đối nghịch của Trung Quốc đối với thế giới tự do. Các cường quốc vẫn xem Hoa lục là mối hiểm họa cho nền an ninh của thế giới, nên họ kiểm soát nghiêm ngặt và giới hạn việc cung cấp kỹ thuật hi-tech cho Trung Quốc. Chính sách này không những chỉ áp dụng riêng cho nghành IC, mà còn có hiệu lực đối với một số sản phẩm hoặc các kỹ nghệ chiến lược khác. Do vậy, Trung Quốc sẽ không thể nhảy vọt từ một nước gia công để trở thành một nước kỹ nghệ tiên tiến trong một thời gian ngắn và trong hoàn cảnh chính trị hiện tại như họ mong muốn.

Biên giới trên lục địa của Trung Quốc đi ngang qua 14 quốc gia láng giềng (19). Tất cả đều được gọi là những nước đang phát triển, nghĩa là những nước nghèo và đời sống người dân còn thấp kém. Tuy là láng giềng, nhưng quan hệ giữa các lân quốc và Trung Quốc không mấy tốt đẹp. Các quốc gia này xem Hoa lục là một hiểm họa hơn là một đồng minh, vì Trung Quốc chưa bao giờ tỏ ra có thiện ý đối với các nước chung quanh, lại càng không muốn nhìn thấy họ vươn lên, cho dù sự vươn lên ấy sẽ mang lại thịnh vượng và ổn định lâu dài cho toàn vùng.

Một phần tư chiều dài lịch sử của nước Việt cũng mang đầy sẹo và thương tích vì những kinh nghiệm không mấy vui với quốc gia có dân số đông hơn mình 15 lần. Ngay trong hiện tại, tuy là bạn đồng hành duy nhất của nhau trên lộ trình “socialist reform", nhưng cả hai đều ngầm hiểu rằng, mọi hợp tác chỉ có tính cách giai đoạn, che đậy những chuổi hiềm khích và bất đồng ngấm ngầm kéo dài từ qúa khứ đến hiện tại. Đã yếu lại không có đồng minh, nên Việt Nam thường phải chấp nhận nhiều thiệt thòi trong mọi đàm phán về kinh tế lẫn chính trị với Hoa lục. Để hóa giải những áp lực này, Việt Nam cần phải nhanh chóng trở thành một cường quốc kinh tế.

Việt Nam cần nghiên cứu và xử dụng vốn liếng và sản phẩm trí tuệ chung của nhân loại. Mô hình kinh tế thị trường tự do đã thành công trong việc biến nhiều nước trở thành các quốc gia đã phát triển và một số siêu cường trên thế giới, trong số đó có các nước trong vùng như Nhật, Nam Hàn, Đài Loan, Singapore, và Hồng Kông. Mô hình kinh tế này vốn đã trải qua một qúa trình dài thử thách lẫn thực nghiệm, đồng thời được mài dũa liên tục bởi sự tiến hóa của con người. Điều này hàm ý rằng, một cách gián tiếp, dân tộc Việt cũng đã đóng góp xương máu cho sự tiến hóa và phát triển của mô thức đó.

Ba nhược điểm lớn của Trung Quốc cũng chính là cơ hội để Việt Nam vươn lên, đi trước, và trở thành một cường quốc kinh tế. Có thể xem đây là lần đầu tiên và là cơ hội duy nhất để dân tộc này vượt qua người Hán kể từ khi lập quốc đến nay. Thế nhưng, người Việt cần phải hiểu rằng, sự vươn lên ấy hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định và lựa chọn của họ.


Thủ đô Seoul (South Korea)
Nguồn hình: http://utkusa.com
Để mọi người cùng nhau bước vào một vận hội mới, mở ra một tương lai sáng lạn và rực rỡ cho dân tộc, Việt Nam hãy mạnh dạn chấm dứt cuộc thí nghiệm mô hình “kinh tế thị trường định hướng XHCN”, tạo một môi trường lành mạnh và thích hợp cho tinh thần trách nhiệm được hồi sinh và biến tư tưởng chinh phục trở thành một nếp văn hóa dân tộc, tất cả những hành động và thay đổi ấy là dấu hiệu khẳng định Việt Nam đang đi trước Trung Quốc.





© DCVOnline



(1) Trung Hoa lục địa, tên gọi Trung Quốc dưới thời VNCH, gọi tắt là Hoa lục.
(2) Khactu, Dominique N., “Japan Since 1945: The Rise of an Economic Superpower.”,
Jan, 1997, Southern Economic Journal.
(3) GDP per capita: Lợi tức mỗi đầu người.
The Human Development Index (HDI): chỉ số phát triển con người.
(4) Chris Buckley, “The patent pitfalls on China's road of clones”, June 2005,
International Herald Tribune.
(5) Intellectual Property (IP).
(6) “IPR development in national plan”, Jan. 2007, China Daily.
(7) Mark LaPedus, “Updated: Elpida, Hynix shine in DRAM rankings”, Feb. 2007,
EETimes.
DRAM: Dynamic Random Access Memory - bộ nhớ, dùng trong computer, một
ứng dụng của kỹ thuật IC.
(8) Hannah Clark, “China's Patent Power”, Oct. 2006, Forbes.
(9) Elaine Wan, “Rooting Out Corruption In China”, April 1999, The Tech Online Edition.
Zhu Rongji, Thủ tướng Trung Quốc: “Để tiêu diệt tham nhũng, tôi cần chuẩn bị
10 cỗ quan tài. Chín cái giành cho những kẻ tham nhũng và cái còn lại có thể là của tôi.”

(10), (11) Source: Wikipedia.
(12) McKinsey Global Institute.
(13) US-China Business Council, “China’s Economy”, April 2006.
Năm 2005, lợi tức trung bình ở vùng nông thôn là 406.31 US đô la/năm
(14) Báo cáo 2005 của The National Bureau of Statistics tường thuật bởi
ChinaToday:Trung Quốc hiện có khoảng 800 triệu người sống ở vùng nông thôn.
(15) Douglas Wong “Singapore's Millionaires Increase at Fastest Pace in World”, June 2005, Bloomberg, Singapore.
(16) Office of the State Council Working Committee on AIDS “Progress on
Implementing Ungass Declaration of Commitment in China 2005”
, Dec. 2005,
China.
(17) Maria Manuela Nevada DaCosta and Jianjun Ji, “Rural-Urban Economic
Disparities Among China Elderly”
, Aug. 2004, University of Wisconsin-Eau Claire.
(18) Zhu Zhongyu, “China’s IC Industry, The Status Quo and Future”,
2005, China Semicondcutor Association, presented at Stanford University.
(19) Afghanistan, Bhutan, India, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Laos, Mongolia, Myanmar,
Nepal, North Korea, Pakistan, Russia, Tajikistan, and Vietnam.

Trí thức, phản biện, và Ngô Bảo Châu

Phan Bạch Quán


Gần đây, cộng đồng mạng xôn xao vì lời phát biểu của Giáo sư Ngô Bảo Châu về vai trò phản biện của trí thức. Tôi tuy sống ở nước ngoài nhưng vẫn thường xuyên theo dõi các hoạt động của Ngô Bảo Châu nên cũng muốn bày tỏ ý kiến của mình về việc này.

Để tiện cho bạn đọc theo dõi, tôi xin được dẫn nguyên văn câu hỏi của phóng viên Tuổi Trẻ Cuối Tuần và câu trả lời của Ngô Bảo Châu (1):

TTCT: TTCT: Gần đây phong trào phản biện của giới trí thức ngày càng sôi nổi. Thậm chí người ta còn cho rằng người lao động trí óc sẽ chưa đạt tầm của một trí thức nếu chỉ biết làm công việc chuyên môn của mình mà chưa bộc lộ được năng lực phản biện xã hội. Giáo sư suy nghĩ thế nào về trách nhiệm phản biện xã hội của giới trí thức cũng như vai trò của giới trí thức trong xã hội?

NBC: Tôi không đồng ý với việc coi phản biện xã hội như chỉ tiêu để được phong hàm “trí thức”. Đến bao giờ chúng ta mới thôi thi đua để được phong hàm “trí thức”?

Đối với tôi, trí thức là người lao động trí óc. Cũng như những người lao động khác, anh ta cần được đánh giá trước hết trên kết quả lao động của mình. Theo quan niệm của tôi, giá trị của trí thức là giá trị của sản phẩm mà anh ta làm ra, không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội.

Mặt khác, cần trân trọng những người trí thức, hoặc không trí thức, tham gia công tác phản biện xã hội. Không có phản biện, xã hội đã chết lâm sàng.

Những người có học, có tri thức thật ra cần phải rất tỉnh táo khi tham gia việc phản biện xã hội. Học hàm, học vị không thể đảm bảo rằng cái anh nói ra là mặc nhiên đúng. Với thói quen làm việc khoa học của mình, cái mà anh có thể làm là đưa ra những lập luận vững chắc và có tính thuyết phục. Nhà lãnh đạo văn minh, có bản lĩnh sẽ biết lắng nghe những lập luận đó. Họ có thể làm theo hoặc không làm theo kết luận của anh. Trong trường hợp họ không làm theo, vẫn dưới giả thiết là lãnh đạo văn minh và có bản lĩnh, lãnh đạo sẽ phải đưa ra những lập luận ít nhất cũng vững chắc bằng những lập luận của anh để bảo vệ quyết định của mình.

Ngô Bảo Châu định nghĩa trí thức là những người tạo ra sản phẩm trí tuệ cho xã hội, và họ có quyền chọn phản biện hay không phản biện. Ông Châu không coi “phản biện xã hội” là một chỉ tiêu mà người trí thức buộc phải có. Tuy nhiên, ông vẫn cho phản biện xã hội là một thái độ tích cực mà mọi người, trí thức hay không trí thức, đều nên làm để giúp xã hội tốt đẹp hơn.

Những ý kiến phản đối Ngô Bảo Châu cho rằng lời tuyên bố trên của ông sẽ là cái cớ khiến cho nhiều người có chuyên môn, bằng cấp, học vị càng thấy họ đúng khi giữ thái độ thờ ơ trước hiện tình nguy khốn của đất nước, nói nôm na là làm cho đám “trí thức trùm chăn” càng có cớ để trùm chăn kỹ hơn nhưng vẫn vênh mặt tự hào mình là giới trí thức.

Trong những ý kiến phê bình Ngô Bảo Châu, tôi đồng ý nhất với ý kiến của Giáo sư Nguyễn Huệ Chi (khi trả lời phỏng vấn của BBC) nên xin được trích dẫn ra ở đây (2):

“Đã là trí thức thì phải là người có tầm, có trách nhiệm và nghĩa vụ xã hội. Cho nên tôi nghĩ phản biện xã hội là chức năng của trí thức, chứ không phải là chức năng của ai hết. […] Nếu anh cặm cụi với chuyên môn của anh, để anh làm ra một loạt sản phẩm cho xã hội, thì anh mới chỉ là một người chuyên nghiệp trong một chuyên ngành nào đấy thôi, chứ không phải là trí thức, hiểu theo nghĩa là người hiểu biết và dẫn dắt xã hội. Mà hướng dẫn cộng đồng, tất nhiên là anh phản biện. Mà phản biện thì anh phải phản biện trên tinh thần độc lập, không bị lệ thuộc vào bất cứ thế lực nào khác, thì đó mới là trí thức.

Giáo sư Ngô Bảo Châu cũng đã nói đến cái phần sau là nếu không có phản biện thì xã hội chết lâm sàng. Nhưng trách nhiệm của cái xã hội chết lâm sàng ấy không đặt vào vai của trí thức thì đặt vào vai ai? Cho nên tôi nghĩ chính Giáo sư Ngô Bảo Châu mâu thuẫn, bị rơi vào mâu thuẫn, chứ thực ra thì anh ấy nói cũng không sai.”

Như thế, ngược lại với Ngô Bảo Châu, ông Nguyễn Huệ Chi cho rằng “phản biện xã hội” là tiêu chuẩn không thể thiếu của người trí thức. Nói theo ngôn ngữ toán học thì muốn trở thành trí thức điều kiện Cần là tạo ra sản phẩm trí tuệ tốt, nhưng điều kiện Đủ là phải có trách nhiệm với xã hội, tức là phải tham gia phản biện.

Một câu hỏi đặt ra ở đây: “Tại sao ông Nguyễn Huệ Chi lại cho rằng trí thức có trách nhiệm là phải tham gia phản biện xã hội?”

Để trả lời câu hỏi này tưởng cũng nên nhắc lại việc chế độ Cộng Sản thường bắt dân chúng phải biết “phê bình và tự phê bình”, gọi đó là cách thức chỉnh đốn cán bộ và làm trong sạch xã hội. Sự thật thì việc “phê và tự phê” chỉ được áp dụng cho người dân mà thôi, còn Đảng và Nhà nước thì được miễn trừ, không ai được quyền phê bình Đảng, cái-gọi-là “đỉnh cao trí tuệ”. Điều này miền Bắc đã phải chịu suốt 20 năm (1954-1975), và sau đó cả nước đã phải chịu thêm hơn 30 năm nữa.

Thế nhưng trong vài năm gần đây tình hình đã thay đổi, với sự bùng nổ về Internet, ngày càng nhiều người dám lên tiếng công khai chỉ trích phê bình những quyết định của Đảng và Nhà nước XHCNVN. Và rồi người ta không dùng chữ “phê bình” mà dùng nhóm chữ “phản biện xã hội”. Vì thế khi khi nói tới “phản biện xã hội ” thì ai ai cũng hiểu đó là “phê bình những chính sách do Đảng đề ra”, nôm na là “lên tiếng cãi lại Đảng”.

Trong quá khức Ngô Bảo Châu cũng đã hai lần tham gia “cãi Đảng”, một là vụ khai thác bô xít Tây Nguyên, hai là vụ kết án Luật sư Cù Huy Hà Vũ. Chính vì thế câu trả lời của ông lần này khiến nhiều người bị sốc, sốc đến mức có người còn cho rằng Ngô Bảo Châu “đổi chiều” chỉ vì ông đã được dúi cho căn nhà trị giá 2 tỷ (VN), và mới đây, được hứa cho ngân sách 600 tỷ để hoạt động Viện Nghiên cứu Cao cấp về Toán mà Gs Ngô Bảo Châu làm giám đốc.

Một điểm nữa làm cư dân mạng sôi sục là vì cái giọng kẻ cả của ông giáo sư toán như trong câu: “Những người có học, có tri thức thật ra cần phải rất tỉnh táo khi tham gia việc phản biện xã hội”, hay: “Cái mà anh có thể làm là đưa ra những lập luận vững chắc và có tính thuyết phục”. Ngô Bảo Châu đang muốn khuyên răn ai đây? Từ trước tới giờ người ta thấy chỉ có Đảng mới là không tỉnh táo và không bao giờ đưa ra được những lập luận nào vững chắc hay có tính thuyết phục cả.

Đúng ra, giới chuyên môn đã quá ngán ngẩm với những kẻ dốt nát nhưng lại thích giữ quyền chỉ đạo. Nói như Kiến trúc sư Võ Thành Lân, đó là những người không biết vẽ nhưng lại có khiếu làm người biết vẽ mất hứng. Nhiều chuyên gia đã dám công khai chống lại đường lối sai lầm của Đảng, một số đã bị bắt, trong đó có Cù Huy Hà Vũ, Lê Công Định, Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Trần Quốc Hiền, Phạm Minh Hoàng, v.v...

Cái cách lảng tránh định nghĩa thực sự của nhóm chữ “phản biện xã hội” của Ngô Bảo Châu làm nhiều người thất vọng. Và dường như ông Châu cũng tự biết rằng mình không được thành thật cho lắm nên ông đã phải giải thích khá lòng vòng dông dài, điều này trái ngược với phong cách ngắn gọn và chắc nịch trong những lời ông từng phát biểu trước kia.

Riêng với tôi, tôi quý trọng Ngô Bảo Châu không phải vì ông là một thiên tài về toán mà vì ông rất hiếu học. Một bằng chứng cho lòng hiếu học là Ngô Bảo Châu thường phỏng vấn những giáo sư khác tuy những người này không nổi tiếng thế giới như ông. Tôi cho đó là sự khiêm tốn đáng quý, nhất là ở người vừa trẻ vừa tài như Ngô Bảo Châu.

Trong lúc này đây, những người có tâm huyết với đất nước đang đứng trước những chọn lựa hết sức khó khăn: Một là lên tiếng phản kháng để sẽ vào tù – Hai là ẩn nhẫn chờ thời, nhịn nhục làm việc với nhà cầm quyền để có dịp đào tạo những thế hệ trẻ tài năng cho đất nước. Tôi nghĩ Ngô Bảo Châu cũng đang phải chịu sự dằng co tinh thần gai góc như thế.


Bộ óc
Nguồn ảnh: http://home.iae.nl
Thành thật mà nói, tôi không trách Ngô Bảo Châu. Câu chuyện này chỉ làm tôi nhớ đến một lời nói của vị tổng thống thứ nhì của Hoa Kỳ, Tổng thống John Adams (3), “I must study politics and war, that my sons may have the liberty to study mathematics and philosophy, natural history and naval architecture, in order to give their children a right to study painting, poetry, music, architecture, tapestry, and porcelain.”

(Tạm dịch: “Tôi phải học chính trị và quân sự để rồi những đứa con tôi được tự do được học toán và triết, lịch sử thiên nhiên và kiến trúc hàng hải, để rồi cho con cái chúng cái quyền được học vẽ, học làm thơ, học nhạc, học kiến trúc, dệt vải, và làm đồ gốm.”)

Ông John Adams đâu có cho việc làm một nhà chính trị hay một nhà quân sự là cái gì ghê gớm đâu, chỉ là việc chẳng đặng đừng. Khi đất nước còn đang trong cơn hỗn loạn, dân tộc tan tác và giặc ngoài đe dọa thì làm sao một người may mắn được học hành hơn người có thể ngồi yên và chỉ biết cặm cụi với chuyên môn.

Nhờ những người có học và dám dấn thân như Luật sư John Adams mà một trăm năm sau người dân Mỹ được quyền sống chọn lựa, họ có quyền sống cái đời tầm thường của một chuyên viên, nông dân, thợ thủ công,…; họ không được ai gọi là “trí thức” nhưng vẫn có đầy đủ tự do-bình đẳng-hạnh phúc.
Hành động hy sinh ý thích riêng để gánh lấy trách nhiệm của Tổng thống John Adams nhắc cho chúng ta nhớ rằng: “Trách nhiệm của cái xã hội chết lâm sàng ấy không đặt vào vai của trí thức thì đặt vào vai ai?”

Cuối cùng, tôi cũng đồng ý thêm với ông Nguyễn Huệ Chi, “Nếu Ngô Bảo Châu không muốn làm công việc phản biện thì vẫn có những người khác làm”. Quả thực, chúng ta đã có những Nguyễn Văn Hải-Điếu Cày, Phạm Thanh Nghiên,Đoàn Huy Chương, Bùi Chát, Như Quỳnh-Mẹ Nấm, Đỗ Thị Minh Hạnh, Huỳnh Thục Vi, Bùi Minh Hằng, Việt Khang, và rất nhiều người khác nữa . Những người này chưa đủ tiêu chuẩn là “trí thức” nhưng tiếng nói của họ chẳng phải vì thế mà kém giá trị hay không vang xa.

© DCVOnline




(1). GS Ngô Bảo Châu: bạn trẻ vẫn đầy niềm tin tương lai, Thư Hiên, Tuổi Trẻ Cuối Tuần, 22/01/2012
(2). GS Ngô Bảo Châu “tự mâu thuẫn”, Quốc Phương, BBC, 23/01/2012
(3). Tổng thống John Adams (1735-1826) tốt nghiệp Đại học Havard môn luật. Con trai ông, John Quincy Adams, sau trở thành vị tổng thống thứ sáu của Hoa Kỳ.


Thông Báo số 2 của Tuổi Trẻ Yêu Nước

Về việc: Gây quỹ cho nhạc sĩ Việt Khang và Tuổi Trẻ Yêu Nước

Từ tháng 9 năm 2011, một số thành viên trong Tuổi Trẻ Yêu Nước gồm sinh viên Nguyễn Thiện Thành, nhạc sĩ Việt Khang và nhạc sĩ Hoàng Nhật Thông tức Trần Vũ Anh Bình bị nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam (CSVN) bắt sau một thời gian hoạt động rải truyền đơn đòi tự do nhân quyền, đòi công bằng xã hội, sáng tác nhạc nói lên tình trạng khổ đau của xã hội và đất nước, và tham gia những cuộc xuống đường chống Trung Quốc xâm lược. Nay sinh viên Nguyễn Thiện Thành đã được cứu thoát đến một nơi an toàn, còn nhạc sĩ Việt Khang và Hoàng Nhật Thông đang bị nhà cầm quyền CSVN biệt giam tại công an PA24, số 4 đường Phan Đang Lưu thành phố Sài Gòn.

Đặc biệt Tuổi Trẻ Yêu Nước có hai bản nhạc “Việt Nam Tôi Đâu?” và “Anh là Ai?” do nhạc sĩ Việt Khang sáng tác đã đi vào lòng người, và được đón nhận trong sự mến mộ của đồng bào trong và ngoài nước.

Trong những ngày qua, có nhiều cá nhân, tổ chức đã gọi điện thoại và gửi email đến Tuổi Trẻ Yêu Nước qua trang nhà www.tuoitreyeunuoc.com để ủng hộ tài chánh và giúp đỡ cho Tuổi Trẻ Yêu Nước và nhạc sĩ Việt Khang.

Tuổi trẻ Yêu Nước chân thành cám ơn sự yểm trợ và tình cảm của các bạn trẻ, cô chú bác và ông bà tại Hải Ngoại, những nghĩa cử đó là sự cổ động lớn lao cho Tuổi Trẻ Yêu Nước dấn thân và là niềm cổ động tinh thần lớn lao cho nhạc sĩ Việt Khang và Hoàng Nhật Thông đang ở trong tù được kiên cường và vững mạnh.

Để giữ được sự trong sáng của Tuổi Trẻ Yêu Nước mà nhạc sĩ Việt Khang là một thành viên, Tuổi Trẻ Yêu Nước xin chân thành nhận tấm lòng của quý vị về mặt tinh thần. Hiện nay, Tuổi Trẻ Yêu Nước không nhận tài chánh “quyên tiền” của bất cứ hội đoàn, đoàn thể, cá nhân nào đôi với Việt Khang và Tuổi Trẻ Yêu Nước mà không có đại diện của Tuổi Trẻ Yêu Nước.

Tuổi Trẻ Yêu Nước đặc biệt cám ơn nhạc sĩ Trúc Hồ-Giám Đốc Đài Truyền Hình SBTN và ban điều hành của Đài đã liên tục vận động cho nhạc sĩ Việt Khang và Tuổi Trẻ Yêu Nước.

Chân thành cám ơn sự quý mến của các bạn, cô chú bác và ông bà đối với Tuổi Trẻ Yêu Nước

Trân trọng;

Ngày 28 tháng 1, 2012

Tuổi Trẻ Yêu Nước Hà nội-Huế-Sài Gòn

—0O0—

San Jose: Lễ Thượng Kỳ Đầu Năm 2012.

Hôm nay, thứ Bảy 28 tháng 1, 2012 đồng bào tụ họp trước tiền đình quận hạt Santa Clara để dự lễ Thượng Kỳ Đầu Năm do Ban Đại diện Cộng Đồng Việt Nam Bắc California tổ chức. Hai lá đại kỳ Việt-Mỹ được trân trọng kéo lên, kèm theo những lời chúc Tết từ và các quan khách Việt Mỹ. Trong phần chúc Tết ông chủ tịch Cộng đồng Nguyễn Ngọc Tiên đã kêu gọi đồng bào đoàn kết với nhau trong công cuộc chiến đấu giải thể chế độ độc tài cộng sản và trước nguy cơ mất nước về tay Trung Cộng. Ông cũng kêu gọi đồng bào ủng hộ các chiến sĩ trẻ đấu tranh trong nước đang bị cộng sản giam cầm. Nhiều thỉnh nguyện thư gởi đến các dân biểu Hoa Kỳ đã được phân phối để ký tên xin giải cứu nhạc sĩ Việt Khang đang bị CS giam cầm phi lý.

Hàng trăm ổ bánh mì thịt cũng được tiệm bánh mì Phát Trí gởi đến đồng hương trong ngày đầu Xuân. Xin cám ơn tiệm bánh Phát Trí. Đoàn lân Vovinam do chị Cẩm Bình và chị Kim Trang hướng dẫn đến giúp vui đồng bào đã được hoan hô nồng nhiệt.

Xin gởi đến quý vị một số hình ảnh ghi nhận được.
Nhóm Vietlist.

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

LeThuongKySanJose

----------o0o----------
Powered By Blogger